Thứ Năm, 21 tháng 3, 2024

PHỤ LỤC IV / HÀNH TRẠNG ĐỨC GIÁO TÔNG NGUYỄN NGỌC TƯƠNG / 2024

 


IV. BÀI CHÚC TỤNG NGÀI NGUYỄN NGỌC TƯƠNG

Bổ sung hành trạng tiền khai Nguyễn Ngọc Tương, hai nhà nghiên cứu THANH MINH (Thái Hoàng Tú) và PHẠM KHOA cung cấp văn liệu sau đây (thư Chợ Lớn, ngày 05-02-2024).

Tôn trọng lối viết và cách dùng chữ của lớp tiền nhân, vẫn giữ nguyên văn của ông Phan Kim Tố,([1]) Huệ Khải chỉ sửa lỗi chánh tả, chú thích từ ngữ; để cho gọn, có lược bớt một đôi dòng không cần thiết, và đánh dấu chỗ lược bớt là (...).

Huệ Khải trân trọng đa tạ tấm lòng hai nhà nghiên cứu Thanh Minh và Phạm Khoa. (Nhiêu Lộc, 23-02-2024)

Bài chúc cho quan chủ quận NGUYỄN NGỌC TƯƠNG

đổi đi trấn nhậm quận Cần Giuộc (Chợ Lớn)

Bẩm quý Ông, cùng quý Thầy,

Bữa tiệc đây, trước có quý ông, sau có quý thầy, cho phép tôi đọc một bài cung tụng ([2]) đức tánh của quan Huyện ([3]) Nguyễn Ngọc Tương, trước hết sự liêm công mẫn cán,([4]) sau nữa bề ([5]) cư xử của Ngài đối đãi với với dân tình xã hội, lúc Ngài trấn nhậm tại quận Hòn Chông ([6]) nầy:

Bẩm quý Ông, cùng quý Thầy, (...).

Từ ngày Ngài trấn nhậm quận nầy tới nay, trước hết Ngài siêng lo việc quốc sự, lấy đức trị dân, khai kinh ([7]) mở ruộng, dạy dân lo nghề nông nghiệp, nhờ vậy mà dân bổn xứ ([8]) đặng an cư lạc nghiệp, chẳng có quân trộm cướp như khi trước. Ngài lấy lời nhỏ nhẹ mà dạy dân như con đỏ,([9]) bất luận kẻ sang người hèn, nên dân xứ khác mến đức của Ngài, tới đây xin nhập bộ ([10]) hai làng đông đảo hơn hết, nên Ngài chia cho dân mỗi người một ít đất đặng lo khai phá làm ruộng cho có chút tư bổn ([11]) mà tự độ thê nhi.

Bởi vậy nên mấy năm nay, tiền công nho ([12]) và dân số trong làng Bình Trị và An Bình ([13]) đều tăng số. Ngài lại lo tu cất cho làng An Bình một tòa vỏ ca,([14]) làng Bình Trị một cái đình Thần và lo xin cho có sắc Thần Hoàng Bổn Cảnh ([15]) của Đại Triều Nam phong cấp.([16]) Những công trình của Ngài sáng tạo ra đây, ấy là cái yêu dấu của Ngài nêu trước mắt muôn dân, đáng kính đáng phục, đáng lưu truyền danh ư hậu thế.([17])

Còn nói qua bề cư xử của Ngài đối đãi với bọn làm việc chúng tôi tại Hòn Chông nầy, thì Ngài lấy sự tử tế mà dạy chúng tôi và thương chúng tôi chẳng khác nào em ruột vậy, và Ngài chẳng có ý tư riêng mà làm hại kẻ dưới tay của Ngài. Thứ nhứt là tôi đây, làm việc dưới quyền của Ngài, thì Ngài coi tôi như ruột rà, Ngài thường răn dạy tôi việc ở đời, phải rán lo làm ăn cho kịp thời với chúng bạn, lánh việc xấu mà noi gương tốt. Ngài còn dạy tôi nhiều điều hữu ích cho nhơn quần xã hội, kể sao cho xiết. Nhờ ơn giáo huấn của Ngài nên ngày nay tôi mới tập thuần tánh nết. Chẳng phải có Ngài đây mà tôi nói theo ([18]) Ngài, ấy là sự thật, có sao tôi nói vậy, chẳng chút chi thêu dệt. Nay đang giữa đời, Ngài đắc lịnh quan trên, trỗi gót lên đường, thẳng tới quận Cần Giuộc mà trấn nhậm, đoạn bứt niềm sư đệ, thật tôi rất đau lòng xót dạ khiến cho lương tâm tôi chẳng chút nào nguôi.

Thương thay! Tiếc thay!

Thương là thương tánh tình Ngài hiền hậu, đức hạnh khiêm hòa, bề cư xử rất nên tao nhã. Còn tiếc là tiếc công mở mang của Ngài chưa được thành tựu, khiến cho quan trên vội đổi Ngài đi, làm cho dân tình lơ láo chắc là đám dân khờ nầy, phải buông trôi theo dòng nước.

Các công việc của Ngài làm cho ích nước lợi dân tại quận Hòn Chông nầy, từ bốn năm một tháng có dư, nào chánh phủ có rõ biết công lao cực khổ của Ngài dầm sương, dang nắng nơi hang sâu, rừng vắng chăng? Duy có dân tình bổn xứ đây biết mà thôi, nào ai dám kêu ca cho thấu tai chánh phủ mà thưởng công Ngài cho xứng đáng. Ước ao sao cho chánh phủ để Ngài ở lại ít năm nữa, thời mới vừa lòng thỏa nguyện của chúng dân.

Xét cho trường ([19]) quan lại, việc thuyên bổ là lẽ thường. Nay có giấy quan trên thuyên bổ Ngài đi trấn nhậm quận khác, ấy là việc nước, chẳng phải ai mà làm cho Ngài đổi ([20]) đặng, và chẳng phải Ngài sợ ai ganh ghét mà Ngài xin đổi, cũng có một ít người vô lương tâm, ganh ghét Ngài nên ngôn dực trường phi ([21]) nói rằng Ngài bị việc mà đổi, vậy tôi khuyên bá tánh chớ tưởng mà lầm và chẳng nên nghe lời đồn huyễn ([22]) ấy mà buồn lòng vô ích. Chúng tôi cũng ước ao sao cho Ngài tái nhậm lại một lần nữa, thì chúng tôi mới phỉ ([23]) lòng mơ ước.

Vậy thì bữa tiệc đây, xin Ngài dùng cạn ly rượu này là ly rượu của chúng tôi kính chúc cho Ngài và bửu quyến Ngài thượng lộ đăng trình,([24]) khương ninh ([25]) vĩnh viễn.

(...)

M. Phan Kim Tố

Secrétaire de la Délégation ([26])

Hà Tiên – Hòn Chông

*

Bài ca tống hành ([27]) quan Huyện Nguyễn Ngọc Tương, Chủ quận Hòn Chông

Dưng kính dưng quan Huyện một bài

Rượu châu ([28]) kính chúc cho Ngài

Điệu tớ thầy từ nầy rẽ phân

Cho hay thuyên bổ xây vần ([29])

Phận râu mày vẫy vùng Lục Châu ([30])

Mối giềng lo âu

Đáng mặt thay công hầu ([31])

Ngày mà hôm nay

Dọn tiệc ra tiễn hành quan Huyện

Bài chúc đọc liền

Nhắc đức tánh của ông

Công* Ngài ở rất minh công

Tánh hiền từ liêm công mẫn cán

Thương dân nghèo giúp người hoạn nạn

Tu ([32]) miễu đình, vỏ ca, kinh,([33]) ruộng

Bốn năm khổ cực chăn dân quận nầy

Công khai phá rất cao dầy

Chúng dân mến đức mến tài

Đang giữa đời phải mà chia hai

Tại vì ai mà lá lay ([34])

Khiến phân chia chúa tôi hai ngả

Chua xót gan vàng

Chánh phủ nào có biết công chăng?

Xăng* con mắt tôi thấy lăng xăng ([35])

Tiệc mấy thầy, các ban trọng đãi

Thương tiếc Ngài, công lao rất phải

Mến đức tài, ngàn ơn muôn ngãi ([36])

Chung nhau chúc tụng phước sâu cho Ngài

Bình Trị hương chức tựu rày ([37])

Chưng bông kết tụi ([38]) nghiêm bày

Đặt cỗ bàn trống kèn rình rang

Ngoài lộ quan ([39]) đuốc đèn cờ nghiêm trang

Rước Huyện quan đáo lai ([40]) dự tiệc

Discours ([41]) chúc Ngài

Câu thượng lộ bình an

Trang* sắp đặt nghiêm trang

Làng An Bình cùng dân cám cảnh ([42])

Tiệc bày, đãi Ngài

Dụng lễ nhạc mà rước đưa

Giống thỉnh Thần thuở xưa

Cuộc rước đưa cờ chạy đến là đèn…

Khen vậy mới đáng khen

Công của Ngài mấy năm khai phá

Cực lòng, giúp đời

Ơn đức bủa khắp mọi nơi

Dân sự đều vui chơi

Đáng kính mến thay ơn Ngài

Đây từ đây phân cách mặt Ngài

Phận tôi chúc tụng một bài

Bấy lâu nay nhớ ơn biểu dạy ([43])

Thậm cảm tình hiền lương

Nghĩ bấy ([44]) thân bụi trần vùi dập

Thầm tủi cho phận hèn

Dâng hai lạy mà đền ơn

Nhơn* Ông ở rất có nhơn

Bá tánh lòng dạ đâu có sờn

Nghe* hễ nghe vừa dứt tiếng đờn

Xin cô bác, chúc cho Ngài bách niên.

PHAN KIM TỐ kính.([45])

GHI CHÚ: Về các chữ Công*, Xăng*, Trang*, Nhơn* được lưu ý bằng dấu * như trong năm câu hát ở các trang 120, 121, 122, hai nhà nghiên cứu Thanh Minh và Phạm Khoa giải thích về năm chữ này như sau:

1. Năm câu hát này có điệp từ [repetition]:

Công Ngài ở rất minh công

Xăng con mắt tôi thấy lăng xăng

Trang sắp đặt nghiêm trang

Nhơn Ông ở rất có nhơn

Nghe hễ nghe vừa dứt tiếng đờn.

Đây là phương pháp điệp từ cho phù hợp chữ đờn trong điệu ca bài tống hành này. Thí dụ, với bốn câu kết, chữ đờn như sau:

Nhơn [xang] Ông ở [] rất có nhơn [xang]()

Bá tánh [] lòng dạ [lịu] đâu [] có sờn []

(+)(+)(mô) Nghe [liu](+) hễ nghe [liu] vừa dứt [xế] tiếng đờn [xàng]

(+) Xin [] cô bác [xự](+), chúc [líu] cho Ngài [xề] bách niên [liu](+).

2. Ghi chú:

2.1. (mô) là nhịp nghỉ (không đờn, không ca).

2.2. (+) là nhịp chánh (một nhịp).

2.3. () là nhịp ngoại (nửa nhịp).


THƯ TỊCH / BIBLIOGRAPHY

Huệ Khải, Đất Nam Kỳ Tiền Đề Pháp Lý Mở Đạo Cao Đài / Cochinchina as a Legal Precondition for the Foundation of Caodaism. Hà Nội: Nxb Tôn Giáo, 2010.

Huệ Khải, Lược Sử Đạo Cao Đài: Thời Tiềm Ẩn 1920-1926 / A Concise Caodai History: The Earliest Beginnings 1920-1926. Hà Nội: Nxb Hồng Đức, 2023.

Huệ Khải, Lược Sử Thánh Thất Cao Đài Thủ Đô Hà Nội. Hà Nội: Nxb Tôn Giáo, 2015.

Huệ Khải, Ngô Văn Chiêu Người Môn Đệ Cao Đài Đầu Tiên / Ngô Văn Chiêu the First Caodai Disciple. Hà Nội: Nxb Tôn Giáo, 2012.

Huệ Nhẫn, Lịch Sử Đạo Cao Đài. Quyển II. Hà Nội: Nxb Tôn Giáo, 2008.

Nguyễn Như Lân, 200 Năm Dương Lịch Và Âm Lịch Đối Chiếu (1780-1980). Sài Gòn: Nxb Khai Trí, 1968.

Nguyễn Thế Anh, Việt Nam Dưới Thời Pháp Đô Hộ. Sài Gòn: Nxb Lửa Thiêng, 1970.

Nguyễn Trung Hậu, Đại Đạo Căn Nguyên. Sài Gòn: Imprimerie Đức Lưu Phương, 1930.

Nguyễn Văn Hồng, Danh Nhân Đại Đạo. Bản thảo.

Nguyễn Văn Hồng, Đạo Sử Nhựt Ký. Bản thảo.

Nha Khí Tượng Việt Nam, Lịch Thế Kỷ XX (1901-2000). Hà Nội: Nxb Phổ Thông, 1976.

Quốc Sử Quán Triều Nguyễn, Minh Mệnh Chính Yếu, Tập III, từ Quyển 8 tới 13. Võ Khắc Văn và Lê Phục Thiện dịch. Sài Gòn: Bộ Văn Hóa Giáo Dục Và Thanh Niên xb, 1974.

Thanh Minh (Thái Hoàng Tú) và Phạm Khoa, Góp Ý Hiệu Chỉnh Quyển Sách Hành Trạng Tiền Khai Nguyễn Ngọc Tương (1881-1951). Bốn lá thư từ Chợ Lớn, ngày 06, 13, 14, và 20-02-2024. (Khi dẫn nguồn tham khảo trong sách, các cước chú ghi là: Theo Thanh Minh và Phạm Khoa. / When information from their four letters is referred to, footnotes read, “According to Thanh Minh and Phạm Khoa.”)

Thánh thất An Hội (Bến Tre), Châu Tri Chỉnh Đạo 1934-1936. Bến Tre: Nhà in Bùi Văn Nhẫn, 1936.

Thánh thất An Hội (Bến Tre), Châu Tri Chỉnh Đạo 1934-1936. Sài Gòn: Nhà in Hòa Chánh, 1954.

[Thánh thất An Hội (Bến Tre),] Tiểu Sử Đức Giáo Tông Nguyễn Ngọc Tương 1881-1951. Sài Gòn: Nhà in Hòa Chánh, 1958.

 



([1]) 1/ Theo bài “Chùa Quảng Tế Phật Đường (Hà Tiên)”, đăng ngày 16-12-2019, trên Blog Trung Học Hà Tiên Xưa (https://trunghoc hatienxua.wordpress.com) của nhà giáo Trần Văn Mãnh (ở Pháp), thì ông thơ ký Phan Kim Tố sau này có một thời gian làm dân biểu Quốc Hội của Việt Nam Cộng Hòa (1955-1963).

2/ Lúc ấy, Quốc Hội chỉ có một viện thay vì chia ra Thượng Viện và Hạ Viện. Dân biểu lãnh khoảng 25.000 đồng/tháng trong lúc giáo sư trung học đệ nhị cấp mới ra trường (dạy Đệ Tam, Đệ Nhị, Đệ Nhứt, tức ba lớp 10, 11, 12 sau này) mức lương là 6.700 đồng/tháng. (Theo chỉ dẫn ngày 25-02-2024 của nhà nghiên cứu Lê Nguyễn, đồng môn lớp trước [1959-1962] của Lê Anh Dũng (HK) ở trung học công lập Hồ Ngọc Cẩn, Gia Định.)

([2]) cung tụng 恭頌: Cung kính ca tụng, kính cẩn khen ngợi (respectfully praising).

([3]) Xem Phụ Lục III, mục 3, tr. 110 ở trên.

([4]) liêm : Trong sạch, không tham nhũng (incorruptible, honest) công : Công lao, thành tích (achievements) mẫn cán 敏幹: Siêng năng và mau mắn (diligent and prompt).

([5]) bề: Phương diện, khía cạnh (aspect).

([6]) Năm 1924, Hà Tiên có bốn quận là Châu Thành, Hòn Chông, Giang Thành, và Phú Quốc.

([7]) khai kinh: Đào kênh (kinh). Kinh là sông đào (canal).

([8]) dân bổn xứ: Dân địa phương (local residents). Chữ Nho là bổn xứ (bổn địa) cư dân 本處(本地)居民.

([9]) con đỏ: Trẻ con mới đẻ, da dẻ còn đỏ hỏn; nghĩa bóng là dân chúng. Chữ Nho là xích tử 赤子 (newborn, people). Đạo lý ngày xưa dạy vua, quan phải biết thương dân, chăm lo cho dân như cha mẹ nâng niu đứa con sơ sinh yếu ớt. Thư Kinh 書經 (Khang Cáo 康誥) có câu “Nhược bảo xích tử若保赤子, ý nói kẻ chăn dân phải giống như cha mẹ nuôi nấng con đỏ.

([10]) bộ (bạ 簿): Những quyển sổ to của làng (registers) để ghi nhận (đăng ký: registering) mọi tài sản, họ tên dân làng, v.v... Thí dụ: Địa bộ là sổ ghi nhận về ruộng đất. nhập bộ: Ghi họ tên vào sổ của làng.

([11]) tư bổn, tư bản 資本: Vốn liếng (capital).

([12]) công nho: Ngân sách (budget).

([13]) Năm 1924, quận Hòn Chông có một tổng (canton) Bình An gồm hai làng An Bình và Bình Trị; vậy đây là quận (délégation) nhỏ.

([14]) vỏ ca (có lẽ nên viết võ ca): Gian trước của đình làng, thường dùng làm nơi diễn hát bội (hát chầu) khi đình có lễ trọng.

([15]) Nói cho đúng là Thành Hoàng Bổn Cảnh 城隍本境 (Patron Deity of this Locality). Tục thờ Thành Hoàng liên quan đến sự thành lập, phát triển của một địa phương và cầu xin Thần linh che chở cho địa phương ấy. Các vị Thành Hoàng phần lớn là danh thần, anh hùng, người có công đức to tát tại địa phương nên được dân địa phương phụng thờ sau khi các vị qua đời. Thành Hoàng được thờ trong đình làng, danh tánh và lai lịch có thể được biết rõ, nếu mơ hồ, không ai biết thì không có ảnh tượng mà chỉ thờ một chữ Thần . Nhiều vị Thành Hoàng được gọi tên theo tên làng (thí dụ: Thành Hoàng làng Mỹ Lộc) hoặc gọi chung chung là Thành Hoàng Bổn Cảnh. Hai chữ bổn cảnh có nghĩa là cảnh vực, khu vực tại địa phương này (this locality), tức là vùng đất vị Thành Hoàng được thờ (theo thánh chỉ của Đức Thượng Đế hay sắc chỉ của nhà vua) và Thành Hoàng có phận sự che chở cho dân trong vùng.

Theo Minh Mệnh Chính Yếu, Tập III, từ Quyển 8 tới 13, Võ Khắc Văn và Lê Phục Thiện dịch (Sài Gòn: Bộ Văn Hóa Giáo Dục Và Thanh Niên xb, 1974, tr. 215), cách gọi Thành Hoàng Bổn Cảnh được vua Minh Mạng cho phép dùng kể từ năm 1839.

([16]) Dưới thời Pháp thuộc, dù Nam Kỳ đang là thuộc địa (colonie) của Pháp (la Cochinchine française), nhưng triều đình Huế vẫn duy trì và ủng hộ việc các địa phương xin triều đình phong sắc Thần để nuôi cái tình của dân chúng trong hoàn cảnh mất nước, cũng là tiếp nối chánh sách từ đời vua Tự Đức.

([17]) lưu truyền danh ư hậu thế 流傳名於後世: Truyền lại danh thơm cho đời sau (passing down fame to later generations).

([18]) nói theo: Nói nịnh (flattering).

([19]) trường : Nơi, chốn đông người (arena).

([20]) đổi: Thuyên chuyển, đổi đi nơi khác làm việc (transferring).

([21]) ngôn dực trường phi 言翼長飛: Lời nói có cánh bay xa. Ý trong bài là đồn đãi (đồn đại), loan truyền tin tức thất thiệt.

([22]) đồn huyễn: Tin đồn thất thiệt (untrue rumour).

([23]) phỉ: Thỏa mãn (satisfied).

([24]) Thượng lộ 上路 đăng trình 登程 đồng nghĩa, là lên đường, khởi hành (starting off, setting out on a journey).

([25]) khương ninh 康寜: Khỏe mạnh, yên bình (healthy and peaceful).

([26]) Secrétaire de la Délégation: Thơ ký quận. Về chữ “délégation” xem Phụ Lục II, tr. 105 ở trên.

([27]) tống hành 送行: Đưa tiễn (seeing someone off). Thí dụ: Hôm nay đã tới mồng mười / Khá toan sắm sửa hai mươi tống hành. (Lục Vân Tiên)

([28]) rượu châu: Rượu quý. (Châu là ngọc, nghĩa bóng là quý báu.)

([29]) xây vần: Xoay vần, dời đổi (altering).

([30]) Lục Châu: Lục Tỉnh. Xem Phụ Lục II, tr. 107 ở trên.

([31]) công hầu 公候: Ý ở đây là làm quan.

* Xem giải thích Công, Xăng, Trang, Nhơn ở cuối phụ lục này.

([32]) tu : Tu sửa (repairing).

([33]) kinh: Kênh, sông đào (canal).

([34]) lá lay: Cắc cớ, trớ trêu, nghịch với lẽ thường.

([35]) lăng xăng: Rộn rịp, nhộn nhịp, nhiều người bận rộn tới lui (để lo liệu cho bữa tiệc tiễn đưa).

([36]) ngàn ơn muôn ngãi: Ơn nghĩa vô vàn, kể không xiết (indescrib-able favours).

([37]) tựu rày: Tề tựu lúc này, họp lại lúc này (gathering now).

([38]) kết tụi: Tụi “tua”. Kết tơ màu hay chỉ màu (hoặc kết dải lụa màu) thành chùm (gọi là “tụi”) để treo lên, trang hoàng cho đẹp.

([39]) lộ quan: Quan lộ, đường cái, đường lớn do nhà nước làm.

([40]) đáo lai: Lai đáo 來到, đi đến (arriving).

([41]) discours: Bài diễn văn (speech).

([42]) cám cảnh: Chạnh lòng (moved).

([43]) biểu dạy: Dạy bảo (instructing).

([44]) bấy: Dường ấy, như thế (as such).

([45]) Đông Pháp Thời Báo, số ra ngày Thứ Sáu 24-10-1924, đăng ở mục “Đông Pháp Thời Sự”.

GHI CHÚ: Mỗi số Đông Pháp Thời Báo có từ 4 đến 8 trang (65x40cm), ra ba kỳ mỗi tuần vào Thứ Hai, Thứ Tư, và Thứ Sáu. Số 1 ra ngày Thứ Tư 02-5-1923. Số chót (809) ra ngày Thứ Bảy 22-12-1928. Chủ nhiệm là Nguyễn Kim Đính (1923-1927). Từ số 635 ra ngày Thứ Sáu 14-10-1927 thì chủ nhiệm là Diệp Văn Kỳ (1895-1945).