Thứ Năm, 9 tháng 6, 2022

VÀI KINH NGHIỆM ĐỌC THÁNH TRUYỀN TRUNG HƯNG (phần 1)

 


VÀI KINH NGHIỆM ĐỌC

THÁNH TRUYỀN TRUNG HƯNG (phần 1)

HUỆ KHẢI

Mỗi một Hội Thánh Cao Đài thường có ít ra một bộ kinh để làm trấn môn chi bảo 鎮門之寶. Một trong các bảo bối trấn môn của Hội Thánh Truyền Giáo Cao Đài chính là Thánh Truyền Trung Hưng. Trong lúc thực hiện loạt sách Tìm Hiểu Thánh Truyền Trung Hưng,([1]) tôi có được chút ít kinh nghiệm, và rất hân hạnh được chia sẻ với quý huynh tỷ ngành Phổ Tế.

I. Từ Hán Việt

1. Thánh giáo Cao Đài nói chung, Thánh Truyền Trung Hưng nói riêng, dùng nhiều từ Hán Việt. Thí dụ:

TRƯỜNG đường biết sức ngựa

XUÂN ý suy bữa bữa

PHT nht được tăng huy

ĐỊA bàn kim đã hứa.([2])

1.1. Nhật, nhựtthông thường là ngày. Nhưng còn có mấy nghĩa khác như sau:

Hằng ngày, mỗi ngày. Thí dụ, Tăng Tử nói: Ngô nht tam tỉnh ngô thân. 吾日三省吾身. (Mỗi ngày tôi tự xét mình ba việc.)

Càng ngày càng. Thí dụ, Mặc Tử nói: (G)ia nht ích, thân nht an, danh nht vinh. 家日益, 身日安, 名日榮. (Nhà ngày càng thịnh vượng, thân ngày càng an ổn, danh ngày càng hiển hách.)

1.2. Phật trong câu thánh thi dẫn trên không có nghĩa là ông Phật (Buddha). Chữ Phật còn được hiểu là: giác giả 覺者 (người giác ngộ); tri giả 知者 (người biết). Vậy, ở đây cần hiểu Phật là sự giác ngộ, minh triết.

1.3. Tăng huy 增暉 tăng thêm sự sáng.

Vậy, Phật nhật tăng huycàng ngày càng thêm minh triết.

2. Hãy lưu ý rằng một số từ Hán Việt được dùng với ý nghĩa khác hơn cách chúng ta thường hiểu. Thí dụ:

Ngày xuân dạo chốn trần gian

Nương cậy thần bút, giáng đàn đề thi

Xuân về một lúc xuân đi

Gởi bao tươi đẹp, phương phi cho đời.([3])

Chúng ta thường dùng phương phi để chỉ thân hình, mặt mũi béo tốt; nhưng trong câu thánh thi dẫn trên, phương phi 芳菲 là thơm tho. Phương phi đồng nghĩa là thơm.

3. Trường hợp tương tự, thí dụ:

Ai nấy cũng hết lòng vì Đạo

Phải tiểu tâm chu đáo mọi bề

Thị thành, miền tỉnh, thôn quê

Bửu Tòa, thánh thất nhất tề ngoài trong.([4])

Chúng ta thường hiểu tiểu tâm là bụng dạ nhỏ mọn, tẹp nhẹp, v.v... Nhưng trong câu thánh thi dẫn trên, tiểu tâm là thận trọng, không khinh suất.

Vì vậy, khi gặp câu thánh giáo, thánh thi có dùng từ Hán Việt mà đem cái nghĩa người Việt thường hiểu để giải thích lại thấy trục trặc, không hợp lý thì chúng ta hãy chịu khó tra cứu từ điển để tìm kiếm ý nghĩa phù hợp.

4. Cẩn thận khi gặp những từ Hán Việt cùng âm khác nghĩa. Thí dụ:

THÁI hòa một khí chống càn khôn

BẠCH hắc hai nghi để bảo tồn

KIM thạch dặn ai lòng đạo đức

TINH thần, nhật nguyệt chiếu thiên côn.([5])

Vào thế kỷ I đầu Công Nguyên, nhà thơ La Mã Juvenal có nói: “Mens sana in corpore sano.” (Một tinh thần 精神 minh mẫn trong một thân thể khỏe mạnh.) Nhưng trong vé thơ quán thủ này, tinh thần 星辰 là tinh tú, các vì sao.

Thiên là bầu trời. Côn là sáng rỡ.

Câu bốn ý nói: [Người tu hãy giữ cho lòng đạo đức của mình] sáng rỡ như mặt trời, mặt trăng, và tinh tú chiếu sáng bầu trời.([6])

5. Trường hợp tương tự, thí dụ:

HAI, nghe ta hết lòng hoài bão

Thủy chung cùng với Đạo mất còn

Hết tình thuận đạo làm con

Thần nghe phán định cho tròn từ đây.([7])

Chữ thần trong câu bốn không phải là vị thần , ông thần; nếu không ở đầu câu thì không viết hoa. Chữ thần ở đây là bề tôi.

Câu ba nói đạo làm con; câu bốn nói thần nghe phán định. Vậy, câu bốn nói tới bổn phận của thần tử 臣子, vừa là bề tôi trung thành của Thượng Đế, vừa là đứa con hiếu thảo của Đại Từ Phụ.

6. Thêm một trường hợp đồng âm khác nghĩa. Thí dụ:

“Chư đệ! Một người đới thiên hành pháp gặp phải bước đời đen tối, phải làm sao để cho cõi thế quang minh, chứ không lẽ khoanh tay ngồi đợi?” ([8])

6.1. Thoạt thấy hai chữ “đới thiên”, chúng ta dễ liên tưởng tới thành ngữ bất cộng đới (đái) thiên 不共戴天 có nghĩa là không đội trời chung, khi nói về hai kẻ thù nghịch không thể nào hòa giải được. Chữ “thiên” này không viết hoa, nghĩa là bầu trời, vòm trời trên đầu chúng ta.

6.2. Nhưng trong lời dạy của Đức Quan Thánh Đế Quân không có một ý gì liên quan tới sự thù địch như thế. Do đó, hãy hiểu đới thiên là nói tắt thành ngữ đới thiên lý địa 戴天履地 có nghĩa là (đầu) đội trời (chân) đạp đất. Thành ngữ này diễn tả lối sống và hành động hết sức tự do, ngang tàng, không khuất phục bất cứ một cường quyền áp bức nào trên đời. Truyện Kiều có câu: “Đội trời đạp đất ở đời / Họ Từ, tên Hải, vốn người Việt Đông.”

Vậy, lời dạy của Đức Quan Thánh Đế Quân nhằm nói tới người hành pháp (hành đạo) bất khuất, dũng mãnh, không chùn bước trước mọi nghịch cảnh.

7. Tương tự, thí dụ:

Đoàn các con k phùng lập pháp

Pháp quyền trao để góp phần lo

Lo xây dựng lấy thân trò

Rồi lo xây dựng lấy lò nấu nung.([9])

7.1. Hai chữ kỳ phùng dễ gợi nhớ tới thành ngữ kỳ phùng đối thủ 棋逢對手 hay kỳ phùng địch thủ 棋逢敵手 với nghĩa đen là đánh cờ mà gặp phải đối thủ ngang tầm, và nghĩa bóng là gặp đối thủ có trình độ ngang bằng, bản lĩnh tương đương, khó tranh cao thấp.

7.2. Nhưng vé thánh thi nào nói gì tới chuyện đánh cờ hay tranh tài với nhau mà hòng nghĩ tới “đối thủ”. Ở đây, Đức Mẹ nói về việc thành lập Nữ Đoàn Giải Thoát; thế nên hãy hiểu kỳ phùng 奇逢 là gặp được việc gì một cách tốt đẹp đặc biệt.

7.3. Nói về “kỳ phùng” thì không thể bỏ sót bốn câu này:

Cuộc thử thách dặm trường thiên lý

Cờ xứng tay chiếu bí song xa

Thử xem k thủ đâu là

Tay nào tạo thế nhân hòa ngày nay.([10])

Đức Trần Tổng Lý chơi chữ ở câu ba. Câu hai nói: Cờ xứng tay chiếu bí song xa; nên chúng ta dễ dàng ngỡ rằng kỳ thủ nghĩa là người đánh cờ (棋手). Đánh cờ mà gặp “cờ xứng tay” tức là đối thủ ngang tài thì gọi là “ kỳ phùng đối thủ, kỳ phùng địch thủ” như vừa nói ở 7.1.

Nhưng câu bốn nói: Tay nào tạo thế nhân hòa ngày nay; thế nên kỳ thủ lại có nghĩa là người có tài đặc biệt (奇手), đồng nghĩa với kỳ nhân 奇人.

8. Từ Hán Việt có nghĩa bóng. Thí dụ:

LÝ đào mấy độ rẽ đông tây

THÁI quá nên ra đến nỗi nầy

BẠCH Ngọc đòi phen tâu Thượng Phụ

Giáng trần sửa trị lại trần ai.([11])

Lý đào 李桃 nghĩa đen là hoa mận và hoa đào (lý hoa hòa đào hoa 李花和桃花). Theo nghĩa bóng, lý đào được ví với môn sanh, đệ tử (tỷ dụ sở giáo đích môn sanh 喻所教 門生).

Nói rẽ đông tây thì cũng giống như bảo kẻ nam người bắc, tức là phân ly, chia tách, ly tán.

Vậy, câu một ý nói: Môn đệ Cao Đài mấy phen chia rẽ, phân ly (ám chỉ tình trạng chia chi rẽ phái).

9. Một số từ Hán Việt thông dụng hay gặp trong thánh giáo nói chung và Thánh Truyền Trung Hưng nói riêng, như: chi, chưởng, giả, ... giả ... dã, v.v...

9.1. Chi nghĩa là của, thuộc về. Khi nói A B thì A bổ nghĩa cho B như một tính từ. Thí dụ: đại học chi đạo 大學之道: đạo đại học (sách Đại Học); Phu Tử chi văn chương 夫子之文章: văn chương của Khổng Phu Tử (Luận Ngữ, Công Dã Tràng).

Thánh giáo Cao Đài hay nhắc tới:

– hư vô chi khí 虛無之氣: khí hư vô; tiên thiên chi khí 先天之氣: khí tiên thiên…

– thiên địa chi tâm 天地之心: tâm thiên địa, lòng trời đất; chơn thường chi tánh 眞常之性: tánh chơn thường ([12])

– tề gia chi tử 齊家之子: con cái biết coi sóc việc nhà; phá gia chi tử 破家之子: con cái phá nhà phá của cho tan nát ([13])

9.2. Chưởng (do người miền Trung và Nam đọc trại chữ chủng ) nghĩa là trồng trọt, gieo trồng. Thí dụ:

chưởng thiện quả ư thi thơ chi phố 種善果於詩書之圃: trồng những cây ăn trái ngon ngọt trong vườn văn học (bài kinh “Quế Hương Nội Điện”)

– Thượng Đế là gốc rễ của vạn loại chúng đẳng sanh linh. Gốc ấy là lành. Muốn trở lại nơi lành, phải chưởng tạo giống lành.([14])

– Thầy từ lâu rất thương các con nơi nầy tai nạn dập dồn vì nghiệp duyên chưởng tạo không lành, bước tu gặp nhiều trở ngại.([15])

– Nếu người [thuộc Cơ Quan] Phước Thiện mà còn chưởng vào mình những bản ngã tư tâm, lợi danh cương tỏa, thì chưa được.([16])

9.3. Giả là đại từ đứng sau một động từ hay tính từ để nói thay cho người hay vật; như vậy, nó tương đương cách người Anh nói “the one(s) that; the one(s) which; the one(s) who; he who; those who”. Thí dụ:

Động từ + giả: hành giả 行者 (người thực hành thiền), ký giả 記者 (nhà báo, phóng viên), tác giả 作者 (người sáng tác), thức giả 識者 (người hiểu biết), tri giả 知者 (người biết), ngôn giả 言者 (người nói), v.v…

Tính từ + giả: trí giả 智者 (người trí), nhân giả 仁者 (người có lòng nhân ái), hiền giả 賢者 (người hiền), v.v…

– Con ôi! Đắc Đạo giả đa trợ; thất Đạo giả quả trợ.([17])

9.4. ... giả ... (... ... ) là cấu trúc giải thích về người hay vật. Chữ diễn tả ý khẳng định, có thể dịch là vậy, hoặc không cần dịch. Thí dụ:

Qun Trng nói: Sinh ngã giả phụ mẫu ; tri k gi Bào Thúc . 生我者父母也; 知己者鮑叔也” (Sinh ra ta là cha mẹ ta; hiểu biết ta là Bào Thúc Nha [vậy].)

Nhân giả nhân . 仁者人也. (Trung Dung, 19: Nhân là đạo làm người [vậy].)

Thiên giả Ngã . 天者. (Trời là Ta [vậy].)([18])

Bồ giả Phổ ; Tát giả Tế 菩者普也薩者濟也.

Trong sách giáo khoa Ấu Học Quỳnh Lâm 幼學瓊林 của Trình Đăng Cát 程登吉 đời Minh, quyển 4, mục 6: Thích Đạo Quỷ Thần 釋道鬼神 (quỷ thần trong đạo Phật và đạo Lão) có câu: Bồ giả Phổ dã; Tát giả Tế dã; tôn xưng thần chi, cố hữu Bồ Tát chi dự菩者普也薩者濟也尊稱神祗故有菩薩之譽.

Câu này có nghĩa: BồPhổ (rộng khắp) vậy; TátTế (cứu giúp) vậy; tôn xưng thần linh nên có lời khen Bồ Tát.

Như thế, Bồ giả Phổ , Tát giả Tế  nhằm giải thích rằng Bồ Tát là Phổ Tế, cứu giúp rộng khắp.

Nói thêm:

Phổ tế đồng nghĩa với phổ độ 普度. Chữ độ  () hay tế nghĩa là từ bờ này sang bờ bên kia, qua sông, sang sông. Cho nên kinh điển nói tế độ 濟渡 nghĩa là cứu vớt người đời ra khỏi biển khổ, giống như vớt kẻ chết đuối lên thuyền chở sang bờ bên kia (đáo bỉ ngạn 到彼岸). Chánh pháp vì thế ví như thuyền bát nhã vớt người chìm đắm trong biển khổ (cõi trần).

Chữ có thể lược bớt. Thí dụ:

Nguyên thủy hữu Đạo. Đạo giả Thượng Đế.([19]) 原始有道. 道者上帝. (Đu tiên có Đo. Đo là Thượng Đế.) Câu thứ hai có thể viết: Đạo giả Thượng Đế dã. (Đạo là Thượng Đế vậy.)

10. Thảng như 倘如: Nếu như. Thí dụ:

Thảng như không nhờ ở chánh pháp trung hưng, nhơn gian giác ngộ hồi hướng thì cõi ta bà hôm nay khói lửa mịt trời, giáo gươm chát tiếng, nhơn loại còn được mấy người.([20])

Vì không biết “thảng như” là từ Hán Việt nên nhiều bản ghi chép thánh giáo Cao Đài (không riêng Thánh Truyền Trung Hưng) thường viết là “thoảng như”, vô nghĩa.

II. Từ Việt cổ

Kinh kệ, thánh giáo của Minh Lý Đạo và Cao Đài Giáo cũng như sấm giảng của Phật Giáo Hòa Hảo có điểm chung đáng chú ý là đều dùng khá nhiều từ Việt cổ (archaic), tức là những từ ngữ không còn thông dụng trong lời ăn tiếng nói hằng ngày,([21]) và không còn được ghi nhận trong phần lớn các bộ từ điển hay tự điển tiếng Việt xuất bản từ nửa sau thế kỷ Hai Mươi trở đi, ngoại trừ bộ Tự Điển Việt Nam, quyển Thượng và Hạ, do Lê Văn Đức cùng một nhóm văn hữu biên soạn, Lê Ngọc Trụ hiệu đính, nhà sách Khai Trí xuất bản tại Sài Gòn năm 1970. Bộ này ghi nhận khá nhiều mục từ thuộc loại từ cổ, nhưng không ghi chú bên cạnh rằng đó là từ cổ.

Bằng cách sử dụng từ Việt cổ trong kinh kệ, thánh ngôn, và sấm giảng, phải chăng ba nền tôn giáo bản địa phát sinh ở Nam Kỳ đã và đang duy trì một số lời ăn tiếng nói lâu đời của dân tộc, không để cho mai một? Tuy nhiên, tín đồ thường không hiểu nghĩa từ Việt cổ, mà kinh sách trong đạo nếu thiếu sót phần giảng giải thì dễ nảy sinh việc hiểu sai, rồi có người tự ý sửa chữa làm sái lạc nghĩa lý câu kinh.([22])

Vài thí dụ về từ cổ trong Thánh Truyền Trung Hưng:

1. Đòi phen: Nhiều lần.

– Bạch Ngọc đòi phen tâu Thượng Phụ

Giáng trần sửa trị lại trần ai.([23])

– Thầy lắm lúc thiết tha căn dặn

Trò đòi phen chẳng đặng khoan hòa ...([24])

Nếu không hiểu, tín đồ sửa lại thành đôi phen với ý nghĩa là vài lần; đôi khi, thỉnh thoảng thì ý nghĩa sai lệch nhiều lắm.

2. Gió nà: Gió mạnh.

“Mặc tình buông lái thả chèo, trôi theo dòng nước chảy xuôi, coi cách nhẹ nhàng phơi phới. Đến khi ngó lại bến cũ xa mù, mới trở quày thuyền lại. Trở quày thuyền lại thì gặp phải nước ngược gió nà.” ([25])

3. Mựa: Đừng, chớ.

TRẦN ai là chốn mộng huỳnh lương

HƯNG thịnh suy vong ấy lẽ thường

ĐẠO sẵn bước đường cho đúng nhịp

Ma đừng úp mở nạn tai ương.([26])

Mựa (do chữ mạc ). Bài Lương Châu Từ 涼州詞 của Vương Hàn 王翰 (687-735) có câu: Túy ngọa sa trường quân mc tiếu 醉臥沙場君莫笑 (Say khướt nằm giữa sa trường, ma cợt cười).

5. Nấy trao: Chánh thức trao cho.

“Sở dĩ Thầy nấy trao phẩm tước, không phải đem khổ sở đến cho con, mà Thầy muốn con làm tròn đại nguyện.” ([27])

“Tự do đã đem lại cho loài người là quyền pháp Chí Tôn nấy trao trọn vẹn.” ([28])

“Thầy vì thương nhân loại trầm mê mới nấy trao quyền pháp cho các hàng đẳng Thiên phong để đủ sức kiềm chế nhân sinh, bảo trì cơ đạo, hoằng dương chánh pháp.” ([29])

6. Tua: Nên, hãy nên. Tua do chữ tu .

– Phận gái đức tùng tua vẹn giữ

Giữ gìn bữa bữa, bữa càng thêm.([30])

– Nam nữ kíp tua triều bái lễ

Xe rồng nghinh tiếp lệnh Thiên nhan.([31])

– Thánh Đạo muốn nên tua học đạo

Nương theo quyền pháp đến Long Hoa.([32])

Vì vậy, khi gặp từ lạ, khó hiểu mà tra từ điển thông dụng không thấy, nên nghĩ đến từ Việt cổ và tra bộ Đại Nam Quấc Âm Tự Vị (hai tập) của Huình Tịnh Paulus Của (Sài Gòn: Imprimerie Rey, Curiol & Cie, 1895 và 1896). Tuy nhiên, bộ sách này sai chánh tả khá nhiều.

HUỆ KHẢI

Tháng Tư Nhâm Dần (2022)

(Xem tiếp phần 2.)

 

 



([1]) Đã in bốn tập tại nhà xuất bản Hồng Đức (Hà Nội: 2020, 2021, 2022): Tìm Hiểu Thánh Truyền Trung Hưng Năm Kỷ Hợi (1959); Năm Canh Tý (1960); Năm Tân Sửu, Quý Mão (1961, 1963); Từ Giáp Thìn Đến Canh Tuất (1964-1970).

([2]) Trung Hưng Bửu Tòa, 01-01 Tân Sửu (Thứ Tư 15-02-1961).

([3]) Đạo Đức Chơn Tiên, Trung Hưng Bửu Tòa, 11-01 Tân Sửu (Thứ Bảy 25-02-1961).

([4]) Bảo Pháp Chơn Quân Thanh Long, Trung Hưng Bửu Tòa, 08-01 Nhâm Tuất (Thứ Hai 01-02-1982).

([5]) Trung Hưng Bửu Tòa, 15-10 Tân Sửu (Thứ Tư 22-11-1961).

([6]) Đức Chí Tôn dạy: “Kẻ tu hành cần phải lập công bồi đức. Muốn cho đắc quả thành công thì phải làm cho sáng cái đức mình ra cùng sanh chúng.” (Thánh Đức Chơn Kinh, Quyển Thứ Ba. Sài Gòn: 1965, tr. 176.)

([7]) Bảo Thọ Thánh Nương, Trung Hưng Bửu Tòa, 15-7 Canh Tý (Thứ Hai 05-9-1960).

([8]) Quan Thánh Đế Quân, thánh thất Trung An, 24-5 Ất Mùi (Thứ Tư 13-7-1955).

([9]) Diêu Trì Kim Mẫu, thánh thất Thái Hòa, 15-9 Ất Mùi (Chủ Nhựt 30-10-1955).

([10]) Trần Hưng Đạo Đại Vương, thánh đường Quảng Tín, 11-7 Canh Tuất (Thứ Tư 12-8-1970).

([11]) Thánh tịnh Ngọc Minh Đài (Sài Gòn), 04-3 Quý Mão (Thứ Năm 28-3-1963). Bài này có trong Thánh Truyền Trung Hưng.

([12]) Như Ý Đạo Thoàn Chơn Nhơn, Vĩnh Nguyên Tự, 15-3 Bính Thìn (Thứ Tư 14-4-1976).

([13]) Diêu Trì Kim Mẫu, thánh tịnh Thanh Quang, 24-5 Mậu Dần (Thứ Ba 21-6-1938).

([14]) Liễu Tâm Chơn Nhơn (Huỳnh Ngọc Trác), thánh thất Thái Hòa, 10-7 Ất Mùi (Thứ Bảy 27-8-1955).

([15]) Ngọc Hoàng Thượng Đế, thánh thất Minh Trung, 23-3 Đinh Dậu (Thứ Hai 22-4-1957).

([16]) Liễu Tâm Chơn Nhơn, tu xá Phước Huệ Đàn, 16-5 Mậu Tuất (Thứ Tư 02-7-1958).

([17]) Ngọc Hoàng Thượng Đế, thánh thất Kim Quang Minh Đài, 22-6 Canh Tuất (Thứ Sáu 24-7-1970). Câu này có trong sách Mạnh Tử (Công Tôn Sửu Hạ, 11): 得道者多助; 失道者寡助.) có nghĩa là: Người nào đắc được Đạo thì được nhiều trợ giúp; người nào làm mất Đạo thì ít được trợ giúp.

([18]) Ngọc Hoàng Thượng Đế, Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, quyển I, đàn 13-01 Bính Dần (Thứ Năm 25-02-1926).

([19]) Ngọc Hoàng Thượng Đế, thánh thất Kim Quang Minh Đài, 22-6 Canh Tuất (Thứ Sáu 24-7-1970).

([20]) Ngọc Hoàng Thượng Đế, Trung Hưng Bửu Tòa, 09-01 Kỷ Hợi (Thứ Hai 16-02-1959).

([21]) Khái niệm cổ ở đây rất tương đối, và tôi muốn nhấn mạnh tới tính chất không còn thông dụng trong lời ăn tiếng nói hằng ngày. Theo giới sưu tập đồ cổ, một đồ vật có khoảng năm mươi năm tuổi trở lên thì gọi là đồ xưa; khoảng một trăm tuổi trở lên thì gọi là đồ cổ. Nhưng với ngôn ngữ một dân tộc thì không thể nào ấn định một mức thời gian cụ thể như thế.

([22]) Huệ Khải, Một Số Từ Việt Cổ Trong Kinh Minh Lý Đạo Và Phật Giáo Hòa Hảo. Hà Nội: Nxb Hồng Đức 2018, tr. 9-10.

([23]) Lý Thái Bạch, thánh tịnh Ngọc Minh Đài (Sài Gòn), 04-3 Quý Mão (Thứ Năm 28-3-1963).

([24]) Từ Hàng Bồ Tát, Trung Hưng Bửu Tòa, 01-01 Tân Sửu (Thứ Tư 15-02-1961).

([25]) Trịnh Thị Thanh, tu xá Phước Huệ Đàn, 10-9 Canh Tý (Thứ Bảy 29-10-1960).

([26]) Thánh thất Từ Vân (Phú Nhuận), 21-9 Ất Mùi (Thứ Bảy 05-11-1955).

([27]) Đức Chí Tôn, thánh thất Thái Hòa, 23-6 Ất Mùi (Thứ Tư 10-8-1955).

([28]) Hưng Đạo Tổng Lý, thánh thất Minh Trung, 23-3 Đinh Dậu (Thứ Hai 22-4-1957).

([29]) Đức Chí Tôn, Tam Tông Miếu, 07-6 Tân Dậu (Thứ Tư 08-7-1981), ngày ban sắc dụ, phong tiền bối Huệ Lương (Trần Văn Quế) đạo quả Quảng Đức Chơn Tiên.

([30]) Kim Nhàn Ngọc Nữ, thánh thất Trung Thành, 11-5 Mậu Dần (Thứ Tư 08-6-1938).

([31]) Bạch Hạc Đồng Tử, thánh thất Trung Thành, 15-7 Canh Thìn (Chủ Nhật 18-8-1940).

([32]) Bảo Thọ Thánh Nương, thánh thất Thái Hòa, 13-9 Ất Mùi (Thứ Sáu 28-10-1955).