tiên Thiên nhi Thiên phất vi
Trong Thánh Giáo Sưu Tập Ất Mão – Bính Thìn 1975-1976 do Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý
Đại Đạo ấn tống (Hà Nội: Nxb Tôn Giáo 2021), trang 160 in lời Đức Đông Phương
Chưởng Quản (thánh giáo ngày 27-12-1976) dạy như sau:
Đức Khổng Tử có lời rằng: “Tiên thiên nhi Thiên phất vi, thiên
thả phất vi, huống ư nhơn hồ, ư quỷ thần hồ”, nên dụng tâm thanh tịnh khởi mạch
sống khí Tiên Thiên là quan trọng đối với tịnh viên là vậy.
Xin hỏi: “Tiên thiên nhi Thiên phất vi, thiên thả phất vi, huống ư nhơn hồ, ư
quỷ thần hồ” nghĩa là gì? – Hiền hữu Đặng Thiên Ân (
HK phúc
đáp:
1. Đoạn thánh giáo ở trang 160 (sách đã dẫn) viết hoa không hợp lý nên
cũng ảnh hưởng tới ý nghĩa. Những chỗ viết hoa sai và chấm câu không hợp lý (in đậm và gạch dưới)
như sau:
Đức
Khổng Tử có lời rằng: “Tiên thiên
nhi Thiên phất vi, thiên
thả phất vi, huống ư nhơn hồ, ư quỷ thần hồ”, nên dụng tâm thanh tịnh khởi mạch sống khí Tiên Thiên là quan trọng đối với tịnh viên là vậy.
Do đó, cần sửa lại như sau:
Đức
Khổng Tử có lời rằng: “Tiên Thiên
nhi Thiên phất vi, Thiên
thả phất vi, huống ư nhơn hồ, ư quỷ thần hồ.” Nên dụng tâm thanh tịnh khởi mạch sống khí tiên thiên là quan trọng đối với tịnh viên là vậy.
Chữ “nên” trong câu có nghĩa là “thế nên; cho nên; bởi thế
nên” (therefore; thus; hence).
2. Câu “Tiên Thiên nhi Thiên phất vi, Thiên thả phất vi, huống ư nhơn hồ, ư
quỷ thần hồ” trích trong “Văn
Ngôn” quẻ Càn, hào dương thứ năm (cửu ngũ).
Chỉ có ở
hai quẻ Càn và Khôn, “Văn Ngôn” là lời Đức Khổng Tử bình giải Thoán và sáu hào
của quẻ Càn, quẻ Khôn cho thêm rõ ràng hơn. “Văn Ngôn” là “Dực” (cánh) thứ bảy
trong “Thập Dực” (Mười Cánh) do Đức Khổng Tử soạn để bổ sung cho
Kinh Dịch. Vì vậy, trong thánh giáo đã dẫn, thay vì nhắc tới “Văn Ngôn” quẻ Càn thì Đức Đông Phương Chưởng
Quản dạy là “Đức Khổng Tử có lời rằng”.
3. Trong
đoạn thánh giáo đã dẫn, có lẽ là do sao chép bị sót, nên bản sách in thiếu mất sáu
chữ “hậu Thiên nhi phụng Thiên thời”.
Nguyên văn trong Kinh Dịch như sau:
夫 大 人 者, 與 天 地 合 其 德, 與 日 月 合 其 明, 與 四 時 合 序, 與 鬼 神 合 其 吉 凶. 先 天 而 天 弗 違, 後 天 而 奉 天 時. 天 且 弗 違, 而 況 於 人 乎? 況 於 鬼 神 乎?
3.1. Dịch âm:
Phù đại nhân giả, dữ thiên địa
hợp kỳ đức, dữ nhật nguyệt hợp kỳ minh, dữ tứ thời hợp kỳ tự, dữ quỷ thần hợp kỳ
cát hung. Tiên Thiên nhi Thiên phất vi, hậu Thiên nhi phụng
Thiên thời. Thiên thả phất vi, nhi huống ư nhân hồ? huống ư quỷ thần hồ?
3.2. James Legge (1815-1897) dịch ra
tiếng Anh như sau:
The
great man is he who is in harmony, in his attributes, with heaven and earth; in
his brightness, with the sun and moon; in his orderly procedure, with the four
seasons; and in his relation to what is fortunate and what is calamitous, in
harmony with the spirit-like operations (of Providence). He may precede Heaven,
and Heaven will not act in opposition to him; he may follow Heaven,
but will act (only) as Heaven at the time would do. If Heaven
will not act in opposition to him, how much less will men! how much less will
the spirit-like operation (of
3.3. Dịch ra tiếng Việt như sau:
Bậc
đại nhân hòa hợp đức tánh của mình cùng với trời đất, hòa hợp sự sáng của mình cùng
với mặt trời và mặt trăng, hòa hợp trật tự làm việc của mình cùng với bốn mùa,
hòa hợp vận may rủi (tốt xấu) của mình cùng với quỷ thần (các đấng thiêng liêng
vô hình). [Bậc đại nhân] hành động trước Trời mà Trời không đối nghịch lại; đi sau Trời
mà vâng
theo thời cơ của Trời (Thiên cơ). Trời mà chẳng đối nghịch lại, thì còn nói
gì tới người? còn nói gì tới quỷ thần nữa?
4. Ghi chú:
4.1.
“Phù” 夫 là trợ từ đặt đầu câu, mở đầu một ý kiến (initial particle, used to introduce an
opinion). Tiếng Việt dịch là “ôi”, hoặc bỏ đi, không dịch.
4.2. “Đại
nhân” 大人 đây là “người lớn” (great
man), tức Thánh Nhân; không phải là “người có lòng rất nhân từ” 大仁 (man of great
benevolence).
4.3. “Dữ” 與 là cùng với
(together with).
4.4. “Tự” 序 là thứ tự, trình tự
trước sau (order; sequence).
4.5. “Phất vi” 弗違 là
không làm trái ngược lại, không kình chống lại (not going against).
5. Phan Bội Châu (1867-1940) giảng rộng
nghĩa đoạn Văn Ngôn của hào cửu ngũ quẻ Càn như sau (Chu Dịch, quyển Thượng. Sài Gòn: nhà sách Khai Trí, 1969, tr. 94):
Bây
giờ lại hình dung cho tường tận đức của đại nhân. Hễ gọi một bậc đại nhân, tất
có đức lớn như trời đất, không chốn nào không che, không vật nào không chở. Có
đức sáng suốt như mặt trời mặt trăng, không chốn nào vật nào mà không soi dọi
đến nơi. Có trí khôn sắp xếp mỗi việc, tầng thứ trước sau, đúng như thì [thời]
tiết bốn mùa. Có tính khôn thiêng biết được việc lành việc dữ in như quỷ thần.
Gặp việc gì ý Trời muốn làm, đón trước được ý Trời mà làm thì Trời phải nghe
theo; thấy được việc gì ý Trời đã rõ rệt, làm theo sau Trời, mà quả
nhiên như Trời làm. Thế là đại nhân. Đại nhân tức là Thiên nên Thiên phải
nghe theo. Trời hãy còn nghe theo, mà huống gì người nữa ư.
6. Văn Ngôn quẻ Càn, hào năm, được bác sĩ Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ
(1921-2014) dịch thành lục bát “bay
bướm” như sau:
Đại
nhân đức hạnh bao la,
Như trời như đất cao xa muôn
trùng.
Sáng như nhật nguyệt hai
vừng,
Sống đời tiết tấu, hợp khung
bốn mùa.
Những điều lành dữ, ghét ưa,
Quỷ thần đường lối đem so
khác nào.
Trước Trời, Trời chẳng trách
đâu,
Sau
Trời,
cho hợp cơ mầu thời gian.
7. Trong đàn cơ tại Cơ Quan Phổ Thông
Giáo Lý Cao Đài Giáo Việt Nam vào giờ Hợi, ngày 07-11 Bính Thìn (Thứ Hai
27-12-1976), khi dẫn lại câu “Tiên Thiên nhi Thiên phất vi ...” Đức Đông Phương Chưởng Quản nhắc nhở các tịnh viên (người
tu tịnh) hãy giữ lòng thanh tĩnh 清静 (peaceful and quiet; ta hay nói là “thanh
tịnh”) để phát khởi (starting up) “mạch sống khí tiên thiên”,
và Ngài dạy rằng đây mới là chỗ “quan trọng đối với tịnh viên”.
Tuy
nhiên, đoạn thánh giáo này không dễ hiểu. Bởi vậy, tại Vĩnh Nguyên Tự, trong
đàn cơ vào giờ Tuất, ngày 11-11 Bính Thìn (Thứ Sáu 31-12-1976), Đức Vô Cực Từ
Tôn Diêu Trì Kim Mẫu giảng giải tôn ý của Đức Đông Phương Chưởng Quản như sau:
Này
con, tự tánh (a) vốn
là Thiên mạng chi tánh,(b) mà con
phải nhận được tự tánh mới đúng đạo. Con biết Đạo thì con không thể biết được tiên
thiên, bằng (c) con không biết Đạo
lại càng không biết tiên thiên nữa, con à! Hãy lấy nghĩa giản dị mà hiểu đi
con.
Ý
Đông Phương Lão Tổ bảo các con đọc lại lời Khổng Tử là các con chưa thanh tịnh,
chưa phục (d) được tiên thiên
chánh khí, nên tất cả những gì ngoại cảnh đều chi phối lòng con, hoặc nội tâm
thiền mà tự tánh chưa thiền [thì] làm sao chế ngự mọi sóng gió biến động bên
ngoài? (e) Bằng các con biết làm sống
lại tiên thiên chánh khí chính là chỗ vô vi thanh tịnh, con mới nhận thấy được
nhứt chơn pháp giới (f) để chế ngự
tất cả tình thức quấy nhiễu bên con.
Con
chế ngự được con thì mọi người đều trông vào con để tu học, nhìn vào con để
tiến bước. Người đã kính phục con thì quỷ thần nào dám trái lại. Phương chi (g) đức trọng quỷ thần còn kinh sợ, huống hồ gì tiên
thiên chánh khí là khí tạo nên Thái Nhất chi sơ.(h) Người tu hành không đạt được chánh khí đó thì còn luân hồi sanh tử. Dầu
là Đại Tiên, Kim Tiên nhưng chỉ ở vào một thế giới nào đó để hưởng thọ đến mãn
căn cũng trở lại mà tu luyện nữa. Con hiểu chăng?
* Ghi chú:
(a) Tự
tánh 自性: Cái tánh tự có (own nature; self-nature).
(b)
Thiên mạng chi tánh 天命之性: Cái tánh Trời ban cho (the nature conferred by Heaven).
(c)
Bằng: Nhược bằng; nếu như; nếu (if; in
case that).
(d) Phục
復: Phục hồi; lấy lại (recovering; restoring; resuming).
(e) Phúc
Âm (Mác-cô 4:35-40) chép việc Chúa Giê-su “quở” cho sóng gió trên biển Ga-li-lê
phải lặng yên là một ẩn dụ (metaphor)
ngầm nói đến cái lý đạo huyền nhiệm “chế
ngự mọi sóng gió biến động bên ngoài” như lời Đức Mẹ dạy.
(f) Nhứt
chơn pháp giới 一真法界: Cái “cõi” (realm) từ xưa đến nay vốn không sinh
không diệt, chẳng không chẳng có, không danh không tướng (neither name nor form), không trong không ngoài, chỉ có một chơn
thật chẳng thể nghĩ bàn (the one true
dharma realm).
(g) Phương
chi: Huống chi; hà huống 何況; còn nói chi tới (let alone; much less; still less; to say
nothing of).
(h) Thái
Nhất chi sơ 太一之初: “Thái Nhất” hay “Thái Ất” 太乙
cũng là: Đạo; bản thể 本體; bổn nguyên của vũ trụ vạn vật (vũ trụ vạn vật đích bổn nguyên 宇宙萬物的本原); khí hỗn độn (hỗn
độn chi khí 混沌之氣), v.v... “Thái Nhất chi sơ” là chỗ ban sơ (beginning) của Thái Nhất.
*