HAI NGỤ NGÔN VỀ CHUỘT
Huệ Khải
Chuột
nhắt và sư tử
Aesop (khoảng 620-564 trước Công Nguyên)
là một người Hy Lạp nổi tiếng vì những câu chuyện ngụ ngôn được lưu truyền khắp
thế giới. Trong số các chuyện mà hầu như ai ai cũng biết từ thuở còn làm cô cậu
học trò nhỏ bé là chuyện chuột nhắt và sư tử.
Có chú chuột nhắt một hôm cứ chạy giỡn
trên mình con sư tử đang nằm thiu thiu ngủ. Chợt tỉnh giấc, sư tử quơ một cái
là tóm gọn oắt con tinh nghịch nắm trong bộ móng sắc to lớn. Hoảng hồn hoảng
vía, chuột nhắt rối rít van lạy: “Xin đại vương tha mạng cho con lần này, con
không đời nào quên ơn. Biết đâu có ngày con sẽ cứu giúp được ngài.” Sư tử không
khỏi buồn cười khi nghe kẻ hèn mọn nói sẽ có ngày cứu giúp được mình; tuy nhiên
chúa sơn lâm cũng rộng lòng thả cho sinh linh bé nhỏ thoát thân.
Thời gian trôi đi, ngày kia sư tử sa bẫy
thợ săn, thân hình bị trói ghịt không cách chi cục cựa nổi. Trong lúc nhóm thợ
săn đang kéo nhau đi tìm xe chở chúa sơn lâm đem về nộp cho quan mà lãnh thưởng
thì chú chuột nhắt hôm nào tình cờ chạy ngang qua hiện trường. Mau mắn, chuột
nhắt dùng bộ răng lợi hại của mình cắn nát từng sợi dây. Nhờ vậy, sư tử thoát
đại nạn.
Chuột
và voi rừng
Ngụ ngôn của Aesop dường như có không ít
“dị bản” ở nhiều nước khác. Chuyện chuột nhắt và sư tử vì thế trở thành chuyện
chuột và voi rừng, lưu truyền ở Ấn Độ như sau:
Ngày xưa có đàn chuột trong rừng rất
khiếp sợ đàn voi. Mỗi khi đàn voi kéo nhau đi, những bàn chân to bè của chúng
thường giẫm chết không ít con chuột xấu số. Một hôm, chuột đầu đàn đến gặp voi
đầu đàn thương thuyết: “Nếu ngài tha mạng chúng tôi, khi cần tới thì chúng tôi
sẽ giúp lại ngài.”
Voi đầu đàn đồng ý, ra lệnh cho cả đàn
phải hết sức cẩn thận, không được giẫm chết một con chuột nào cả. Chẳng những
thế, mỗi khi sắp đi vào vùng đất của đàn chuột, đàn voi còn lớn tiếng báo động:
“Chúng tôi đang tới đây. Chúng tôi đang tới đây.” Thế là đàn chuột kịp thời di
tản và được an toàn tánh mạng.
Nhưng rồi nhà vua phái nhiều thợ săn giỏi
vào rừng giăng bẫy để bắt sống voi đem về huấn luyện làm voi chiến, gọi là
tượng binh. Ngày lại ngày, đàn voi bị hao hớt dần vì lần lượt hết con này tới
con khác sa bẫy, bị trói chặt mang về kinh thành.
Voi đầu đàn áo não lắm, bèn đi gặp chuột
đầu đàn kể lể đầu đuôi đại nạn. Nghe xong, chuột đầu đàn bèn triệu tập cả đàn lại
và ra lệnh phải chia nhau rình rập ở gần các bẫy, hễ thấy voi nào bị trói thì liền
xúm vào cắn dây giải cứu ngay. Nhờ thế, đàn voi thoát nạn.
Trong hai mẩu chuyện trên, sư tử và voi
tượng trưng cho cái gì to tát, đáng trọng vọng; còn chuột tượng trưng cho cái
gì nhỏ nhít, đáng xem thường, như Cựu Ước (Lê-vi 11:29) từng phán: “Trong các loài vật nhỏ sống lúc nhúc trên
đất, các ngươi phải xem các loài nầy là ô uế: chuột chũi, chuột nhắt . . .” Nói
khác đi, giữa một bên là sư tử (hay voi) và một bên là chuột, người kể chuyện
đã đưa ra sự tương phản hay chênh lệch quá mức. Đó phải chăng là dụng ý?
Có thể như thế; bởi lẽ là ngụ ngôn, hai câu
chuyện cũ nhắc lại ở trên vốn cùng hàm chứa một bài học luân lý, phù hợp với
giáo lý các tôn giáo khuyên dạy con người nên biết ham làm lành, đừng chê một
việc thiện nhỏ nhít mà bỏ qua, vì nhân lành đã gieo thì quả lành sẽ tới. Chẳng
hạn, sách Minh Tâm Bảo Giám của đạo
Nho từ xưa khuyên: Nhất hào chi thiện, dữ
nhân phương tiện. 一毫之善, 與人方便. (Một việc lành dù nhỏ mọn như tơ tóc, cũng hãy dành cho
người khác.) Sách này còn chép thêm câu sau: Vật dĩ thiện tiểu nhi bất vi. 勿以善小而不為. (Đừng cho việc lành ấy là cỏn con mà chẳng
làm.)
Cổ nhân từng bảo cái khổ của của chúng
sinh dữ dội ví như “lửa cháy muôn xe”, nhưng đừng vì thế mà làm ngơ, nại rằng
sức mình yếu hèn, ví như một gáo nước nhỏ, không thể dập tắt đám cháy ấy. Ở
Huế, nhà nho Ưng Bình Thúc Giạ Thị (1877-1961) là thân phụ nữ sĩ Tôn Nữ Hỷ
Khương có lần diễn tả ý ấy thành hai câu thơ ngũ ngôn như sau: Chớ gọi rằng lửa xe / Không màng chi nước
gáo.
Cũng vậy, trong Thư 1 Gởi Tín Hữu Cô-rin-tô (1:28), Thánh tông đồ Phao-lô nói: “(N)hững gì thế gian cho là hèn mạt không
đáng kể, là không có, thì Thiên Chúa lại chọn . . .” Giảng rộng ra thì lời
của Thánh Phao-lô ngụ ý khuyên mọi người chớ nên khinh thường bất kỳ một việc
lành dù nó nhỏ nhít mấy chăng nữa, bởi lẽ Thiên Chúa không bỏ sót tí ti việc
lành nào cả, và Thiên Chúa sẽ chấm đủ công, sẽ ban thưởng cho điều lành ấy.
Mỗi khi có thiên tai, đại họa xảy ra,
hoặc khi có chiến dịch cứu đói người dân châu Phi, nhiều trường học trên thế
giới thường hay hướng dẫn các học trò bé bỏng đứng ra làm hội chợ từ thiện, bán
hàng gây quỹ cứu trợ. Một em bé sau cả ngày mệt nhoài vì rửa chén bát, ly cốc
tại gian hàng ẩm thực của lớp, trở về nhà kể chuyện với cha mẹ, thổ lộ rằng cả
lớp thu được số tiền quá ít ỏi, không thấm thía chi nếu so với số tiền rất to
tát cần có để cứu giúp các nạn nhân. Em buồn vì công sức các em giống như muối
bỏ biển. Bấy giờ cha em mới ôm em vào lòng an ủi, giải thích rằng nhà trường
muốn giáo dục cho các bé biết làm lành, hành thiện, nuôi dưỡng tâm bác ái từ thuở
còn thơ dại; như vậy, sau này lớn lên, có sự nghiệp lẫy lừng hay chỉ là một
công dân bình thường, các em vẫn luôn sẵn sàng chia sẻ phần sẵn có của mình để chung
tâm, chung tay làm vơi bớt nỗi thống khổ vô biên của những người bạc phước.
Giáo dục nhân bản là thế. Ít mà nhiều là
thế, như hai đồng tiền của bà góa nghèo khó (Lu-ca 21:1-4).([1]) Ngụ ngôn chuột và sư tử (hay voi) khi đem vào trường dạy
cho trẻ thơ, xét cho cùng, nào phải nhằm tạm mua vui cho những tâm hồn non nớt.
Nhiêu Lộc, 24-12-2019
Huệ Khải