KẺ TỘI LỖI HỐI NGỘ
Lev
Tolstoy (Mạc Tư Khoa, 1886)
Rồi anh ta thưa với Đức Giê-su: “Ông Giê-su ơi, khi ông vào Nước
của ông, xin nhớ đến tôi.” Và Người nói với anh ta: “Tôi bảo thật anh, hôm nay,
anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng.”
(Lu-ca 23:42-43)
*
Từng có một ông sống bảy mươi năm trên đời,([2]) và sống ngần ấy
thời gian trong tội lỗi. Ông ngã bệnh, nhưng ngay cả lúc đó vẫn chẳng sám hối.
Chỉ đến giây phút sau cùng, khi hấp hối, ông mới khóc và nói:
Khi ông thốt ra những lời này, hồn ông lìa khỏi thân
xác. Cảm nhận được tình yêu kính Thượng Đế cùng với đức tin vào lòng từ bi của Đấng
Chí Tôn, hồn kẻ tội lỗi đi tới Cổng Trời, gõ cửa, nguyện cầu xin phép được vào Nước
Trời.
Bấy giờ bên trong cổng vang lên giọng nói:
“Ông nào gõ
cửa Thiên Đàng thế? Trong đời ông này đã làm những việc gì vậy?”
Thần Công Tố lên tiếng trả lời, kể lại tất cả những
tội lỗi ông ta gây tạo, và chẳng có một việc lành nào cả.
Giọng nói bên trong cổng vang lên:
“Những kẻ tội
lỗi không thể vào Nước Trời. Ngươi hãy đi đi!”
Khi ấy ông ta nói:
“Thưa ngài,
con nghe giọng ngài nhưng chẳng thấy mặt mà cũng không biết danh ngài.”
Giọng nói trả lời:
“Ta là Phê-rô,
Tông Đồ.”
Và kẻ tội lỗi đáp lại:
“Hãy thương xót con, hỡi Tông Đồ Phê-rô! Xin ngài hãy
nhớ tới sự yếu đuối của con người và lòng từ bi của Thượng Đế. Ngài há chẳng
phải là một môn đệ của Đức Ki-tô sao? Chẳng phải ngài được nghe thánh huấn
truyền ra từ chính miệng Chúa? Chẳng phải Chúa đã là tấm gương sáng trước mắt
ngài ư? Thì ngài hãy nhớ, khi Chúa u sầu, lòng dạ đau khổ, và ba lần Chúa bảo
ngài tỉnh thức mà cầu nguyện, thì ngài cứ ngủ, vì đôi mắt ngài nặng chịch, và
ba lần Chúa thấy ngài say ngủ.([4]) Thì con cũng thế
thôi mà. Xin ngài cũng nhớ cho, chính ngài đã hứa trung thành với Chúa tới
chết, thế nhưng ba lần ngài chối Chúa, khi Chúa bị đưa tới trước mặt thượng tế Cai-pha.
Thì con cũng thế thôi mà. Và xin cũng nhớ rằng khi gà gáy ngài đã bỏ ra ngoài
mà khóc lóc đắng cay.([5]) Thì con cũng thế
thôi mà. Ngài chẳng thể từ chối, không cho con vào Nước Trời.”
Giọng nói phía sau cổng lặng thinh.
Kẻ tội lỗi đứng đó một lúc, và lại bắt đầu gõ nữa,
cầu xin được vào Nước Trời.
Và ông nghe phía sau cánh cổng vang lên một giọng nói
khác:
“Ông này là ai? Ông ta sống dưới trần thế nào?”
Giọng Thần Công Tố trả lời, lặp lại lần nữa tất cả
những tội lỗi của ông ta, và chẳng có một việc lành nào cả.
Rồi giọng nói phía sau cánh cổng trả lời:
“Vậy thì ngươi
hãy đi đi. Những kẻ tội lỗi như thế chẳng được sống với chúng ta nơi Thiên
Đàng.”
Khi ấy kẻ tội lỗi nói:
“Thưa ngài, con nghe giọng ngài mà không thấy ngài,
cũng không biết danh ngài.”
Thì giọng nói đáp:
“Ta là Đa-vít; là vua cũng là ngôn sứ.”
Kẻ tội lỗi không thất vọng, cũng không rời khỏi cổng
Thiên Đàng. Ông nói:
“Hãy thương xót con, hỡi vua Đa-vít! Xin ngài hãy nhớ
tới sự yếu đuối của con người và lòng từ bi của Thượng Đế. Thượng Đế yêu ngài
và tán dương ngài hơn mọi người. Ngài có tất cả: một
vương quốc, vinh quang, của cải, các thê thiếp, và con cái; nhưng đứng trên sân
thượng đền vua, khi nhìn thấy bà Bát Se-va, vợ ông U-ri-gia đang tắm thì tội lỗi ngự trị tâm hồn ngài,
nên ngài bèn chiếm đoạt bà vợ, rồi mượn gươm
con cái Am-mon mà giết ông chồng.([6]) Ngài, một người giàu có, lại cướp đi người vợ yêu quý của ông
chồng đáng thương, lại còn giết chết ông ta nữa. Con cũng làm giống như ngài mà
thôi. Thế thì, xin ngài hãy nhớ, ngài đã sám hối thế nào, đã nói: ‘Ta thú nhận
sự phạm pháp của ta; tội lỗi của ta cứ hiển hiện trước mắt ta.’ Con cũng phạm
tội giống y ngài đấy thôi. Ngài chẳng thể từ chối, không cho con vào Nước Trời.”
Giọng nói phía trong cổng lặng thinh.
Kẻ tội lỗi cứ đứng đó một lúc, lại bắt đầu gõ cửa
nữa, cầu xin được vào Nước Trời. Ông nghe giọng nói thứ ba bên trong cổng vang
ra:
“Ông này là ai, đã sống thế nào trên cõi trần?”
Thần Công Tố lên tiếng trả lời lần thứ ba, kể lại
những tội lỗi của ông ta, và chẳng nêu được một việc lành nào cả.
Và giọng nói phía trong cánh cổng vang ra:
“Vậy thì ngươi hãy đi đi. Những kẻ tội lỗi không thể
vào Nước Trời.”
Kẻ tội lỗi nói:
“Con nghe giọng ngài mà không thấy mặt ngài, cũng
không biết danh ngài.”
Khi ấy giọng nói trả lời:
Kẻ tội lỗi hân hoan thốt lên:
“Giờ đây chắc chắn con được phép đi vào Nước Trời
rồi. Thánh Phê-rô và vua Đa-vít phải để cho con vào, vì các ngài biết sự yếu
đuối của con người và đức từ bi của Thượng Đế. Mà ngài sẽ để con vào vì ngài
thương yêu rất nhiều. Chẳng phải là ngài ư, hỡi Thánh Gio-an môn đồ Chúa Ki-tô
yêu dấu? Có phải ngài từng viết rằng Thượng Đế là tình thương, kẻ nào không có
tình thương thì không biết Thượng Đế? Và ngày xưa ngài đã bảo dân chúng rằng hỡi
anh em, hãy thương yêu nhau. Thế thì, sao ngài lại có thể nhìn con với lòng thù
nghịch và xua đuổi con đi khuất mắt? Hoặc là ngài phải chối bỏ những gì ngài đã
nói, hoặc là vì yêu thương con mà phải để cho con vào Nước Trời.”
Tức thì đôi cánh cổng Thiên Đàng mở ra, Thánh Gio-an
ôm chầm lấy kẻ tội lỗi hối ngộ và đưa ông vào Nước Trời.
Lev Tolstoy (Mạc Tư Khoa, 1886)
Huệ Khải (Nhiêu
Lộc, 24-12-2019)
([1]) Căn cứ theo bản
dịch tiếng Anh nhan đề The Repentant
Sinner, của ông Aylmer Maude (1858-1938) và bà Louise Maude (1855-1939), in
trong hiệp tuyển Twenty-Three Tales
(London: Nxb Oxford University Press, 1906), tr. 228-230. Đây là truyện thứ sáu
trong Phần V: Folk-Tales Retold
(Những Chuyện Dân Gian Kể lại), và là truyện thứ mười bảy trong hiệp tuyển. Về
hai vợ chồng Maude, xem Huệ Khải, Nơi Nào thương Yêu Thì Có Thầy (Hà Nội: Nxb Hồng Đức, 2019, tr. 5).
([2]) Tại sao Tolstoy
cho ông này sống bảy mươi năm? Tại sao là bảy mươi mà không là một con số khác?
Có lẽ Tolstoy ngầm nhắc chúng ta nhớ tới lòng khoan dung, tha thứ của Chúa
Giê-su. Phúc Âm chép:
Bấy giờ, ông
Phê-rô đến gần Đức Giê-su mà hỏi: “Thưa Thầy, nếu anh em con cứ xúc phạm đến
con, thì con phải tha đến mấy lần? Có phải bảy lần không?” Đức Giê-su đáp:
“Thầy không bảo là đến bảy lần, nhưng là đến bảy mươi lần bảy.” (Mát-thêu
18:21-22)
([4]) Bấy giờ Đức Giê-su đi cùng với các ông đến
một thửa đất gọi là Ghết-sê-ma-ni. Người nói với các môn đệ: “Anh em ngồi lại
đây, Thầy đến đàng kia cầu nguyện.” Rồi Người đưa ông Phê-rô và hai người con
ông Dê-bê-đê đi theo. Người bắt đầu cảm thấy buồn rầu xao xuyến. Bấy giờ Người
nói với các ông: “Tâm hồn Thầy buồn đến chết được. Anh em ở lại đây mà canh
thức với Thầy.” Người đi xa hơn một chút, sấp mặt xuống, cầu nguyện: “Lạy Cha,
nếu có thể được, xin cho con khỏi phải uống chén này. Tuy vậy, xin đừng theo ý
con, mà xin theo ý Cha.” Rồi Người đến chỗ các môn đệ, thấy các ông đang ngủ,
liền nói với ông Phê-rô: “Thế ra anh em không thể canh thức nổi với Thầy một
giờ sao? Anh em hãy canh thức và cầu nguyện, để khỏi lâm vào cơn cám dỗ. Vì
tinh thần thì hăng say, nhưng thể xác lại yếu hèn.” Người lại đi cầu nguyện lần
thứ hai và nói: “Lạy Cha, nếu con cứ phải uống chén này mà không sao tránh
khỏi, thì xin vâng ý Cha.” Rồi Người lại đến, thấy các môn đệ vẫn đang ngủ, vì
mắt họ nặng trĩu. Người để mặc các ông mà đi cầu nguyện lần thứ ba, nói lại
cũng một lời đó. Bấy giờ Người đến chỗ các môn đệ và nói với các ông: “Lúc này
mà còn ngủ còn nghỉ sao?” (Mát-thêu 26:36-45)
([5]) Lúc đó ông Phê-rô đang ngồi ngoài sân. Một
người đầy tớ gái đến bên ông và nói: “Cả bác nữa, bác cũng đã ở với ông Giê-su,
người Ga-li-lê đó chứ gì?” Ông liền chối trước mặt mọi người mà nói: “Tôi không
biết cô nói gì!” Ông đi ra đến cổng, thì một người tớ gái khác thấy ông, liền
nói với những người ở đó: “Bác này cũng đã ở với ông Giê-su người Na-da-rét
đấy.” Nhưng ông Phê-rô lại thề mà chối: “Tôi không biết người ấy.” Một lát sau,
những người đứng đó xích lại gần ông Phê-rô mà nói: “Đúng là bác cũng thuộc bọn
họ. Cứ nghe giọng nói của bác là biết ngay.” Bấy giờ ông Phê-rô liền thề độc mà
quả quyết: “Tôi thề là không biết người ấy.” Ngay lúc đó, có tiếng gà gáy. Ông
Phê-rô sực nhớ lời Đức Giê-su đã nói: “Gà chưa kịp gáy thì anh đã chối Thầy ba
lần.” Ông ra ngoài, khóc lóc thảm thiết. (Mát-thêu 26:69-75)