LƯỢC SỬ ĐẠO CAO
ĐÀI: KHAI MINH ĐẠI ĐẠO 1926
VII. RỜI KHỎI GÒ KÉN
ĐỂ VỀ ĐẤT MỚI
1.
Hòa Thượng Như Nhãn đòi lại chùa
Cuối tháng 8-1926, Hòa
Thượng Như Nhãn đã bằng lòng cho mượn chùa Thiền Lâm (kiến tạo chưa hoàn chỉnh)
để đạo Cao Đài làm thánh thất.
Đêm Thứ Năm 18 rạng Thứ
Sáu 19-11-1926 (đêm 14 rạng 15-10 Bính Dần), sau khi Đức Chí Tôn thăng thì tà
quái xâm nhập chánh điện thánh thất Thiền Lâm, vì tiền khai Lê Văn Lịch (Ngọc
Lịch Nguyệt) sơ sót trong việc trấn đàn. Sự kiện đáng tiếc này khiến Hòa Thượng
Như Nhãn mất lòng tin.
Cũng do áp lực từ các
Phật tử cho nên vào đầu tháng 12-1926, Hòa Thượng Như Nhãn nhất quyết đòi các
tiền khai Cao Đài trả lại chùa Thiền Lâm. Vì vậy, trong đàn cơ Thứ Bảy
04-12-1926 (30-10 Bính Dần), các tiền khai xin Đức Chí Tôn cho phép trả tiền
Hòa Thượng Như Nhãn để giữ lại thánh thất.([1])
Một tháng sau, trong đàn
cơ Thứ Ba 04-01-1927 (01-12 Bính Dần), khi Đầu Sư Thượng Trung Nhựt (Lê Văn
Trung) bạch về việc Hòa Thượng Như Nhãn đòi lại thánh thất Thiền Lâm, Đức Chí
Tôn dạy: “Phần nhiều trong các con chẳng
vừa lòng thánh thất, nguyện xin trả. Thầy sẽ dạy [Nguyễn Ngọc] Thơ.” ([2])
Liên quan tới việc Hòa
Thượng đòi chùa, vào Thứ Bảy 19-02-1927 (18-01 Đinh Mão) tại thánh thất Thiền
Lâm, Đức Lý Thái Bạch dạy: “Ngày nay, Lão
nhứt định trả lại chùa này.” ([3])
2.
Tòa Thánh tương lai và thánh địa Tây Ninh
Tại thánh thất Thiền Lâm,
trong cùng đàn cơ Thứ Bảy 19-02-1927, Đức Lý dạy: “Chư đạo hữu phải hiệp sức chung nhau đặng lập thành Tòa Thánh. Chi chi
cũng ở tại Tây Ninh nầy mà thôi, vì là thánh địa. Vả lại, phong thổ thuận cho
nhiều nước ngoại quốc đến đây học đạo. Lão muốn nơi khác mà Chí Tôn không
chịu.” ([4])
Hôm sau, Chủ Nhật
20-02-1927 (19-01 Đinh Mão), tại thánh thất Thiền Lâm, về việc chọn đất cất Tòa
Thánh, Đức Chí Tôn dạy:
“Còn Tòa Thánh thì Thầy muốn cho có nhơn lực hiệp cùng Thiên ý, ấy là
hạnh của Thầy. Các con nên xem gương mà bắt chước.
Từ Thầy đến lập Đạo cho các con đến giờ, Thầy chưa hề một mình chuyên
quyền bao giờ. Các con lựa chọn nơi nào mà Hội Thánh vừa lòng thì đẹp lòng
Thầy. Các con phải chung hiệp nhau mà lo cho hoàn toàn Tòa Thánh. Chi chi cũng
tại Tây Ninh đây mà thôi.” ([5])
Như vậy, vào hạ tuần
tháng 02-1927, đã phát sinh một nhu cầu bức thiết là phải sớm tìm kiếm đất mới để
vừa cất thánh thất tạm và vừa xây dựng Tòa Thánh; đất mới ấy chỉ tìm trong phạm
vi thánh địa Tây Ninh mà thôi.
3.
Hướng dẫn về việc tìm đất mới
Chủ Nhật 20-02-1927
(19-01 Đinh Mão), tại thánh thất Thiền Lâm, Đức Chí Tôn dạy: “Các con đã hiểu thánh ý Thầy, phải cần kiệm.
Mỗi sự chi chỉ vì phương tiện mà thôi.”
Để có tiền mua đất cất
Tòa Thánh, liền sau lời khuyên ấy Đức Chí Tôn dạy Đầu Sư Thái Thơ Thanh (Nguyễn
Ngọc Thơ): “Thơ, Thầy giao cho con góp tư
bổn trong một tháng cho rồi. Dặn các em con rằng danh thể của Đạo nơi Tòa
Thánh, nghe à. Sau Thái Bạch sẽ dạy con kiểu vở.”
Kế đến, Đức Chí Tôn dạy
về ưu khuyết điểm của một vài địa điểm ở Tây Ninh đang được các
tiền khai xem xét chọn lựa: Cẩm Giang thì cực khổ về phần ăn uống. Bến Kéo thì địa thế hẹp hòi. Suối Vàng
thì chuyên chở không thuận tiện dẫu phong thổ tốt đẹp. Ngài còn gợi ý các tiền
khai tìm tới “mé rừng cấm bên kia đường
thì đẹp lắm”.([6])
4.
Đức Lý Thái Bạch chỉ dẫn đi tìm đất và mua đất
Thứ Hai 21-02-1927 (20-01
Đinh Mão), tại thánh thất Thiền Lâm, Đức Lý Thái Bạch dạy Đầu Sư Thái Thơ Thanh
(Nguyễn Ngọc Thơ): “Mai nầy đi lên đường
trên gọi là đường Dây Thép,([7]) nhắm địa thế dài theo cho tới ngã ba Ao Hồ.”
([8])
Thứ Tư 23-02-1927 (22-01
Đinh Mão), tại thánh thất Thiền Lâm, Đức Lý Thái Bạch dạy Đầu Sư Thượng Trung
Nhựt: “Hiền hữu nói với Thái Thơ Thanh
rằng chừng nào mua đất xong, Lão sẽ vẽ họa đồ khác. Nhớ biểu mua cho chí hết
đất Ao Hồ cho trọn vẹn thánh địa, nghe à. (...) Phải mua hết trọn khoảnh đất
ấy. Còn rừng, sau cũng phải xin khai khẩn...” ([9])
Thứ Năm 24-02-1927 (23-01
Đinh Mão), tại thánh thất Thiền Lâm, Đức Lý Thái Bạch khen Đầu Sư Thái Thơ
Thanh (Nguyễn Ngọc Thơ) đã tìm đúng miếng đất để cất Tòa Thánh. Về mặt phong
thủy, Ngài giải thích vì sao nơi ấy là thánh địa: Sâu xuống lòng đất ba trăm
mét là nơi giao hội của sáu mạch nước, gọi là lục long phò ấn.
Aspar, viên kiểm lâm
người Pháp cũng là chủ đất, ra giá bán khoảnh rừng là hai mươi (hay hai mươi
lăm) ngàn đồng Đông Dương; tuy nhiên Đức Lý dặn dò các tiền khai trả xuống mười
bảy hay mười tám ngàn thì mua được.
5.
Đức Lý vẽ họa đồ
Thứ Hai 28-02-1927 (27-01
Đinh Mão), tại thánh thất Thiền Lâm, Đức Chí Tôn dạy Đầu Sư Thái Thơ Thanh
(Nguyễn Ngọc Thơ) rằng nếu cất Tòa Thánh dựa theo bản vẽ của Đức Lý mà quá tốn
kém, thì giảm bớt kích thước bằng cách dùng thước mộc (tương đương 0,4 mét).
Sau khi Đức Chí Tôn
thăng, Đức Lý giáng đàn và dạy Phối Sư Thái Bính Thanh (Lâm Quang Bính) về việc
di dời Quả Càn Khôn và pho tượng Thái Tử Sĩ Đạt Ta cỡi ngựa Kiền Trắc (theo sau
là Xa Nặc) đưa về thánh thất tạm ở đất mới mua. Ngài còn dạy Thái Phối Sư cách
cắm cột mốc và đo đạc đất để cất Tòa Thánh. Sau đó, ngay trưa hôm ấy, hai vị Hộ
Pháp Phạm Công Tắc và Thượng Phẩm Cao Quỳnh Cư lập đàn trong chánh điện Thiền
Lâm để Đức Lý vẽ họa đồ lên một tờ giấy lớn. Chỉ riêng Phối Sư Thái Bính Thanh
được phép hầu đàn này. Tuy nhiên, nếu cất Tòa Thánh theo đúng họa đồ của Đức Lý
thì chi phí quá lớn, cho nên vài hôm sau Đức Chí Tôn đã giảm bớt kích thước.
6.
Thực dân Pháp đàn áp
Thực dân Pháp nghi ngờ
người đạo Cao Đài làm chánh trị nên bắt đầu đàn áp. Thứ Ba 08-3-1927 (07-02
Đinh Mão), tại thánh thất Thiền Lâm, Đức Chí Tôn dạy Đầu Sư Thượng Trung Nhựt
(Lê Văn Trung) phải tức tốc gặp Thống Đốc Nam Kỳ Blanchard de la Brosse để giải
tỏa mọi ngờ vực. Nếu chẳng kết quả thì phải đánh điện tín sang Pháp kêu nài với
chánh phủ. Rốt cuộc, chuyến đi ấy không thành công nên vào Thứ Bảy 19-3-1927
(16-02 Đinh Mão), Đức Chí Tôn dạy Đầu Sư Thượng Trung Nhựt (Lê Văn Trung) phải
gặp Thống Đốc Nam Kỳ lần nữa.([10])
VIII. LỜI KẾT
Thứ Tư 23-3-1927 (20-02
Đinh Mão) là ngày các tiền khai Cao Đài trả lại chùa Thiền Lâm cho Hòa Thượng
Như Nhãn. Vì thế, trước ngày ấy mọi thứ của thánh thất đều phải lo chở hết về
đất mới mua ở làng Long Thành.
Cuộc thiên di nhọc nhằn
này đã kết thúc thời gian Khai Minh Đại Đạo tại thánh thất Thiền Lâm, chánh
thức khai diễn trong ba ngày ba đêm (18, 19, và 20-11-1926), và rốt cuộc đã kéo
dài bốn tháng (vì trễ hạn trả chùa một tháng). Cuộc thiên di này cũng đánh dấu
một bước ngoặt mới trong lịch sử đạo Cao Đài: Thời kỳ xây dựng Tòa Thánh Tây
Ninh.
Nhiêu Lộc, 28-7-2015
HUỆ KHẢI
[Nguyễn Văn Hồng 1], Đạo Sử Nhựt Ký. Quyển 1 (1925-1934). Bản
thảo (1.213 trang).
PHỤ LỤC
Năm sinh và năm tạ thế một số vị tiền khai
Ca Minh Chương (1850/1855?-1927)
Ca Thị Thế (1884-1956)
Cao Đức Trọng (1897-1958)
Cao Hoài Sang (1901-1971)
Cao Quỳnh Cư (1888-1929)
Cao Quỳnh Diêu (1884-1958)
Dương Văn Nương (Thái Nương Tinh,
1870-1929)
Đoàn Văn Bản (Thượng Bản Thanh, 1876-1941)
Đỗ
Văn Vàng (1880-1950)
Huỳnh
Văn Giỏi (Thượng Giỏi Thanh, 1880-1954)
Lại
Văn Hành (Thượng Hành Thanh, 1878-1939)
Lâm Ngọc Thanh (Hương Thanh, 1874-1937)
Lâm Quang Bính (Thái Bính Thanh,
1876-1931)
Lê
Bá Trang (Ngọc Trang Thanh, 1878-1936)
Lê Thế Vĩnh (1903-1945)
Lê Thiện Phuớc (1895-1975)
Lê Văn Giảng (1883-1932)
Lê Văn Lịch (Ngọc Lịch Nguyệt, 1890-1947)
Lê
Văn Trung (Thượng Trung Nhựt, 1876-1934)
Lý Trọng Quí (1872-1945)
Ngô Văn Chiêu (1878-1932)
Ngô
Văn Điều (1868-1938)
Ngô
Văn Kim (Thượng Kim Thanh, 1868-1940)
Nguyễn Ngọc Thơ (Thái Thơ Thanh,
1873-1950)
Nguyễn Ngọc Tương (Thượng Tương Thanh, 1881-1951)
Nguyễn Tấn Hoài (Thượng Hoài Thanh, 1881-1949)
Nguyễn Thị Hiếu (Hương Hiếu, 1887-1971)
Nguyễn Thiên(g) Kim (1870-1946)
Nguyễn Trung Hậu (1892-1961)
Nguyễn Văn Chức (Thượng Chức Thanh,
1873-1956)
Nguyễn Văn Kiệt (1881-1965)
Nguyễn Văn Kinh (Ngọc Kinh Thanh,
1890-1945)
Nguyễn Văn Lai (Thượng Lai Thanh,
1876-1939)
Nguyễn Văn Luật (Thái Luật Thanh, 1869-1948)
Nguyễn Văn Mạnh (1894-1970)
Nguyễn Văn Trò (Thượng Trò Thanh,
1886-1949)
Nguyễn Văn Tương (Thượng Tương Thanh,
1879-1926),
Nguyễn Văn Tường (Thượng Tường Thanh, 1887-1939)
Như Nhãn (Thích Từ
Phong, Nguyễn Văn Tường, 1864-1939).
Phạm
Công Tắc (1890-1959)
Phạm
Tấn Đãi (1901-1976)
Phạm Văn Tươi (1897-1976)
Thái Văn Thâu (1899-1981)
Thích Thiện Minh (Thái Minh Tinh, 1882-1945)
Trần Duy Nghĩa (1888-1954)
Trần Đạo Quang (1870-1946)
Trần Văn Giống (Thái Giống Thanh,
1879-1930)
Trần Văn Thụ (Ngọc Thụ Thanh, 1857-1927)
Trương Hữu Đức (1890-1976)
Trương Văn Tràng (1893-1965)
Vương Quan Kỳ (Thượng Kỳ Thanh, 1880-1939)