Minh Lý
Ðạo (Minh Lý Thánh Hội, có thánh sở Tam Tông Miếu ở số 82 Cao Thắng, quận 3) được
các Ðấng thiêng liêng lần lượt giáng cơ ban Kinh
Sám Hối trong hơn bảy tháng, bắt đầu từ Chủ Nhật 19-4-1925 (27-3 Ất Sửu)
đến Thứ Bảy 21-11-1925 (06-10 Ất Sửu) thì hoàn kinh, gồm có 420 câu thơ song
thất lục bát, với trình tự như sau (đánh số nhảy các câu 125-148, nơi *Ðức Quan Âm Bồ Tát, ngày 24-6-1925):
Ðức Thái Thượng Đạo Tổ (19-4-1925), câu 1-24;
Ðức Thái Thượng Lão Quân (22-4-1925), câu
25-52;
Ðức Quan Âm Bồ Tát (26-4-1925), câu 53-64;
Ðức Nam Cực Chưởng Giáo (05-5-1925), câu
65-72;
Ðức Quan Thánh Ðế Quân (22-5-1925) câu 73-88;
Ðức Nhiên Ðăng Cổ Phật (ngày ?), câu 89-100;
Ðức Quan Âm Bồ Tát (14-6-1925), câu 101-104;
*Ðức Quan Âm Bồ Tát (24-6-1925), câu
105-124; 149-160;
Ðức Ðịa Tạng Vương Bồ Tát (04-7-1925), câu
161-212;
Ðức Khổng Phu Tử (20-7-1925), câu 213-284;
Ðức Ðịa Tạng Vương Bồ Tát (08-8-1925), câu
285-308;
Đức Tề Thiên Đại Thánh (25-8-1925), câu
309-356;
Đức Thập Ðiện Minh Vương (27-8-1925), câu
357-376;
Ðức Lữ Tổ (09-9-1925) và Đức Thái Ất Thiên Tôn (25-9-1925), câu
377-392;
Đức Alfred Aya (21-10-1925), câu 393-424;
Ðức Quan Âm Bồ Tát (21-10-1925), câu
425-440;
Ðức Vân Trung Tử (21-11-1925), câu 441-444.
Sau khi các
Đấng ban xong Kinh Sám Hối, Ðức Ðông
Phương Lão Tổ giáng cơ ban thêm Bài
Khen Ngợi Kinh Sám Hối, gồm 14 câu lục bát.
Đến Thứ
Sáu 27-11-1925 (12-10 Ất Sửu) Đức Đông Huê Đế Quân giáng cơ dạy: “Nhơn ta đi tuần, thấy chư nhu thiết đàn, ta
giáng tại thử đặng chứng từ đầu. Nghe đọc Kinh Sám Hối tới chữ nhơn,([1]) chẳng
đủ nghĩa. Để ta cho thêm ít câu.”
Kế đó Đức
Đông Huê Đế Quân ban thêm sáu khổ thơ
(câu 125-148) chen vào giữa hai đoạn *Đức Quan
Âm Bồ Tát đã tả ngày 24-6-1925. Như thế Kinh Sám Hối tổng cộng 444 câu.([2])
Thứ Sáu 08-7-1927
(10-6 Ðinh Mão), viết bài Lược Thuật Về
Việc Tiếp Kinh, vị trụ trì đầu tiên của Tam Tông Miếu là ngài Minh Chánh ([3]) cho biết:
“Một khi kia, đến cầu kinh giùm một người
bằng hữu thọ bịnh tại Thủ Thiêm, có Ðức Thái Thượng Lão Quân giáng xuống mà cho
một khoản đầu Kinh Sám Hối.
“Sau lần lần, mỗi khi cúng, có Tam Giáo Ðạo
Chủ, hoặc là chư Phật, chư Tiên, chư Thánh, chư Thần, hoặc là Thập Ðiện Minh
Vương giáng đàn cho tiếp Kinh Sám Hối.
“Cũng tưởng rằng Thần Tiên cho kinh đó đặng
làm phước giúp người mà thôi, không dè Ðức Văn Tuyên Vương giáng dạy chúng tôi
phải kiếm một cảnh chùa, đặng ngày sóc, ngày vọng, đến đó dưng hương và sám hối.
“Rất may cho chúng tôi mới gặp ông chủ chùa
và ông Giáo Thọ ([4]) tại
Linh Sơn Tự,([5]) rất hảo
tâm, vừa nghe qua những lời của chúng tôi nói, thì cho là việc phải, nên vui
lòng cho phép cúng tại chùa. Nhờ nơi đó, nên mỗi tháng, đến ngày 14 và 30
(tháng thiếu 29) âm lịch, có chỗ thiết lễ mà cúng và tụng Kinh Sám Hối
cho người biết điều phải mà làm theo.” ([6])
Khi mới thành lập nền tảng phổ độ của đạo
Cao Ðài vào năm 1926 (Bính Dần), Ðức Chí Tôn dạy các tiền khai Đại Đạo đến Minh
Lý Đạo thỉnh kinh. Trong lúc ấy các tiền khai ở Minh Lý Đạo cũng được Ơn Trên
giáng cơ dạy chuẩn bị truyền kinh. Cùng với một số kinh khác, Kinh Sám Hối từ Minh Lý Đạo đã được
truyền sang đạo Cao Đài như thế.([7])
*
Kinh
Sám Hối (bài ngắn thứ hai, in trong Kinh Tận Độ của Hội Thánh Truyền Giáo Cao Đài) mở đầu với câu: “Quỷ lục dục thất tình cám dỗ”; mỗi
người sống ở thế gian đều có đủ mười ba con ma nội tại, nên cứ hễ sẩy ra một
chút là lập tức tạo lấy cho mình ba nghiệp thân, khẩu, ý. Ba nghiệp này mãi
xoay vần, ràng buộc con người vào vòng đau khổ triền miên vì luân hồi nghiệp quả
báo ứng. Do đó, Ơn Trên sớm ban Kinh Sám Hối để truyền giảng lời lành khuyến
thiện, dạy rõ luật nhân quả công bình để con người tỉnh ngộ, rèn tâm sửa nết.
Sám
hối 懺悔 là ăn
năn thú tội để xin sửa đổi (repentance).
Sám hối hiển nhiên lúc nào cũng rất cần thiết cho mọi người, nhất là đối với
người tu. Đức Chí Tôn dạy: “Mỗi khi đứa
nào lầm lỡ một việc gì, rán mà sám hối ăn năn.” ([8])
Giúp môn sanh
đối trị lỗi lầm hiện tại, Đức Giáo Tông Đại Đạo Thái Bạch Kim Tinh dạy: “Tội lỗi hiện kiếp có thể dùng hình thức
sám hối để xóa mờ…” ([9])
Giúp bổn đạo đối
trị nghiệp chướng gây ra trong quá khứ, Đức Hiển Thế Đạo Nhơn dạy: “Các em cũng còn duyên phúc được nương ngụ
nơi đây, gần bạn đạo, hãy cố gắng đường ngay lối thẳng, đừng nghe lời gièm siểm
tiếng thị phi, hoặc những cạm bẫy bên ngoài xui giục mà gây
tội lỗi. Mỗi ngày ráng dành chút thì giờ sám hối cho nhẹ tội tiền khiên.” ([10])
Trong một trường hợp đặc biệt tại thánh tịnh Chiếu Minh Ẩn Giáo, Đức
Hồng Đức Chơn Tiên dạy: “Hằng đêm tụ hội lại thánh tịnh tụng Kinh Sám Hối và cầu an.” ([11])
Đối với người tu bước vào hàng Thiên đạo
đại thừa (làm hành giả, công phu tịnh luyện), sám hối lại càng quan trọng biết
bao, và là nghi thức không thể thiếu mỗi khi mở đầu một khóa tu tịnh (thiền). Thật
vậy, Đức Đông Phương Lão Tổ tha thiết để lời khuyến dạy môn sanh đã thọ tâm
pháp Cao Đài như sau: “Lễ sám hối là một
thang thuốc khử độc diệt trùng, chữa bịnh trầm kha cho các đệ tử. Nếu không rán
mà uống, không nhận là hay, thì Phật Tiên cũng ôm trán mà than. Ôi! Nước mắt vì
thương trò chảy xuống cũng cam lấy lòng buồn, chớ biết sao mà cứu được? Các trò
rán, rán đi!” ([12])
Đức Như Ý Đạo Thoàn Chơn Nhơn dạy các
tịnh sĩ: “Nếu sơ tâm lầm lỗi, sớm sám hối
cải chừa. Nhứt cử nhứt động đều có thần minh hộ trì chứng giám.” ([13])
Người La Mã
thời xa xưa có câu cách ngôn này: “Errare humanum est”; rồi người Anh dùng nó làm một
thành ngữ là “To
err is human” (Con
người thì lầm lỗi). Khi nói như vậy, người La Mã và người Anh xác định rằng bản
chất con người là yếu đuối, có xu thế dễ sa vào tội lỗi. Nói khác đi, trong mỗi con người có tính vấp ngã tiềm tàng (the inherent fallibility).
Chính vì
vậy, sanh ra đời, mang thân phận con người là đã ở trong “tư thế” sẵn sàng phạm
lỗi, tạo nghiệp. Vì lòng từ bi, Đức Đông
Phương Lão Tổ cảnh báo điều nguy hiểm ấy
như sau: “Ở đời mạt kiếp này, đã là người
thì không ai khỏi lỗi. Nhích chơn, hả miệng đã gây nên tội lỗi rồi, cần gì phải
hành động.
Liếc trừng một cái, xủ mặt một khi, đã
gieo vào lòng mình một hay nhiều hạt giống nhân quả, đã phóng vòng dây đến người,
rồi sẽ báo trả với nhau.”
([14])
Đây là lý do mọi tôn giáo đều có pháp môn
sám hối, đều có kinh sám hối, đều khuyến khích con người hằng ngày hãy biết sám
hối.
Đã là người thế gian, ai mà không lỗi
lầm, và trong Nhị Kỳ Phổ Độ, Đức Chúa Giê-su Ki-tô dạy mọi người hãy biết ăn
năn, sám hối để được thứ tha. Chúa dạy rằng các Đấng trên cõi trời đều vui mừng
nếu người thế gian đã lầm lỗi mà biết sám hối, ăn năn (Lu-ca 15:7): “Trên trời cũng thế, các Đấng sẽ vui
mừng hơn vì một người tội lỗi biết ăn năn, sám hối ... ” (There will be more rejoicing in heaven over
one sinner who repents ...)
Rồi Chúa
nhắc lại (Lu-ca 15:10): “Trước mặt các
thiên thần, Thiên Chúa vui mừng vì một người tội lỗi biết sám hối, ăn năn.” (There is rejoicing in the presence of the
angels of God over one sinner who repents.)
*
Các Hội Thánh Cao Đài có vài bản Kinh Sám
Hối dài ngắn khác nhau. Riêng bản kinh truyền từ của Minh Lý Đạo (444 câu song
thất lục bát) lại phổ biến hơn cả.([15]) Nhằm cung cấp một bản chú giải khả dĩ giúp tín đồ dễ hiểu
nghĩa lý sâu kín của Kinh Sám Hối, tôi
hiệu đính và ấn tống Chú Giải Kinh Sám
Hối vào đầu xuân Giáp Thìn (2024). Bản chú giải này trước đây được in kèm
với bài Tìm Hiểu Kinh Sám Hối của
hiền huynh Thanh Căn Phan Ngọc Lợi (1951-2019), và lấy nhan đề chung là Tìm Hiểu Kinh Sám Hối, Chương Trình
Chung Tay Ấn Tống Kinh Sách Đại Đạo liên kết nhà xuất bản Tôn Giáo (Hà Nội)
thực hiện ba bản in (80 trang) vào các năm 2009, 2010, 2011; nay tôi tách ra,
sửa chữa và bổ khuyết nội dung.
Với trọn tấc
lòng thành kính biết ơn tất cả quý ân nhân gần xa luôn luôn thương mến, tin
cậy, và ủng hộ Chương Trình Chung Tay Ấn Tống Kinh Sách Đại Đạo suốt hơn mười lăm
năm nay, tôi trân trọng đặt vào tay quý đạo hữu tập sách Chú Giải Kinh Sám Hối này
và xin chúng ta cùng nhau hướng tâm về một trăm năm khai đạo Cao Đài
(1926-2026) để cùng nhau tinh tấn tu học, hành đạo, phụng sự nhơn sanh.
Cầu nguyện Thầy Mẹ ban ơn lành đến tất cả
chúng con và cứu độ cửu huyền thất tổ hết thảy chúng con.
Nhiêu Lộc, Mạnh Xuân Giáp Thìn
tháng 2-2024
HUỆ KHẢI
([2]) Kính
thành nhớ ơn hai vị đạo trưởng Minh Lý Đạo là: a/ Quyền Siêu Tịnh Sư, Tổng Lý
Tường Định, thế danh Lê Chơn Huệ (1929-2021); b/ Vĩnh Tịnh Sư, Hiệp Lý Đại Bác,
thế danh Lâm Lý Hùng (1939-2021). Hai vị đã chỉ dẫn rõ trình tự ban Kinh Sám Hối. Nhờ thế, khi chú giải Kinh Sám Hối, Huệ Khải có thể ghi rõ ngày
tháng ban trao từng đoạn kinh căn cứ theo bản gốc của Minh Lý, và ghi rõ hồng
danh của Đấng đã giáng tả đoạn đó. Việc
này cũng để lưu ý nhơn sanh đừng tùy tiện sửa lời kinh của các Đấng.
([3]) Khi xưa, Đức Chúa Giê-su chọn mười hai Thánh tông đồ thay
Chúa đi rao giảng Tin Mừng cho muôn dân. Sau này, để khai sáng Minh Lý Đạo, Ơn
Trên chọn mười hai vị có tên thánh (thánh
danh 聖名) liệt kê trong hai câu đối này: MINH Chánh Giáo Đạo Truyền Thiện Hạnh / LÝ Trực Đàm Đức Hóa Cường Ngôn.
Qua đó, kể tên các vị theo thứ tự như sau: 1/ Ngài Âu Kích (1896-1941), tự
Âu Kiệt Lâm, thánh danh MINH CHÁNH, đắc
quả Minh Chánh Hộ Pháp. – 2/ Ngài Nguyễn
Văn Xưng (1891-1957), thánh danh MINH GIÁO,
đắc quả Minh Chiếu Chơn Quân. – 3/ Ngài Nguyễn
Văn Đề (1893-1925), thánh danh MINH ĐẠO, đắc quả Khai Thiền Chơn Nhơn. – 4/ Ngài Lê Văn Ngọc (1887-1965), thánh danh MINH TRUYỀN, đắc quả Bảo Đức Chơn Nhơn. – 5/ Ngài Nguyễn
Văn Miết (1897-1972), thánh danh MINH THIỆN, đắc quả Bác Nhã
Thiền Sư Tam Tông Pháp Chủ Nguyên Quân Bồ Tát. – 6. Ngài Trương Văn Ký
(1907-1984), thánh danh MINH HẠNH, đắc quả Đăng Minh Chơn Nhơn. – 7/ Ngài Võ Văn Thạnh (1895-1976), thánh danh MINH TRỰC. Năm 1948, Ngài tách ra và lập Thiền Tịnh Đạo Tràng Phật Bửu Tự (số 80/2 đường Cao Thắng, quận 3, Sài Gòn). Sau khi thoát xác, Ngài về chầu
Tam Giáo Tổ Sư. – 8/ Ngài Nguyễn Hữu Hay (1899-1961), thánh danh MINH ĐÀM, đắc quả Quảng Tế
Chơn Nhơn. – 9. Ngài Nguyễn Văn
Hoài (1904-1945), thánh danh MINH ĐỨC, đắc quả Ly Cấu Chơn Nhơn. – 10/ Ngài Nguyễn Minh
Đức (1884-1964), thánh danh MINH HÓA, đắc quả Minh Quang Chơn Thánh. – 11. Ngài Lâm Thiên Hứa (1907-1994), thánh danh MINH CƯỜNG, đắc quả Hạnh Nguyên Chơn Thiền. – 12/ Ngài Lê Kim Bằng
(1885-1967), thánh danh MINH NGÔN, đắc quả Phổ Thiện Chơn Nhơn.
([4]) giáo thọ, cũng gọi giáo thọ sư 教授師 là ông thầy
giảng giới luật (a teacher of rules,
discipline, morals) cho người thọ giới (giới
tử 戒子; thụ
giới chi đệ tử 受戒之弟子). Dùng như danh
từ, giáo thọ là thầy dạy (teacher); dùng như động từ, giáo thọ là truyền thụ kiến thức, dạy
học (to teach). Tiếng Sanskrit gọi vị
giáo thọ là ācārya (người Hoa dịch âm
là a xà lê). Ghép cách dịch nghĩa với dịch âm, gọi
là giáo thọ a xà lê 教授阿遮利.
([7]) Theo
tiền bối Huệ Lương Trần Văn Quế (1902-1980), bốn vị đến Minh Lý Đạo thỉnh kinh
là các tiền khai Lê Văn Trung (1876-1934), Phạm Công Tắc (1890-1959), Vương
Quan Kỳ (1880-1940), và Cao Quỳnh Cư (1888-1929). (Tạp chí Cao Đài Giáo Lý, số 77. Sài Gòn: Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý Cao Đài
Giáo Việt
([10])
Thánh tịnh Ngọc Minh Đài, Thứ Năm 16-11-1967 (15-10 Đinh Mùi). Đức Hiển Thế Đạo Nhơn thế
danh là Phan Văn Thanh (1890-1950). Sinh thời, ngài hành đạo tại thánh tịnh
Ngọc Minh Đài (đường Nguyễn Khoái, quận 4, Sài Gòn).
([11]) Thánh tịnh Chiếu Minh Ẩn Giáo, Chủ
Nhật 10-11-1974 (27-9 Giáp Dần). Ngài Võ Hồng Sa (1880-1946) sinh thời tu theo pháp
môn Chiếu Minh, đắc quả Thái Thanh Đồng (1953), sau thăng quả vị Hồng Đức Chơn
Tiên (1954). Nhà riêng của ngài nay là thánh
tịnh Chiếu Minh Ẩn Giáo (xã Tân Thới, huyện Phong Điền, thành phố Cần Thơ).
([13]) Cơ
Quan Phổ Thông Giáo Lý Cao Đài Giáo Việt