Bìa bản in 1973 và bìa bản in 2011, 2017.
MỘT SỐ TỪ VIỆT CỔ
TRONG KINH MINH LÝ
ĐẠO
VÀ PHẬT GIÁO HÒA HẢO
II. GIẢI THÍCH
MỘT SỐ TỪ VIỆT CỔ
TRONG KINH MINH LÝ ĐẠO
Minh Lý Đạo 明理道 do Ơn Trên khai sáng vào cuối tháng 12
năm 1924 (tháng 11 năm Giáp Tý) tại Sài Gòn. Hằng năm, vào chiều ngày 26 tháng
11 âm lịch, lễ kỷ niệm “Minh Lý Đạo Khai” được tổ chức tại chùa của Minh Lý Đạo,
tên gọi Tam Tông Miếu 三宗廟, nay ở số 82 đường Cao Thắng, phường 4, quận 3, tpHCM.
Tam Tông tức là Nho, Lão, Thích. Cho tới năm 1975, Lịch Tam Tông Miếu là
một “thương hiệu” nổi tiếng, được tín nhiệm và ưa chuộng suốt nhiều thập niên ở
miền Nam, giúp bá tánh tiện tra cứu giờ lành, ngày lành, tháng tốt trong việc
tang ma, cưới gả, xây cất, động thổ, khai trương, xuất hành, v.v…
Giáo lý (thánh giáo tiếp nhận qua cơ bút) của Minh Lý
Đạo rất phong phú.([1]) Kinh tụng của
Minh Lý Đạo cũng được Ơn Trên ban truyền qua cơ bút. Năm 1973, Minh Lý Đạo ấn
tống quyển Bố Cáo – Sám Hối – Tịnh Nghiệp
Vãn – Nhựt Tụng – Giác Thế (không đánh số trang liên tục cho cả quyển). Ngoài ra còn kèm thêm Quẻ Quan Âm ở cuối quyển. Quyển kinh này được ấn tống lại vào năm 2011 (dày 312
trang) và tái bản năm 2017, đều liên kết với nhà xuất bản Tôn Giáo (Hà Nội). Ba
bản in này đều có ảnh Tam Tông Miếu trên bìa trước.
Tôi dùng bản 2011 để trích dẫn từ Việt cổ trong kinh
Minh Lý Đạo, có tham khảo hai bản 1973 và 2017.
Ngoài bộ tự điển của nhóm Lê Văn Đức (đã nói trên), tôi
chủ yếu tham khảo bộ Đại Nam Quấc Âm Tự
Vị của Huình Tịnh Paulus Của (hai tập), Imprimerie Rey, Curiol & Cie
in tại Sài Gòn năm 1895 và 1896. Lời giải thích từ cổ của tôi không nhất thiết
chép đúng nguyên văn của Paulus Của, hay Lê Văn Đức, mà có cân nhắc sao cho phù
hợp ngữ cảnh các câu kinh trích dẫn. Lời giải thích được in chữ xiên.
Cách trích dẫn
câu kinh
- Lược bớt dấu phẩy, dấu chấm cuối câu kinh trong
nguyên văn.
- Con số trong dấu ngoặc đơn cuối câu kinh trích dẫn cho
biết số trang căn cứ theo bản in 2011 đã nói trên đây.
- Từ Việt cổ trong câu kinh trích dẫn được gạch dưới.
- Khi dẫn hai hay nhiều câu kinh liên tiếp, thay vì
xuống hàng, tôi dùng dấu / để phân cách. Thí dụ: Điều dữ bằng mà dấy / Ăn năn sám hối liền (209)
- Để làm rõ nghĩa câu kinh, lời tôi giải thích thêm
hay ghi chú thêm được in chữ xiên và
đặt trong dấu ngoặc vuông. Thí dụ: Tua chừa bỏ thói quen lại đọa [lười biếng] (225); Bằng muội mê [thì như] súc vật trần gian (183)
Những từ Việt cổ trong kinh Minh Lý Đạo
1. bằng: Nếu như, ví như.
Bằng muội mê [thì như]
súc vật trần gian (183)
Tinh để hao thì khí
phải suy / Khí đã suy, thần dễ thoát ly / Thần bằng
thoát, mong chi thành Đạo (191)
Bằng cứ mê ân ái (207)
Điều lành bằng
đã dấy (209)
Bằng tranh cạnh vẫy vùng khó được (216)
Bằng nửa chừng thấy khó phế vong (231)
Bằng một mảy vọng tâm phóng túng (232)
1.1. bằng ai: Nếu ai.
Bằng ai mộ Đạo vô vi (17)
Bằng ai thấu máy huyền vi (18)
Bằng ai quên hết tử sanh (261)
Bằng ai khiếp nhược là sai (262)
1.2. bằng chẳng vậy: Nếu chẳng vậy.
Bằng chẳng vậy, ý mưu thù oán (249)
Bằng chẳng vậy, hành tàng quỷ trá (253)
Bằng chẳng vậy, không lo chẳng ráng (265)
1.3. bằng không: Nếu không.
Bằng không chống trả tánh tà (25)
Bằng không chỉ lỗi sửa mình (149)
Bằng không vậy xa giềng đạo chánh (227)
Bằng không, nặng lợi bên lòng (243)
Bằng không sắc tướng, sáu trần khó xâm (245)
Bằng không, vọng tưởng phát sanh (259)
Bằng không, rất khó đạt thành (261)
1.4. bằng mà: Nếu mà.
Điều dữ bằng
mà dấy / Ăn năn sám hối liền (209)
Bằng mà tội trước chưa trừ (233)
Bằng mà nhậm tánh, mê tình (251)
1.5. cầm bằng: Coi như, xem như.
2. cả: Trọn vẹn.
Ta lo bề cả
dạy phép linh (142)
Chúng tôi cả
thành tâm [trọn lòng thành] khẩn đảo
(160)
3. chích mích: Mất lòng nhau, phật lòng, xích mích.
Sanh điều chích
mích, đâu nguôi dạ hờn (70)
4. chưng: Từ đệm, nếu bỏ đi vẫn không thay đổi ý nghĩa
cả câu.
Vớt người lương thiện khỏi chưng tội hình (162)
Há đâu đặng khỏi chưng
khổ hải? (225)
Cũng nhờ chưng
tâm cố lực cần (228)
4.1. bởi chưng: Bởi, bởi lẽ, bởi vì.
Người phú túc, bởi
chưng kiếp trước / Đặng duyên lành, hưởng phước ngày ni (216)
4.2. vì chưng: Vì, vì bởi, vì lẽ.
Vì chưng tụ thiểu thành đa (72)
Vì chưng trinh tiết chẳng gìn (80)
Vì chưng hung bạo, đốt nhà bắn săn (81)
Vì chưng chửi gió mắng mưa (82)
Vì chưng
lặng lẽ mới mong đặng gì (139)
5. đơn sai: Giả trá, gian dối.
Thánh Hiền noi Thiên
lý, háo sanh chẳng đơn sai (121)
Không chút mảy đơn
sai (206)
6. gắng vó: Bền đỗ, bền lòng, gắn bó. (Paulus Của,
Lê Văn Đức đều ghi là gắn vó. Các bản
Minh Lý 1973, 2011, 2017 đều in là gắng
vó. Xét theo nghĩa gắn bó, thì
bản Minh Lý có lẽ nên sửa là gắn vó chăng?)
Nay vào đạo, phải
thường gắng vó (195)
Hễ hành đạo thường
năng gắng vó (230)
Ai tử sanh, gắng
vó đã thông (261)
7. giòi tửa: Gọi chung cả giòi lớn lẫn giòi nhỏ.
Ao rộng sâu chứa đầy
giòi tửa (82)
8. hiếm: Bộn bàng, bộn bề, có nhiều. (Nghĩa này
ít dùng ngày nay.) Thí dụ: hiếm của, hiếm
tiền (nhiều của, nhiều tiền, chẳng thiếu tiền); rất hiếm (rất nhiều, rất đông).
Trong đời rất hiếm võ phu ([5]) / Lường cân tráo
đấu, dối tu cúng chùa (72)
9. kình: To lớn, kềnh càng.
Nhào đầu xuống đó, cua
kình rỉa thây (83)
10. lẫy lừng, lừng lẫy: Bốc hơi lên mạnh mẽ, hừng lên nồng
nặc.
Không chừng mưa
nắng, lẫy lừng đất hơi (23)
Hơi tanh hôi thường
bữa lẫy lừng (82)
Hơi nước lửa lẫy lừng tiếp ứng
(148)
Ắt lừng lẫy
lòng tà tồi tệ (222)
11. lờ lạc: Mờ mịt, không nhìn thấy
rõ.
Soi tỏ đường lờ lạc âm cung (169)
12. lung lăng: Hung dữ, ngang tàng.
Khi vận thới lung
lăng chẳng kể (66)
13. mựa: Chớ, đừng. (Có lẽ do chữ mạc 莫 được Việt hóa.)
Mựa rằng [chớ
nói rằng] khuyến rủ vầy đoàn (17)
Ráng sức mựa
trì diên [chậm trễ, dây dưa] (209)
Bị khinh khi nhục
nhã mựa phiền (229)
13 bis. mựa chác: Chớ mang lấy, đừng lãnh lấy, đừng
chịu lấy.
Việc gió trăng mựa
chác lỗi lầm (190)
14. nhọn vắt: Nhọn hoắt, rất nhọn. (Lê Văn Đức và các
bản Minh Lý 1973, 2011, 2017 đều in là nhọn vắt. Paulus Của ghi nhọn vắc.)
Móc nhọn
vắt treo mình nhỏng nhảnh (80)
15. pháy pháy: Phay pháy, phơi phới, cách nhẹ
nhàng.
Năm sắc mây lành bay pháy pháy (86, 176)
Cầm bút đề nhẹ pháy gió dông (143)
16. rày
a. Bây giờ, lúc này.
Nếu chưa báo ứng, hưởng
rày phước dư (233)
b. Liền, tức thì.
Phước Thần phướn báu cầm tay / Sắc vưng Tam Giáo, hộ rày linh
quang (163)
Diêm Vương Ngài
giận, quỷ rày bắt đi (212)
c. Luôn luôn, mọi lúc.
Hết đêm rồi lại tới
ngày / Trái bông mọi món người rày có chưng (173)
d. dành rày: Bây giờ để dành, lúc này để dành.
Khấu trừ tội trước, dành
rày kiếp sau (233)
e. Theo ngữ cảnh các câu trích dẫn,
có thể xem “rày” là từ đệm không? Vì bỏ đi vẫn không thay đổi ý nghĩa cả câu.
Bộ châu chia bốn gồm rày coi luôn (57, 130)
Làm lành, xem phải, nói ngay / Giữ ba điều ấy, thiệt rày phước duyên
(84)
Cõi nầy ai lại ở rày
đặng lâu (113)
17. rủa thả: Trù ẻo,
cầu những điều ác độc cho người khác.
Chừa rủa thả,
buông lời chửi bới (221)
18. săng cỏ: Cây cối nói chung.
Tàn lớn chở che săng
cỏ nhỏ (29)
Có săng cỏ,
có đầm đìa (179)
19. sai siển, siển sai: Lỗi lầm, lầm lạc. (Sai, siển, và suyển đồng nghĩa.)
Gặp cơn sai siển,
giúp khuyên nhau cùng (31)
Uổng công phu sai
siển giữa đường (215)
Cơn sai siển bạn can ngăn dứt (217)
Nền đức hạnh siển
sai quan hệ (220)
Giúp cỏ cây sung
nẫm đơm hoa (129)
21. tầm âu: Lo tìm kiếm. (Âu là lo toan; thường nói ghép là âu lo, lo âu.)
Tiếng than xúc động tầm
âu độ người (126)
22. thảng: Nếu.
Thảng không đặng chơn tâm thiệt ý (252)
Thảng như mà thối, tấn, chẳng rành (263)
23. tởi: Quyên góp, quyên tiền.
Tởi làm chùa, dối cậy in kinh (77)
24. tua: Phải, cần phải; nên, hãy
nên. (Có lẽ do chữ tu 須 được Việt hóa.)
Khá tua lánh
dữ, làm lành (54)
Tua khá tưởng thương lần nòi giống (75)
Bốn điều tua
xét kỹ (198)
Tua ăn năn tự hối lỗi lầm (214)
Tua chừa bỏ tánh tà tật đố (217)
Tua xét kỹ, ngừa phòng luận biện (220)
Tua xót thương đồng dạ ưu tư (223)
Tua chừa bỏ thói quen lại đọa [lười biếng] (225)
25. vạy vò: Không ngay thẳng.
Làm điều phải nghĩa,
lánh xa vạy vò (72)
26. vấu: Móng vuốt nhọn.
Có cọp dữ nhăn răng
đưa vấu (81)
27. xây: Thay, thay đổi; xoay.
Ngũ tặc nhơn tánh
ngũ hành biến xây (19)
Hiểu cơ luân chuyển,
đáo đầu đổi xây (25)
Khi tan khi hiệp,
đổi xây không thường (66)
Âm dương xây đổi giao thông (114)
Máy kiền khôn xây trở cũng tùy (142)
Máy
kiền khôn nhựt nguyệt vận xây [vần xoay] (148)
Âm dương luân chuyển, có hoài đổi xây (179)
Ngó lên nhựt nguyệt
vần xây (236)
HUỆ KHẢI
([1]) Thánh
giáo của đạo Cao Đài cũng rất phong phú. Nếu tìm hiểu từ Việt cổ bằng cách khảo
sát đầy đủ kho tàng thánh giáo (có thể lên tới nhiều nghìn trang A4) đã tiếp
nhận trong suốt chiều dài lịch sử của Cao Đài Giáo (bao gồm các Hội Thánh ở
miền Trung, miền Nam) và Minh Lý Đạo, chắc chắn phải cần rất nhiều thời gian và
công khó.
([4]) Khiên 愆 là lỗi lầm. Căn khiên dư dồn là gốc lỗi lầm (tội cũ) chưa trả hết trong một
kiếp, được dồn lại qua kiếp sau trả tiếp.
Nói căn khiên cũng như tiền khiên. Trong kiếp sau, vì phải trả
nợ tồn đọng của kiếp trước nên trong đời hay gặp những rủi ro, bất hạnh, tức là
chịu hậu quả của tiền khiên nghiệp
chướng.
([5]) Võ phu, vũ phu: Chữ Hán 碔砆 (với bộ thạch 石 là đá) hay 珷玞 (với bộ
ngọc 玉), là loại đá đẹp, nhìn giống như ngọc mà
không phải là ngọc, tức là ngọc giả; do đó võ
phu còn có nghĩa là người giả dối, gian trá. Paulus Của (mục từ phu) giảng võ phu là “đứa dốt nát”, nghĩa này không thích hợp với câu kinh dẫn
trên. Ngày nay thường hiểu võ phu, vũ phu là gã đàn ông thô lỗ, cục cằn, hay
đối xử thô bạo với phụ nữ.
([8]) Ba giềng: Tam cang (cương) là ba mối quan hệ
trong xã hội, gồm có (a) Quân thần cang
là quan hệ giữa vua tôi; (b) Phụ tử cang
là quan hệ giữa cha mẹ và con cái; (c) Phu
thê cang là quan hệ giữa vợ chồng.
► Quý đạo hữu gần xa muốn nhận các kinh sách do Chương
Trình Chung Tay Ấn Tống Kinh Sách Đại Đạo xuất bản, được gởi biếu qua bưu điện,
xin vui lòng gởi e-mail về: daidaovanuyen@gmail.com
Và xin quý đạo hữu hoan hỷ trả giúp cước phí cho bưu điện ngay khi nhận được sách biếu.
Và xin quý đạo hữu hoan hỷ trả giúp cước phí cho bưu điện ngay khi nhận được sách biếu.
Ban Ấn Tống trân trọng cảm ơn quý đạo hữu.