Thứ Năm, 26 tháng 7, 2018

3. GIẢI THÍCH MỘT SỐ TỪ VIỆT CỔ TRONG KINH MINH LÝ ĐẠO


 

Bìa bản in 1973 và bìa bản in 2011, 2017.
MỘT SỐ TỪ VIỆT CỔ
TRONG KINH MINH LÝ ĐẠO
VÀ PHẬT GIÁO HÒA HẢO
II. GIẢI THÍCH MỘT SỐ TỪ VIỆT CỔ
TRONG KINH MINH LÝ ĐẠO
Minh Lý Đạo 明理道 do Ơn Trên khai sáng vào cuối tháng 12 năm 1924 (tháng 11 năm Giáp Tý) tại Sài Gòn. Hằng năm, vào chiều ngày 26 tháng 11 âm lịch, lễ kỷ niệm “Minh Lý Đạo Khai” được tổ chức tại chùa của Minh Lý Đạo, tên gọi Tam Tông Miếu 三宗廟, nay ở số 82 đường Cao Thắng, phường 4, quận 3, tpHCM. Tam Tông tức là Nho, Lão, Thích. Cho tới năm 1975, Lịch Tam Tông Miếu là một “thương hiệu” nổi tiếng, được tín nhiệm và ưa chuộng suốt nhiều thập niên ở miền Nam, giúp bá tánh tiện tra cứu giờ lành, ngày lành, tháng tốt trong việc tang ma, cưới gả, xây cất, động thổ, khai trương, xuất hành, v.v…
Giáo lý (thánh giáo tiếp nhận qua cơ bút) của Minh Lý Đạo rất phong phú.([1]) Kinh tụng của Minh Lý Đạo cũng được Ơn Trên ban truyền qua cơ bút. Năm 1973, Minh Lý Đạo ấn tống quyển Bố Cáo – Sám Hối – Tịnh Nghiệp Vãn – Nhựt Tụng – Giác Thế (không đánh số trang liên tục cho cả quyển). Ngoài ra còn kèm thêm Quẻ Quan Âm ở cuối quyển. Quyển kinh này được ấn tống lại vào năm 2011 (dày 312 trang) và tái bản năm 2017, đều liên kết với nhà xuất bản Tôn Giáo (Hà Nội). Ba bản in này đều có ảnh Tam Tông Miếu trên bìa trước.
Tôi dùng bản 2011 để trích dẫn từ Việt cổ trong kinh Minh Lý Đạo, có tham khảo hai bản 1973 và 2017.
Ngoài bộ tự điển của nhóm Lê Văn Đức (đã nói trên), tôi chủ yếu tham khảo bộ Đại Nam Quấc Âm Tự Vị của Huình Tịnh Paulus Của (hai tập), Imprimerie Rey, Curiol & Cie in tại Sài Gòn năm 1895 và 1896. Lời giải thích từ cổ của tôi không nhất thiết chép đúng nguyên văn của Paulus Của, hay Lê Văn Đức, mà có cân nhắc sao cho phù hợp ngữ cảnh các câu kinh trích dẫn. Lời giải thích được in chữ xiên.
Cách trích dẫn câu kinh
- Lược bớt dấu phẩy, dấu chấm cuối câu kinh trong nguyên văn.
- Con số trong dấu ngoặc đơn cuối câu kinh trích dẫn cho biết số trang căn cứ theo bản in 2011 đã nói trên đây.
- Từ Việt cổ trong câu kinh trích dẫn được gạch dưới.
- Khi dẫn hai hay nhiều câu kinh liên tiếp, thay vì xuống hàng, tôi dùng dấu / để phân cách. Thí dụ: Điều dữ bằng mà dấy / Ăn năn sám hối liền (209)
- Để làm rõ nghĩa câu kinh, lời tôi giải thích thêm hay ghi chú thêm được in chữ xiên và đặt trong dấu ngoặc vuông. Thí dụ: Tua chừa bỏ thói quen lại đọa [lười biếng] (225); Bằng muội mê [thì như] súc vật trần gian (183)
Những từ Việt cổ trong kinh Minh Lý Đạo
1. bằng: Nếu như, ví như.
Bằng muội mê [thì như] súc vật trần gian (183)
Tinh để hao thì khí phải suy / Khí đã suy, thần dễ thoát ly / Thần bằng thoát, mong chi thành Đạo (191)
Bằng cứ mê ân ái (207)
Điều lành bằng đã dấy (209)
Bằng tranh cạnh vẫy vùng khó được (216)
Bằng nê cố sa đầm ([2]) giận nóng (218)
Bằng nửa chừng thấy khó phế vong (231)
Bằng một mảy vọng tâm phóng túng (232)
1.1. bằng ai: Nếu ai.
Bằng ai mộ Đạo vô vi (17)
Bằng ai thấu máy huyền vi (18)
Bằng ai quên hết tử sanh (261)
Bằng ai khiếp nhược là sai (262)
1.2. bằng chẳng vậy: Nếu chẳng vậy.
Bằng chẳng vậy, ý mưu thù oán (249)
Bằng chẳng vậy, hành tàng quỷ trá (253)
Bằng chẳng vậy, không lo chẳng ráng (265)
1.3. bằng không: Nếu không.
Bằng không chống trả tánh tà (25)
Bằng không chỉ lỗi sửa mình (149)
Bằng không vậy xa giềng đạo chánh (227)
Bằng không, nặng lợi bên lòng (243)
Bằng không sắc tướng, sáu trần khó xâm (245)
Bằng không, vọng tưởng phát sanh (259)
Bằng không, rất khó đạt thành (261)
1.4. bằng mà: Nếu mà.
Điều dữ bằng dấy / Ăn năn sám hối liền (209)
Bằng tội trước chưa trừ (233)
Bằng nhậm tánh, mê tình (251)
1.5. cầm bằng: Coi như, xem như.
Dứt gốc chồi, sau hết nảy mầm / Thấy sắc đẹp, bằng cầm ([3]) chẳng có (234)
2. cả: Trọn vẹn.
Ta lo bề cả dạy phép linh (142)
Chúng tôi cả thành tâm [trọn lòng thành] khẩn đảo (160)
3. chích mích: Mất lòng nhau, phật lòng, xích mích.
Sanh điều chích mích, đâu nguôi dạ hờn (70)
4. chưng: Từ đệm, nếu bỏ đi vẫn không thay đổi ý nghĩa cả câu.
Vớt người lương thiện khỏi chưng tội hình (162)
Há đâu đặng khỏi chưng khổ hải? (225)
Cũng nhờ chưng tâm cố lực cần (228)
4.1. bởi chưng: Bởi, bởi lẽ, bởi vì.
Người phú túc, bởi chưng kiếp trước / Đặng duyên lành, hưởng phước ngày ni (216)
4.2. vì chưng: Vì, vì bởi, vì lẽ.
Vì chưng tụ thiểu thành đa (72)
Vì chưng trinh tiết chẳng gìn (80)
Vì chưng hung bạo, đốt nhà bắn săn (81)
Vì chưng chửi gió mắng mưa (82)
Vì chưng lặng lẽ mới mong đặng gì (139)
Vì chưng kiếp trước căn khiên dư dồn ([4]) (141)
5. đơn sai: Giả trá, gian dối.
Thánh Hiền noi Thiên lý, háo sanh chẳng đơn sai (121)
Không chút mảy đơn sai (206)
6. gắng vó: Bền đỗ, bền lòng, gắn bó. (Paulus Của, Lê Văn Đức đều ghi là gắn vó. Các bản Minh Lý 1973, 2011, 2017 đều in là gắng vó. Xét theo nghĩa gắn bó, thì bản Minh Lý có lẽ nên sửa là gắn vó chăng?)
Nay vào đạo, phải thường gắng (195)
Hễ hành đạo thường năng gắng (230)
Ai tử sanh, gắng đã thông (261)
7. giòi tửa: Gọi chung cả giòi lớn lẫn giòi nhỏ.
Ao rộng sâu chứa đầy giòi tửa (82)
8. hiếm: Bộn bàng, bộn bề, có nhiều. (Nghĩa này ít dùng ngày nay.) Thí dụ: hiếm của, hiếm tiền (nhiều của, nhiều tiền, chẳng thiếu tiền); rất hiếm (rất nhiều, rất đông).
Trong đời rất hiếm võ phu ([5]) / Lường cân tráo đấu, dối tu cúng chùa (72)
9. kình: To lớn, kềnh càng.
Nhào đầu xuống đó, cua kình rỉa thây (83)
10. lẫy lừng, lừng lẫy: Bốc hơi lên mạnh mẽ, hừng lên nồng nặc.
Không chừng mưa nắng, lẫy lừng đất hơi (23)
Hơi tanh hôi thường bữa lẫy lừng (82)
Hơi nước lửa lẫy lừng tiếp ứng (148)
Ắt lừng lẫy lòng tà tồi tệ (222)
11. lờ lạc: Mờ mịt, không nhìn thấy rõ.
Soi tỏ đường lờ lc âm cung (169)
12. lung lăng: Hung dữ, ngang tàng.
Khi vận thới lung lăng chẳng kể (66)
13. mựa: Chớ, đừng. (Có lẽ do chữ mạc được Việt hóa.)
Ma rằng [chớ nói rằng] khuyến rủ vầy đoàn (17)
Ráng sức ma trì diên [chậm trễ, dây dưa] (209)
Bị khinh khi nhục nhã ma phiền (229)
Ma đừng tróc ảnh bộ phong ([6]) (237)
13 bis. mựa chác: Chớ mang lấy, đừng lãnh lấy, đừng chịu lấy.
Việc gió trăng ma chác lỗi lầm (190)
14. nhọn vắt: Nhọn hoắt, rất nhọn. (Lê Văn Đức và các bản Minh Lý 1973, 2011, 2017 đều in là nhọn vắt. Paulus Của ghi nhọn vắc.)
Móc nhn vắt treo mình nhỏng nhảnh (80)
15. pháy pháy: Phay pháy, phơi phới, cách nhẹ nhàng.
Năm sắc mây lành bay py py (86, 176)
Cầm bút đề nhẹ py gió dông (143)
16. rày
a. Bây giờ, lúc này.
Nếu chưa báo ứng, hưởng y phước dư (233)
b. Liền, tức thì.
Phước Thần phướn báu cầm tay / Sắc vưng Tam Giáo, hộ y linh quang (163)
Diêm Vương Ngài giận, quỷ y bắt đi (212)
c. Luôn luôn, mọi lúc.
Hết đêm rồi lại tới ngày / Trái bông mọi món người y có chưng (173)
d. dành rày: Bây giờ để dành, lúc này để dành.
Khấu trừ tội trước, dành rày kiếp sau (233)
e. Theo ngữ cảnh các câu trích dẫn, có thể xem “rày” là từ đệm không? Vì bỏ đi vẫn không thay đổi ý nghĩa cả câu.
Bộ châu chia bốn gồm y coi luôn (57, 130)
Làm lành, xem phải, nói ngay / Giữ ba điều ấy, thiệt y phước duyên (84)
Cõi nầy ai lại ở y đặng lâu (113)
17. rủa thả: Trù ẻo, cầu những điều ác độc cho người khác.
Chừa rủa thả, buông lời chửi bới (221)
18. săng cỏ: Cây cối nói chung.
Tàn lớn chở che săng cỏ nhỏ (29)
săng cỏ, có đầm đìa (179)
19. sai siển, siển sai: Lỗi lầm, lầm lạc. (Sai, siển, suyển đồng nghĩa.)
Gặp cơn sai siển, giúp khuyên nhau cùng (31)
Uổng công phu sai siển giữa đường (215)
Cơn sai siển bạn can ngăn dứt (217)
Nền đức hạnh siển sai quan hệ (220)
20. sung nẫm: Có nhiều, dồi dào, đầy đủ, phong phú. (Sung nẫm ([7]) đồng nghĩa.)
Giúp cỏ cây sung nẫm đơm hoa (129)
21. tầm âu: Lo tìm kiếm. (Âu là lo toan; thường nói ghép là âu lo, lo âu.)
Tiếng than xúc động tầm âu độ người (126)
22. thảng: Nếu.
Thảng không đặng chơn tâm thiệt ý (252)
Thảng như mà thối, tấn, chẳng rành (263)
23. tởi: Quyên góp, quyên tiền.
Tởi làm chùa, dối cậy in kinh (77)
24. tua: Phải, cần phải; nên, hãy nên. (Có lẽ do chữ tu được Việt hóa.)
Khá tua lánh dữ, làm lành (54)
Tua khá tưởng thương lần nòi giống (75)
Bốn điều tua xét kỹ (198)
Ba giềng ([8]) tua giữ chính (204)
Tua ăn năn tự hối lỗi lầm (214)
Tua chừa bỏ tánh tà tật đố (217)
Tua xét kỹ, ngừa phòng luận biện (220)
Tua xót thương đồng dạ ưu tư (223)
Tua chừa bỏ thói quen lại đọa [lười biếng] (225)
25. vạy vò: Không ngay thẳng.
Làm điều phải nghĩa, lánh xa vạy (72)
26. vấu: Móng vuốt nhọn.
Có cọp dữ nhăn răng đưa vấu (81)
27. xây: Thay, thay đổi; xoay.
Ngũ tặc nhơn tánh ngũ hành biến y (19)
Hiểu cơ luân chuyển, đáo đầu đổi y (25)
Khi tan khi hiệp, đổi y không thường (66)
Âm dương y đổi giao thông (114)
Máy kiền khôn y trở cũng tùy (142)
Máy kiền khôn nhựt nguyệt vận y [vần xoay] (148)
Âm dương luân chuyển, có hoài đổi y (179)
Ngó lên nhựt nguyệt vần y (236)
HUỆ KHẢI




([1]) Thánh giáo của đạo Cao Đài cũng rất phong phú. Nếu tìm hiểu từ Việt cổ bằng cách khảo sát đầy đủ kho tàng thánh giáo (có thể lên tới nhiều nghìn trang A4) đã tiếp nhận trong suốt chiều dài lịch sử của Cao Đài Giáo (bao gồm các Hội Thánh ở miền Trung, miền Nam) và Minh Lý Đạo, chắc chắn phải cần rất nhiều thời gian và công khó.
([2]) Nê cố: Chấp nê, cố chấp. Chưa rõ nghĩa sa đầm.
([3]) Đảo ngữ thành bằng cầm để hiệp vận với mầm ở câu trên.
([4]) Khiên là lỗi lầm. Căn khiên dư dồn là gốc lỗi lầm (tội cũ) chưa trả hết trong một kiếp, được dồn lại qua kiếp sau trả tiếp. Nói căn khiên cũng như tiền khiên. Trong kiếp sau, vì phải trả nợ tồn đọng của kiếp trước nên trong đời hay gặp những rủi ro, bất hạnh, tức là chịu hậu quả của tiền khiên nghiệp chướng.
([5]) Võ phu, vũ phu: Chữ Hán 碔砆 (với bộ thạch là đá) hay 珷玞 (với bộ ngọc ), là loại đá đẹp, nhìn giống như ngọc mà không phải là ngọc, tức là ngọc giả; do đó võ phu còn có nghĩa là người giả dối, gian trá. Paulus Của (mục từ phu) giảng võ phu là “đứa dốt nát”, nghĩa này không thích hợp với câu kinh dẫn trên. Ngày nay thường hiểu võ phu, vũ phu là gã đàn ông thô lỗ, cục cằn, hay đối xử thô bạo với phụ nữ.
([6]) Tróc ảnh bộ phong 捉影捕風 hay bộ phong tróc ảnh (đuổi theo gió bắt hình), hay bộ ảnh nã phong 捕影拿風 (bắt bóng đuổi theo gió), tương tự thành ngữ đuổi hình bắt bóng trong tiếng Việt, ý nói đeo đuổi việc không tưởng, thiếu thực tế.
([7]) Phong nẫm cũng đồng nghĩa. Có một số xã mang tên Phong Nẫm như một xã thuộc thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận; một xã cù lao thuộc huyện Kế Sách, tỉnh Sóc Trăng; và một xã thuộc huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre.
([8]) Ba giềng: Tam cang (cương) là ba mối quan hệ trong xã hội, gồm có (a) Quân thần cang là quan hệ giữa vua tôi; (b) Phụ tử cang là quan hệ giữa cha mẹ và con cái; (c) Phu thê cang là quan hệ giữa vợ chồng.



 Quý đạo hữu gần xa muốn nhận các kinh sách do Chương Trình Chung Tay Ấn Tống Kinh Sách Đại Đạo xuất bản, được gởi biếu qua bưu điện, xin vui lòng gởi e-mail về: daidaovanuyen@gmail.com
Và xin quý đạo hữu hoan hỷ trả giúp cước phí cho bưu điện ngay khi nhận được sách biếu.
Ban Ấn Tống trân trọng cảm ơn quý đạo hữu.