NIÊN BIỂU ĐỨC GIÁO TÔNG
NGUYỄN
NGỌC TƯƠNG (PHẦN 3/3)
1936 (Bính
Tý)
Đức Giáo Tông Nguyễn Ngọc Tương cho lập nhà tu thượng thừa
nam, rồi mở thêm nhà tu trung thừa nữ.
THỨ SÁU 31-01-1936
(08-01 Bính Tý)
Hội Thánh Bến Tre họp phiên đầu tiên tại thánh thất An Hội
(Bến Tre).([1])
Lúc này Hội Thánh có chín mươi sáu thánh thất (toàn đạo Cao Đài có một trăm ba
mươi lăm thánh thất). Thành phần tham dự như sau:
- Hiệp Thiên Đài: Bảo Đạo, Khai
Thế, Bảo Phong Quân.
- Cửu Trùng Đài: Phối Sư (sáu
nam, hai nữ); Giáo Sư (ba mươi mốt nam, sáu nữ); Giáo Hữu (chín mươi hai nam,
bốn mươi ba nữ); hơn ba trăm Lễ Sanh nam nữ dự thính.
Đức Giáo Tông Nguyễn Ngọc Tương giải thích: “Vì trong
Hội Thánh còn thiếu chức Đầu Sư và Chánh Phối Sư, còn mấy vị Phối Sư mới thăng
thưởng thì chưa được thông thuộc, nên Anh Cả phải ngồi chủ tọa Hội Thánh kỳ
này, sau có người điều đình được rồi sẽ phú thác.” ([2])
Đại hội chấp thuận một chương trình gồm mười điểm như sau:
1/ Về bốn hạng chức sắc.([3]) 2/ Về sự hành đạo
của chức sắc.([4])
3/ Về công hạnh của mỗi phẩm chức sắc. 4/ Về sắc phục thường mặc của chức sắc,
chức việc. 5/ Về tài chánh.([5]) 6/ Về phước điền.([6]) 7/ Về nhà tu,([7]) hạnh đường,([8]) tiểu học đường.([9]) 8/ Về vệ sinh.([10]) 9/ Về ban thường
xuyên của Hội Thánh.([11]) 10/ Về Ban Ủy Viên
Kiểm Dượt [duyệt] kinh sách để tái bản.([12])
CHỦ NHẬT 12-4-1936 (21-3
Bính Tý)
Thánh thất An Hội (Bến Tre) xuất bản Châu Tri Chỉnh Đạo 1934-1936 (Bến Tre: nhà in Bùi Văn Nhẫn, 74 trang 16x 24cm).([13]) Không có Châu Tri số 1 và số
2, sách gồm chín châu tri là: số 3 (ngày 24-7-1934); số 4 (ngày 27-7-1934); số
5 (ngày 26-9-1934); số 6 (ngày 20-11-1934); số 7 (ngày 05-12-1934); số 8 (ngày
15-12-1934); số 9 (ngày 29-12-1934). Riêng số 10 (ngày 15-01-1935) là thư
Thượng Đầu Sư gởi Phạm Hộ Pháp. Còn có nhiều văn bản khác, và kết thúc với vi
bằng (biên bản) phiên họp của Hội Thánh tại thánh thất An Hội lúc 9 giờ sáng
Thứ Sáu 31-01-1936 (08-01 Bính Tý).
THỨ BẢY 13-6-1936 (24-4
Bính Tý)
Đức Giáo Tông Nguyễn Ngọc Tương nhập đại tịnh tại Thiên Lý
Mật Truyền (trên nóc Thiên Phong Đường). Ngài ăn rất ít cơm, còn dùng trái cây,
uống nước dừa, sữa đậu nành, và chút ít cháo.
THỨ SÁU 17-7-1936 (29-5
Bính Tý)
Sau hơn nửa tháng trọng bệnh, Thượng Chưởng Pháp Lê Bá
Trang quy thiên tại thánh thất An Hội. Giáo Tông Nguyễn Ngọc Tương cho báo tang
các nơi, trong đó có:
– Điện tín gởi Phạm Hộ Pháp: “Avons douleur pour faire part décès notre
grand frère Lê Bá Trang, survenu 17 Juillet, enterrement 21 Juillet.” (Dịch: Chúng tôi đau đớn báo tin anh lớn của
chúng ta Lê Bá Trang quy thiên ngày 17-7, an táng ngày 21-7.)
– Điện tín gởi Nữ Chánh Phối Sư Hương Thanh: “Avons
douleur vous informer décès Chưởng Pháp Lê Bá Trang, survenu aujourd’hui à
BenTre et demandons permission d’enterrer dans propriété commune derrière Grand
Temple Tây Ninh. Attendons réponse demain.” (Dịch: Chúng tôi đau đớn báo tin Chưởng Pháp Lê Bá Trang đã quy
thiên hôm nay tại Bến Tre. Mong muốn được an táng phía sau Đền Thánh
Tây Ninh. Chúng tôi chờ phúc đáp ngày mai.)([14])
CHỦ
NHẬT 19-7-1936 (02-6 Bính Tý)
Buổi chiều, Giáo Tông Nguyễn Ngọc Tương
nhận được hai điện tín, cùng chấp thuận việc an táng Thượng Chưởng Pháp Lê Bá
Trang phía sau Đền Thánh ở Tây Ninh.
– Điện tín của Phạm Hộ
Pháp: “Au nom
sacerdoce et au mien vous adresse condoléances émues. Autorise enterrer au
Saint Siège.”
(Dịch:
Nhân danh Hội Thánh và cá nhân, tôi xin chia buồn sâu sắc. Được phép chôn cất ở
Tòa Thánh.)
– Điện tín của Nữ Chánh Phối Sư Hương Thanh: “Condoléances
très émues, accord pour inhumation derrière Grand Temple.”
(Dịch: Xin
gởi lời chia buồn sâu sắc nhất. Đồng ý được an táng phía sau Đền Thánh.)([15])
THỨ BA
21-7-1936 (04-6 Bính Tý)
Sau ba ngày lễ tang tại thánh thất An Hội,
vào buổi sáng Đức Giáo Tông Nguyễn Ngọc Tương cùng hai vị chức sắc Hiệp Thiên
Đài và bổn đạo đưa liên đài Đức Thượng Chưởng Pháp Lê Bá Trang về Tòa Thánh Tây
Ninh.
Buổi chiều không thể làm lễ tang tại Đền
Thánh, vì Tòa Thánh Tây Ninh yêu cầu tất cả mọi người khi vào Đền Thánh phải
mặc tang phục, không được mặc phẩm phục chức sắc.([16])
Khoảng 10 giờ tối, trở ngại được giải
quyết: Liên đài Đức Thượng Chưởng Pháp để tại nhà giảng, hôm sau làm lễ tại
đây; phái đoàn đưa tang nghỉ tạm ở Học Xá.
THỨ NĂM 23-7-1936 (06-6
Bính Tý)
Lúc 8 giờ sáng, Phạm Hộ Pháp làm lễ tiếp dẫn đưa liên đài
Thượng Chưởng Pháp Lê Bá Trang an táng phía sau Đền Thánh.
Buổi chiều, Giáo Tông Nguyễn Ngọc Tương dẫn đầu phái đoàn
đến Hộ Pháp Đường chào từ biệt Phạm Hộ Pháp. Cả đoàn trở về Bến Tre trong ngày.
Sau ngày Thượng Chưởng Pháp Lê Bá Trang quy thiên, Giáo
Tông Nguyễn Ngọc Tương ra lệnh ngưng lập đàn, không dùng cơ bút. Từ đây Hội
Thánh Bến Tre chỉ trọn hành theo Thánh
Ngôn Hiệp Tuyển, Tân Luật, và Pháp Chánh Truyền (không dùng phần chú
giải của Tòa Thánh Tây Ninh).
Mọi việc đạo, Hội Thánh Bến Tre
chung trí luận bàn trong các cuộc nhóm họp theo định lệ hằng tháng, hằng năm và
trong các cuộc nhóm họp bất thường.([17])
1937 (Đinh
Sửu)
Mong muốn truyền đạo Cao Đài bên ngoài Nam
Kỳ, Đức Giáo Tông Nguyễn Ngọc Tương đi Huế và Hà Nội để thăm dò tình thế trong
lúc triều đình Huế đang cấm đạo Cao Đài.([18]) Đi
theo Ngài có thanh đồng Tô Văn Pho (1919-1998) sau này sẽ là người giữ vai trò
quan trọng tại thánh thất Hà Nội.([19])
CHỦ NHẬT 16-5-1937 (07-4
Đinh Sửu)
Lạc thành thánh thất An Hội sau khi hoàn tất tu tạo. Đến
chúc mừng có các vị: Nguyễn Bửu Tài và Nguyễn Thế Hiển (Hội Thánh Cao Đài Tiên
Thiên); Phan Văn Thiệu (Hội Thánh Cao Đài Minh Chơn Đạo), v.v…
THỨ NĂM 08-7-1937 (01-6
Đinh Sửu)
Đức Giáo Tông Nguyễn Ngọc Tương nhập đại tịnh tại Hiệp
Thiên Đài. Ngài ghi lại nhật ký hành pháp rất chi tiết.([20])
CHỦ NHẬT 08-8-1937 (03-7
Đinh Sửu)
Người phối ngẫu của tiền khai Nguyễn Ngọc Tương là bà Bùi
Thị Giàu (sinh năm 1884) tạ thế.
1938 (Mậu Dần)
Suốt năm này Đức Giáo Tông Nguyễn Ngọc Tương đi thăm các
thánh thất, làm phép đại xá, giải khổ cho từng nơi. Ngài giảng giải:
– Mỗi người đều mang nặng nhiều nghiệp chướng
tội tình, nên khó dứt mà tu được. Ai được hưởng phép đại xá rồi thì các nghiệp
cũ đã dứt, có thể tu hành đắc đạo được.
– Ngoài các nghiệp cũ lỗi xưa, mỗi người còn
vương mang lấy khổ trần, do lòng ham muốn dục vọng chiêu tập vào, khó giải
thoát được. Phép giải khổ là cách Ơn Trên hộ trợ điển lành, giúp người tu có đủ
đức tin sẽ nương theo phép giải khổ ấy mà tự mình lần lần giải được các khổ
trần.
Trong hai năm 1938-1939, Đức Giáo Tông phái nhiều chức sắc
ra phổ độ ở hai miền Trung và Bắc. Ở miền Trung, mở được hai mươi lăm thánh
thất với số tín đồ khoảng năm ngàn người. Ở miền Bắc, lập được thánh thất tại
Hà Nội.([21])
THỨ
BẢY 15-01-1938 (14-12 Đinh Sửu)
Thành lập ban tổ chức chuẩn bị cho Lễ
Thành Đạo, bao gồm đại diện Bàn Cửu Viện: Chánh,
Phó Nội Viện Trưởng (Giáo Sư Thượng Trò Thanh,([22]) Giáo
Sư Ngọc Thỏa Thanh); Công Viện Trưởng
(Giáo Sư Thượng Trọng Thanh); Chánh, Phó
Lễ Viện Trưởng (Giáo Sư Thượng Thân Thanh, Giáo Sư Thượng Hộ Thanh); Chánh, Phó Hộ Viện Trưởng (Nữ Giáo Sư
Hương Phụng, Giáo Sư Ngọc Khánh Thanh).
Ban tổ chức soạn xong chương trình chi tiết cho Lễ Thành
Đạo, kéo dài từ Thứ Hai
07-02-1938 (08-01 Mậu Dần) đến Thứ Hai
14-02-1938 (15-01 Mậu Dần). Chương trình được các vị Quyền Chánh Phối Sư Thái
Cậy Thanh, Thượng Lai Thanh và Giáo Sư Ngọc Diêu Thanh ([23]) (thay
thế Quyền Ngọc Chánh Phối Sư Thái Minh Thanh đang bệnh) kiểm duyệt.
THỨ HAI 07-02-1938 đến THỨ HAI 14-02-1938
(08-01 Mậu Dần đến 15-01 Mậu Dần)
Cử hành long trọng tại thánh thất An Hội,([24]) Lễ Thành Đạo được
xác định: “Đại Lễ có ý nghĩa chấm dứt nhiệm vụ Chỉnh Đạo và các chi phái cũng đã
rồi phận sự. Từ nay, chỉ có Hội Thánh Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ để hướng dẫn nhơn
sanh tu hành đúng theo chơn truyền và Tân Pháp Đức Chí Tôn.” ([25])
1939 (Kỷ Mão):
Từ năm này trở về sau, trong nhiều văn bản, Đức Giáo Tông
Nguyễn Ngọc Tương khuyên nhủ bổn đạo vào mỗi thời cúng phải để tâm thành cầu
nguyện cho nhơn sanh được mau thoát nghiệp vay trả tương tàn; phải tụng Kinh Sám Hối, Kinh Cứu Khổ càng nhiều
càng tốt. Ngài luôn luôn nhắc bổn đạo chỉ nên siêng lo tu hành cầu nguyện,
chẳng nên vướng vào việc quốc sự (chánh trị).
CHỦ NHẬT 19-02-1939 đến THỨ SÁU 17-3-1939
(01-01 Kỷ Mão đến 27-01
Kỷ Mão)
Đức Giáo Tông Nguyễn Ngọc Tương nhập đại tịnh.([26])
THỨ BẢY 01-7-1939 đến THỨ SÁU 07-7-1939
(15-5 Kỷ Mão đến 21-5
Kỷ Mão)
Đức Giáo Tông Nguyễn Ngọc Tương nhập đại tịnh.([27])
CUỐI NĂM 1939 (Kỷ
Mão)
Dời Thiên Lý Mật Truyền về nơi cất Tịnh Xá trong vườn Trước
Hoa Kỳ Thọ.([28])
THỨ TƯ 24-01-1940
(16-12 Kỷ Mão)
Đức Giáo Tông Nguyễn Ngọc Tương ra Châu Tri số 395 để chúc
xuân bổn đạo năm Canh Thìn. Có đoạn viết: “(N)hững
mảng gắng lo việc cả của Đạo nhứt là việc kiến trúc các cơ quan cho kịp thì
Thiên ý định, mà Tệ Huynh quên mệt quên già. Hôm nay Đạo đã đến tuổi mười lăm,
được có huệ quang chánh kiến; còn Tệ Huynh cũng tới lục tuần nhĩ thuận rồi,([29]) mong
gấp thấy sự quy nhứt tán thành (...).” ([30])
THỨ SÁU 02-02-1940 đến THỨ BẢY 04-5-1940
(25-12 Kỷ Mão đến 27-3 Canh Thìn)
Đức Giáo Tông Nguyễn Ngọc Tương nhập đại tịnh. Có những
ngày ngồi luôn từ giờ Tý đến giờ Dậu.
THỨ NĂM 15-02-1940 (08-01
Canh Thìn)
Khánh thành Tịnh Xá.
THỨ BA 14-5-1940 (08-4
Canh Thìn)
Đức Giáo Tông Nguyễn Ngọc Tương mở khóa tịnh đầu tiên tại
Tịnh Xá vừa khánh thành ngày 15-02-1940 (08-01 Canh Thìn). Ngài đích thân
truyền pháp tu.
THỨ SÁU 15-11-1940 đến THỨ SÁU 20-12-1940
(16-10 Canh Thìn đến 22-11 Canh Thìn)
Đức Giáo Tông Nguyễn Ngọc Tương nhập đại tịnh. Mỗi ngày
dùng một bữa. Có những ngày không ăn.
1941 (Tân Tỵ)
Nhà tu trung thừa nữ được dời về khoảng đất rộng rãi.([31])
Trước kia tạm cất gần phòng trù thánh thất An Hội.
THỨ TƯ 22-01-1941
(25-12 Canh Thìn)
Do lỗi hai chức việc tại họ đạo Hiệp Thạnh (Tây Ninh), lại
bị vu cáo về chánh trị, tiền khai Nguyễn Ngọc Tương bị tòa án xử phạt mười tám
tháng tù. Sau khi chống án, ngày Thứ Ba
08-4-1941 (12-3 Tân Tỵ) tiền khai được tòa xử lại, đổi ra sáu tháng tù treo.
THỨ NĂM 10-4-1941 (14-3
Tân Tỵ)
Đức Giáo Tông Nguyễn Ngọc Tương ra Châu Tri số 418, nhắc
tới việc phải ra hầu tòa hai lần (22-01 và 08-4-1941):
“Tệ
Huynh không buồn cũng không phiền những người vu cáo ám hại. Tệ Huynh tin chắc
chi chi cũng có Thầy biết cả. Nơi tòa trên mà không nhìn nhận được sự chắc
thiệt, sự trung thành và sự vô tội của Tệ Huynh trong vụ nầy, cũng bởi có
Thiêng Liêng để vậy, mới tạo ra được một cái hàm oan cho Tệ Huynh phải chịu,
hầu thử lòng các em trong buổi nầy, đặng lừa lọc người tâm thành bền vững có
hạnh đức, xứng đáng đệ tử của Thầy, em của Tệ Huynh. Nói rõ là những em nào
thiệt tu hành, thiệt tin Tệ Huynh, rõ biết Tệ Huynh phải chịu nạn, để gánh bớt
tội lỗi cho các em mà tỏ lòng thêm mến thương khắng khít, thì em ấy sẽ được
vững chắc mà đi trên con đường đạo đức đến nơi kết quả. Trái lại, những em nào
không dốc chí tu hành, không đủ đức tin nơi Thầy, nơi Đạo, và nơi Tệ Huynh, mới
thấy khó nản lòng trở bước, đã lơ lảng Đạo Thầy, thì phải mắc kế của quỷ vương,
rồi có thể bị lôi kéo ra khỏi Đạo…” ([32])
1942 (Nhâm Ngọ)
Đức Giáo Tông Nguyễn Ngọc Tương phái nhiều Ban Minh Đạo đi
thăm viếng các thánh thất. Ngài giải thích:
“Minh
là tỏ rạng, làm cho sáng rõ. Đạo là nói về sự hành đạo của mỗi
chức sắc và sự giữ đạo của mỗi tín đồ.
Đi minh
đạo là đến nơi nào còn khuyết điểm để khêu đuốc huệ, rọi đường tu,
chỉ thêm rõ phận sự cho mỗi chức sắc và dạy tín đồ cho rõ thêm luật Đạo và cách
tu hành, nâng đỡ đức tin cho trong họ đạo được thêm vững vàng…”.([33])
THỨ NĂM 01-01-1942 đến THỨ BẢY 07-02-1942
(15-11 Tân Tỵ đến 22-12 Tân Tỵ)
Đức Giáo Tông Nguyễn Ngọc Tương nhập đại tịnh.([34])
THỨ HAI 06 rạng THỨ BA 07-4-1942
(21 rạng 22-02 Nhâm Ngọ)
Khoảng một tuần trước ngày này, Đức Giáo Tông Nguyễn Ngọc
Tương làm việc và tiếp chức sắc suốt ngày đêm. Ngài đi thăm các nhà tu, cơ sở
đạo... Mỗi đêm ngài làm việc đến khuya. Luôn luôn có hai thư ký bên cạnh giúp
việc giấy tờ.
Trước khi vào tịnh, Đức Giáo Tông vừa làm việc vừa trò
chuyện, chia sẻ những tâm sự trong đời hành đạo:
“Sứ
mạng của nền Đạo là cao cả, mà hiện tình rất hiếm người đảm đương. Việc đạo là
tối trọng, là cả một công cuộc tái tạo và cứu khổ cho nhơn loại đang bị chìm
đắm trong biển khổ đầy khói lửa tang thương. Anh đã vì lòng thương mà cố gắng
hết sức mình, nhưng sức người có hạn! Vả lại, anh cần phải nắm cơ siêu thoát,
mới thấu triệt lẽ Đạo, mới đủ huyền năng đưa thuyền Đạo đến nơi đến chốn. Bổn
phận anh là về phần lý tưởng, về phần đạo pháp, chớ không phải về phần hành
chánh là phận sự của Đầu Sư. Thế mà vì thiếu người, anh phải cam lo cả, đến
những việc thường thức hằng ngày. Như vậy thiệt là một điều không may cho Đạo!
Nhưng
thôi, dầu sao, anh cũng phải vào đại tịnh. Mọi việc ở ngoài giao lại cho Hội
Thánh lo; và sẽ luôn luôn có Thiêng Liêng, Đức Lý ủng hộ.”
Vào giờ Tý, Đức Giáo Tông Nguyễn Ngọc Tương từ giã, bước
lên lầu Thiên Lý Mật Truyền, vào đợt đại tịnh.([35])
THỨ NĂM 24-9-1942 (15-8
Nhâm Ngọ)
Khánh thành nhà tu thượng thừa nữ.
THỨ BẢY 13-02-1943 (09-01 Quý Mùi)
Đức Giáo Tông
Nguyễn Ngọc Tương ra Tuyên Ngôn:
“Vì
đạo Cao Đài chính mình Đức Chúa Trời khai, mới có muôn vàn Thần Thánh, Tiên
Phật hạ trần giúp sức phổ thông, nên sẽ được bền bỉ đến bảy ức năm.
Gặp
đời nầy ai không vào Đạo, đời sau, rồi đời sau nữa, nếu có tái sanh trở lại
trái địa cầu nầy, thì cũng phải vào Đạo.”([36])
1944 (Giáp Thân)
Đức Giáo Tông Nguyễn Ngọc Tương cho lập nhà tu trung thừa
nam. Ngài dạy lập nhiều đoàn chức sắc lấy tên là Ban Truyền Tín đi các tỉnh miền
THỨ TƯ 21-02-1945 (09-01 Ất Dậu)
Đức Giáo Tông
Nguyễn Ngọc Tương ra Tuyên Ngôn:
“Nơi
đây [tỉnh Bến Tre và hai quận
An Hóa, Chợ Lách] sẽ được phong võ
thuận hòa, điền viên thêm thạnh mậu, không khí thường được thanh lương, người
thêm thơ thới mạnh khỏe, khỏi bịnh hiểm nghèo, khỏi nạn tai sẽ đến.
Muốn
hưởng lạc cảnh nầy, thì chỉ có tùng luật lệ của Đạo Trời mới mở, buộc nhứt là
ăn chay làm lành (...).” ([37])
THỨ BẢY 19-5-1945 (08-4 Ất Dậu)
Đức Giáo Tông
Nguyễn Ngọc Tương ra Tuyên Ngôn:
“Thời
cuộc lúc này rất nghiêm trọng.
Phổ độ
người đồng chủng với mình biết bỏ quấy theo lành, tu nhơn tích đức, cũng là
giúp ích cho nước nhà, hóa dân vi thiện, không luận là nhập theo đảng phái mới
gọi là ái quốc.”([38])
THỨ NĂM 20-9-1945 (15-8 Ất Dậu)
Đức Giáo Tông
Nguyễn Ngọc Tương ra Tuyên Ngôn:
“Nếu
các em quên lời dạy của Thầy và không nhớ lời khuyên của Tệ Huynh, tự mình đem
mình vào nơi hiểm địa bên đời, nơi chốn có sự tranh đấu quyền lợi, tức là các
em đem Đạo vào nơi một phạm vi rất hẹp, nghịch ý Trời, lỗi lời nguyền mà phải
phạm Thiên điều…
Tóm
tắt, các em cứ thành tâm tu niệm, rán lập mình nên gương, nên đạo đức, rán độ
người theo chánh về lành. Việc đó rất hữu ích cho người đời, cũng là cho nước
nhà vậy. Rất thuận Thiên ý, đẹp lòng Trời. Có thể chiêu tập được nhiều phước
lành, đưa nước nhà khỏi nạn tai còn sẽ tới.” ([39])
THỨ HAI 11-02-1946
(10-01 Bính Tuất)
Quân Pháp tái chiếm Bến Tre. Đức Giáo Tông Nguyễn Ngọc
Tương rời Thiên Lý Mật Truyền ra gặp các sĩ quan Pháp để bảo lãnh cho bổn đạo
và Hội Thánh Bến Tre. Vì còn trong thời gian đại tịnh, ngài chỉ viết trên giấy
(bút đàm).
Tháng 8-1946 (Bính
Tuất)
Con trai tiền khai Nguyễn Ngọc Tương là kỹ sư Nguyễn Ngọc
Bích bị giặc Pháp bắt.([40]) Để giữ trọn vẹn
tinh thần thuần chân vô ngã của Đạo, tiền khai không chịu dùng uy tín của Người
để bảo lãnh con (giống như trường hợp sau này, vào tháng 6-1949, khi con tiền
khai là kỹ sư Nguyễn Ngọc Nhựt bị giặc Pháp bắt).
Đức Giáo Tông Nguyễn Ngọc Tương sai dịch các Tuyên Ngôn ra
tiếng Pháp, rồi in song ngữ Việt-Pháp để phổ biến cho nhơn sanh. Mỗi Tuyên Ngôn
in khoảng vài ba chục ngàn bản. Ngoài ra ngài còn dạy gởi các báo Việt, Pháp
đăng các Tuyên Ngôn ấy.
THỨ BẢY 19-10-1946 (25-9
Bính Tuất)
Một phái đoàn quan chức thay mặt Giám Mục Ngô Đình Thục ([41])
đến viếng Hội Thánh Bến Tre, và trình Đức Giáo Tông Nguyễn Ngọc Tương hai việc:
(a) Làm thế nào chấm dứt xung đột Việt-Pháp? (b) Muốn có sự liên lạc mật thiết
giữa hai đạo Thiên Chúa và đạo Cao Đài.
Đức Giáo Tông trả lời:
“Vì
còn trong đại tịnh, Bần Đạo chưa có thể tiếp kiến được.
Muốn
cho Pháp Nam hiểu biết nhau, cho khỏi sự xung đột nữa, thì hai bên cần phải
nhìn nhận quả quyết rằng chi chi cũng có Đấng Chúa Trời định đoạt trước, và có
Phật, Tiên, Thánh, Thần thi hành Thiên ý.
Hiện
bây giờ muốn biết quả quyết có Trời và Phật, Tiên, Thánh, Thần, thì phải biết
nhìn nhận có đạo Cao Đài, là của Đấng Chúa Trời đã đem khai trong nước Việt Nam
từ năm 1926 tới bây giờ, và quan sát những thánh giáo của Đấng Chúa Trời đã
giáng dạy, và sự tu hành của những người thiệt tu về đạo Cao Đài.
Nếu
hiểu rõ được đạo Cao Đài rồi, thì biết nhìn nhận rằng cả nhơn loại đều là con
chung của một Cha Trời, tức là anh em với nhau, rồi gìn một Đạo với nhau, thì
sự xung đột hết thấy, mà sẽ thấy đem lại những sự thương yêu hòa thuận.
Đạo Cao
Đài từ khi mới lập, đã có tỏ ý liên lạc với Ngũ Chi Đại Đạo. Trong Ngũ Chi Đại
Đạo có đạo Thánh [Ki-tô Giáo], thì tự nhiên theo ý Trời đã định, sớm muộn đạo Thánh cũng phải hiệp
với đạo Cao Đài.
Nay
Đức Cha đã tỏ ý muốn liên lạc mật thiết, thì sự hiệp một có lẽ sẽ thấy gần đây.
LÝ
GIÁO TÔNG
Tái
bút: Xin mời quý vị thượng
quan ở lại vài hôm để hiểu biết thêm việc Đạo nơi đây.”
Sau đó, Đức Giáo Tông Nguyễn Ngọc Tương dạy Hội Thánh phái
chức sắc đi đáp lễ Giám Mục Ngô Đình Thục.([42])
THỨ NĂM 30-01-1947 (09-01 Đinh Hợi)
Đức Giáo Tông Nguyễn Ngọc Tương
ra Tuyên Ngôn:
“Nhơn
sanh phải chịu đau thảm thiệt mạng khôn cùng. Ấy là đời sắp tiêu diệt đó. Vậy
nên Đạo Trời mới mở kỳ ba, đại ân xá mới có ban hành. Nhơn sanh phải nhập môn
giữ Đạo, làm phải làm lành thì mới được hưởng đại ân xá ấy.
Đại ân
xá là một sự rất quý báu của Đạo Trời, người tu vào Đạo Trời nhờ đó mà tội lỗi
kiếp trước và kiếp nầy được bôi xoá; nhờ đó mà thân tâm mình mới được trong
sạch trở lại, được hưởng khí thanh, nó đưa mình ra ngoài vòng tiêu diệt của tận
thế.” ([43])
THỨ SÁU 07-3-1947 (15-02 Đinh Hợi)
Đức Giáo Tông Nguyễn Ngọc Tương
ra Tuyên Ngôn:
“Trong
thời kỳ rất khó khăn nầy, chư hiền hữu phải rán lo giữ Đạo cho thêm sốt sắng,
đức tin cho thêm bền vững, và đừng để cám dỗ ép buộc, xa Đạo mà trở lại đời
loạn ly đau thảm.
Chư
hiền hữu đã chọn theo về bên Đạo, phải cứ giữ một đường mà đi tới. Người giữ
Đạo Trời với lòng thành thật, cũng có thể chiêu tập được nhiều phước lành hữu
ích cho nhơn sanh, và cũng cho nước nhà vậy. Nước có đức được thảnh thơi hưng
thạnh lâu dài. Nước không đức chẳng sớm thì muộn không khỏi nạn tai đưa đến dồn
dập.” ([44])
THỨ HAI 29-9-1947 (15-8 Đinh Hợi)
Đức Giáo Tông Nguyễn Ngọc Tương
ra Tuyên Ngôn:
“Dân
Nam chúng ta thường xưng mình là giống dân Hồng Lạc, tức là giống dòng Tiên
Thánh vậy. Chúng ta rất tin tưởng kính thờ Trời, Phật, Tiên, Thánh, Thần, và
ông bà cha mẹ. Chúng ta đã có được nhiều ân huệ của Trời ban, và có nhiều trang
lịch sử khá đẹp.
Nhưng
hiện nay, Bần Đạo lấy làm buồn mà thấy một số đông người Nam mất gần hết đức
tin của tổ tông thuở trước, mà mê man trong giả mộng theo vật chất bên đời. Cái
nạn đao binh khói lửa nó đang đưa nước nhà lần lần đến cảnh điêu tàn hiu quạnh,
cũng do nơi sự mất đức tin mà ra.
Bần
Đạo cất lời tha thiết kêu gọi các đẳng nhơn sanh
– Nên
bỏ hết những tình dục, nhứt là tham ghét oán thù.
– Tin
quả quyết có Trời là Đấng Tạo Hóa sanh nhơn sanh vật.
– Nên
sớm nhập Đạo Trời đã mở với đại ân xá kỳ ba.
Ấy là
đường vĩnh sanh có một, của Đạo Trời đã mở để cứu vớt sanh linh mà đem qua thượng
ngươn tái tạo. Tận thế hầu gần, nếu ai còn dụ dự nữa, thì sẽ mất dịp thoát vòng
tiêu diệt của đời cùng.” ([45])
THỨ BẢY 11-10-1947 (27-8
Đinh Hợi)
Nhân danh là Lý Giáo Tông cầm giềng mối đạo Cao Đài, ngài
Nguyễn Ngọc Tương gởi thư cho Emile Bollaert (1890-1978), là người được bổ
nhiệm làm Cao Ủy Pháp ở Đông Dương ngày 05-3-1947. Bản dịch:
“Kính
Thượng Quan,
Sự
tiêu diệt lớn lao nhơn vật sẽ hiện tượng gần đây. Ấy là đại quả kiếp lâu đời
của các dân tộc sắp đền bồi với nhau một lần chót nữa.
Khi
những nợ tiền khiên chồng chập ấy trả xong, thì Thiên Đình sẽ ban xuống một đạo
luật hình đặc biệt, để tảo trược trừ hung, khử tà, đem quả địa cầu trở lại
thanh khiết. Ấy là những điềm ra trước của tận thế đó vậy.
Đạo
Cao Đài chính thật của Đấng Chúa Trời đã mở từ năm 1926, hiệp Ngũ Chi Đại Đạo
là Phật, Tiên, Thánh, Thần, và Nhơn Đạo, khi ấy sẽ thật hành ráo riết vai tuồng
chánh thức của mình. Nhờ sự hành động sốt sắng của đạo binh vô số Thần Thánh,
Đạo sẽ lan truyền một lượt ra khắp Ngũ Châu. Và nhờ đại ân xá kỳ ba của Trời
ban, mà cứu vớt sanh linh khỏi vòng tiêu diệt của đời cùng.
Nhơn
sanh chỉ có thành thật nhập môn vào Đạo Trời mới mở, thì sẽ được hưởng ân xá
tội tình, có thể đem mình ra khỏi nơi tiêu diệt.
Sau
khi những việc trên đây lần lượt trải qua, có thể làm cho mặt thế đổi dời, thì
sẽ tới sự phán xét đại đồng. Các đẳng linh hồn bỏ xác từ năm 1914 trong vạn
quốc sẽ đến hầu trước Toà Phán Xét, mà nghe Thiên Đình định sự thưởng phạt cho
mình.
Sẽ
phân biệt được đại khái ba bực linh hồn:
a.
Những linh hồn trong sạch hoàn toàn sẽ được lên Thiên Đường.
b.
Những linh hồn có ít âm chất thì sẽ được đầu thai trở lại quả địa cầu nầy (đã
được nhắc lên một bực), mà tiếp tục trau giồi hạnh đức.
c. Còn
những linh hồn cứ làm quấy mãi, không nghe những lời kêu gọi về thiệt, về phải,
về lành, thì sẽ bị đưa xuống quả địa cầu số 68 để đền tội và ở lại lớp cũ mà lo
tấn hóa.
Nơi
đời thượng nguơn đương tái tạo, sẽ thấy những sự tin tưởng kính thờ Đạo Trời
mới mở, sự hiền lương đạo đức và sự thuận thảo hòa bình, đại đồng miên viễn.
Các sắc dân sẽ nhận tình anh em bình đẳng với nhau, và các nước sẽ đồng ý hiệp
nhau thành một đại gia đình, để trọn đức tin nơi một Chúa tối cao, một Cha duy
nhứt.
Sẽ dứt
hết những sự can qua. Nếu có xích mích nhau thì để cho trong nhà lo sự hòa giải
êm thuận.
Còn
những dân tộc nhược tiểu ở dưới quyền bảo hộ, thì Thiên ý định phải được giải
phóng, nếu chúng mong muốn, đặng cho chúng được tự do hành động theo nguyện
vọng của mình, qua những nạn tai của mấy năm sau cùng của tận thế. Nếu chúng bị
tiêu diệt vì bởi sự ràng buộc còn trở ngại, thì trước Tòa Thiêng Liêng, tự
nhiên chúng sẽ đổ tội cho thủ hộ của chúng.
Kính
Thượng Quan,
Trong
đời hạ nguơn tiêu diệt, chúng ta không nên lãng phí ngày giờ mà tính toán những
việc thế thần, quyền lợi phù du; mà chúng ta có lợi lo hiệp cùng nhau trên căn
bản đức tin Đạo Trời mới mở, bỏ hết những tánh ích kỷ tổn nhơn, mà đồng ý thật
tình thương yêu hòa thuận. Nhờ sự sửa đổi tánh tình mau lẹ nầy, mà chúng ta sẽ
được trở lại trong huệ ân thiêng liêng và hưởng được đại ân xá kỳ ba, có sức
giải được những sự xung đột giữa các nước, và đem lại cho chúng ta sự hòa bình
hạnh phúc.” ([46])
THỨ NĂM 27-11-1947 (15-10 Đinh Hợi)
Đức Giáo Tông Nguyễn Ngọc Tương
ra Tuyên Ngôn:
“Chừng
nào trong thế gian, các dân tộc đều biết nhìn nhận có Trời, có Đạo, có quả báo
luân hồi, biết tôn trọng nhơn nghĩa đạo đức hơn quyền lợi bạc vàng, thì sự đấu
tranh sẽ dứt, sự hòa bình đại đồng thế giới mới trở lại lâu dài.” ([47])
THỨ NĂM 25-3-1948 (15-2 Mậu Tý)
Tuyên Ngôn của Đức Lý Giáo Tông
(tức Giáo Tông Nguyễn Ngọc Tương) dùng danh xưng HỘI THÁNH BẾN TRE.([48])
THỨ NĂM 02-6-1949 (06-5 Kỷ Sửu)
Con trai tiền khai Nguyễn Ngọc Tương là kỹ sư Nguyễn Ngọc
Nhựt bị giặc Pháp bắt. Để giữ trọn vẹn tinh thần thuần chân vô ngã của Đạo,
tiền khai không dùng uy tín của Ngài để bảo lãnh con (y như trường hợp tháng
8-1946, khi con tiền khai là kỹ sư Nguyễn Ngọc Bích bị giặc Pháp bắt).([49])
THỨ
NĂM 19-01-1950 (02-12 Kỷ Sửu)
Từ Bến Tre, Đức Giáo Tông Nguyễn Ngọc
Tương gởi thư ra thánh thất Hà Nội (số 48 Hòa Mã), dặn dò Giáo Hữu Thượng Pho
Thanh (Tô Văn Pho):
“Em Sáu,
“Ông gần ra tịnh. Những người thiệt tu
hành, thiệt trung thành với Hội Thánh Bến Tre, siêng năng sốt sắng lo làm phải
làm lành, lập đức bồi công hằng bữa, hết lòng hết dạ lo giúp Đạo, thiệt tình
khắng khít bên cạnh ông, thì sẽ bị khảo nội khảo ngoại càng ngày càng thêm
nhiều cho đến chừng ông ra tịnh mới hết. Hễ khảo nhiều chừng nào thì công quả
nhiều chừng nấy, nếu không thở than thối chí.
“Vậy em cố giữ đức tin cho thiệt mạnh mẽ
luôn luôn, cho bền chặt vững vàng; ai có kiếm điều làm nhục nhã, ai có mắng
nhiếc hăm dọa, ai có muốn làm thiệt hại cho em thế nào thì cũng đừng giận đừng
buồn, đừng nao núng sợ sệt. Dầu có bị đau ốm gầy mòn thương thân thương thể cho
mấy đi nữa cũng đừng sầu thảm ngã lòng mà lảng lơ việc đạo, mà hao mòn âm chất.
“Em nên tin chắc hẳn rằng người thiệt quên mình lo
giúp Đạo tức là làm việc cho Thầy thì có Thần Thánh ủng hộ luôn luôn, dầu việc
hung cho thế mấy đi nữa cũng hóa ra kiết được.” ([50])
1950-1951 (nửa
sau năm Canh Dần tới đầu năm Tân Mão)
Đức Giáo Tông Nguyễn Ngọc Tương vời hầu hết chức sắc nam nữ
nơi Hội Thánh lên Thiên Lý Mật Truyền để dạy việc. Ngài tiếp các chức sắc làm
nhiều kỳ, ân cần dạy khuyên mỗi chức sắc phải rán lo làm tròn phận sự của mình,
và tu sửa thêm hơn cho được đầy đủ đạo đức.
Cuối năm Canh Dần, Đức Giáo Tông Nguyễn Ngọc Tương truyền
lịnh cho Hội Thánh Bến Tre phải: Lập hồ sơ chức sắc cho đầy đủ; in kinh sách
cho đủ dùng; xây mộ tất cả các chức sắc quá vãng; xây hồ nước; mua vải trắng để
dành; dự bị một số tiền chừng bốn, năm chục ngàn. Ngài còn dặn gia đình sửa
sang tất cả mồ mả gia tộc.([51])
THỨ
BẢY 09-6-1951 (05-5 Tân Mão)
Đức Giáo Tông Nguyễn
Ngọc Tương dạy hai thanh đồng:
“Anh sẽ về chầu Đại Từ Phụ bảy ngày. Hai em rán giữ
gìn cho thanh tịnh. Khi thấy dứt thở quá bảy ngày mà anh chưa về, thì hai em sẽ
cho Hội Thánh hay.” ([52])
THỨ BA
12-6-1951 (08-5 Tân Mão)
Đức Giáo Tông Nguyễn
Ngọc Tương ngồi tịnh suốt ngày đêm.
CHỦ
NHẬT 17-6-1951 (13-5 Tân Mão)
Đức Giáo Tông Nguyễn
Ngọc Tương dứt uống nước.
THỨ
HAI 18 rạng THỨ BA 19-6-1951
(14 rạng 15-5 Tân Mão)
Vào giờ Tý, Đức Giáo
Tông Nguyễn Ngọc Tương dứt thở. Tính từ ngày nhập đại tịnh, vào giờ Tý đêm 21
rạng 22-02 Nhâm Ngọ (06 rạng 07-4-1942) đến khi ngài xuất thần và dứt hơi thở,
thời gian đúng chín năm tám mươi mốt ngày.
THỨ TƯ
20-6-1951 (16-5 Tân Mão)
Hai thanh đồng thấy Đức
Giáo Tông Nguyễn Ngọc Tương dứt thở đã lâu, nên đỡ ngài nằm xuống.
THỨ
SÁU 22-6-1951 (18-5 Tân Mão)
Thấy tay chân Đức Giáo
Tông Nguyễn Ngọc Tương đều lạnh, hai thanh đồng sợ, nên tuy mới qua bốn ngày
vẫn đi xuống lầu Thiên Lý Mật Truyền để báo tin Hội Thánh Bến Tre.
THỨ
BẢY 23-6-1951 (19-5 Tân Mão)
Hội Thánh Bến Tre mời
hai bác sĩ công và một bác sĩ tư đến. Sau khi khám nghiệm, các bác sĩ xác nhận
rằng Đức Giáo Tông Nguyễn Ngọc Tương đã tạ thế từ hai ngày trước; nhưng vì tinh
thần mạnh mẽ nên di thể còn mềm dịu, chưa hư hoại. Hội Thánh vẫn để yên di thể,
chờ thêm hai mươi bốn giờ.
CHỦ
NHẬT 24 rạng THỨ HAI 25-6-1951
(20 rạng 21-5 Tân Mão)
Vào giờ Tý, Hội Thánh
Bến Tre đưa di thể Đức Giáo Tông Nguyễn Ngọc Tương vào liên đài.
THỨ
HAI 25-6-1951 (21-5 Tân Mão)
Lúc 15 giờ, lễ tang bắt
đầu. Tại Hội Thánh Bến Tre, các thánh thất và tư gia đạo hữu đều treo cờ tang.
Mỗi thánh thất đều lập một bàn thờ cho đạo hữu đến vọng bái. Lúc 16 giờ, hơn
một ngàn người đưa liên đài từ Tịnh Xá về Hội Thánh, nhập bửu điện rồi an vị
nơi ngôi Giáo Tông. Hội Thánh ra Tuyên Cáo số 1 về lễ tang.([53])
THỨ NĂM 28-6-1951 (24-5
Tân Mão)
Liên đài Đức Giáo Tông Nguyễn Ngọc Tương đặt tại Cửu Trùng
Thiên trong sân Đại Đồng Xã. Các lễ tế kéo dài đến Thứ Bảy 07-7-1951 (04-6 Tân
Mão). Tổng cộng có một trăm ba mươi sáu lễ tế của đại diện chánh quyền, quan
khách, tôn giáo bạn, các chi phái, và họ đạo. Có hơn một vạn người về viếng, từ
ba miền đất nước. Mỗi ngày có hơn ba ngàn người viếng tang. Hơn hai ngàn vị
cùng phụ trách lễ tang.([54])
THỨ NĂM 05-7-1951 (02-6
Tân Mão)
Hội Thánh Bến Tre ra Tuyên Cáo số 2, với ba nội dung chánh:
(a) Vạch rõ con đường hướng đạo của Đức Giáo Tông Nguyễn Ngọc Tương; (b) Thuật
rõ giai đoạn nhập diệt của ngài; (c) Định rõ đường lối hành đạo của Hội Thánh ở
hiện tại và tương lai.
Ngày an táng, liên đài Đức Giáo Tông đặt trên linh xa,
trang hoàng bằng hoa huệ trắng kết thành hình Long Mã cõng Hà Đồ (Long Mã phụ Hà Đồ 龍馬負河圖). Hơn một vạn bổn đạo dự lễ. Linh xa đi
khắp châu thành Bến Tre, rồi đưa về đặt trên nền bửu tháp trước Hiệp Thiên Đài
thánh thất An Hội.
Sửa
chữa và cập nhật, mạnh xuân Giáp Thìn
Nhiêu Lộc, 18-02-2024
Huệ
Khải
([3]) Bốn hạng
là: Chức sắc hành đạo, chức sắc cựu (già yếu, lo dìu dắt đàn em), chức sắc hàm
phong, chức sắc tạm nghỉ (còn bận việc nhà).
([5]) Định
mức mỗi năm: Tín đồ góp một ngày công quả, chức việc hai ngày, Lễ Sanh bốn
ngày, Giáo Hữu tám ngày, Giáo Sư mười hai ngày. Một ngày công quả tương đương
hai cắc.
Tháng 11-1936 giá gạo ở Nam
Kỳ tăng từ 1,3 đồng lên 2,2 đồng một giạ (20 lít). [In November 1936, the price of rice in Cochin-china rose from 1.3
piasters to 2.2 piasters per giạ (20 litres). Source: Dr. Manh Hung
Le, The Impact of World War II on the
Economy of
([6])
Phước điền gồm ruộng, vườn do đạo hữu hiến đất hay hiến huê lợi. Ban cai quản
điều động người công quả (giúp công hay giúp vốn). Cuối năm tổng kết số thu,
trích hai phần ba cho thánh thất, một phần ba chuyển cho Cửu Viện và nhà tu.
([7]) Tại
thánh thất An Hội sẽ lập hai cơ sở mẫu: nhà tu thượng thừa nam và nhà tu nữ. Dự
kiến cất từ Chủ Nhật
08-3-1936 (15-02 Bính Tý), mở cửa Thứ Năm 04-6-1936 (15-4 Bính Tý).
([8]) Mở
tại thánh thất An Hội một lớp hạnh đường dạy chức sắc hiến thân cho Đạo. Dự
kiến mỗi tháng mở hai đợt, mỗi đợt học bảy ngày.
([9]) Hội
Thánh sẽ lập một trường tiểu học dạy cho trẻ biết chữ, kinh lễ và phận sự đồng
nhi. Mỗi thánh thất phải mở lớp đồng nhi.
([10]) Để
giữ sức khỏe, hộ trợ việc tu hành, người ăn chay phải biết tận dụng sự bổ dưỡng
của gạo lứt và đậu nành...
([11]) Để
tiết kiệm, ba năm họp đại hội một lần. Mỗi năm chỉ nhóm ban thường xuyên
[thường trực] ngày 14-10 âm lịch. Mỗi họ đạo cử một đại biểu vào ban thường
xuyên.
([12]) Gồm
chín vị: Bảo Văn Pháp Quân Cao Quỳnh Diêu (vắng mặt), Bảo Sanh Quân Lê Văn
Hoạch (vắng mặt), Bảo Đạo Phạm Văn Ngọ, Giáo Sư Thượng Học Thanh, Giáo Sư
Thượng Trò Thanh (vắng mặt), Giáo Sư Thượng Chí Thanh, Giáo Sư Ngọc Diêu Thanh,
Giáo Hữu Thượng Nhung Thanh, và Giáo Hữu Thái Vui Thanh.
([13]) Sách tái bản năm
1954 (74 trang, 16x24cm), in tại nhà
in Hòa Chánh, số 16 đường Cống Quỳnh, Sài Gòn.
([14]) Vi
Bằng Cuộc Tống Chung Đức Thượng Chưởng Pháp Lê Bá Trang. Hội Thánh lập Ban
Tổ Chức lễ tang ngày Thứ Sáu 24-7-1936 (07-6 Bính Tý).
([18]) Xem thêm: Huệ
Khải, Cấm Đạo Cao Đài Ở Trung Kỳ
(1928-1950) / Caodaism under Persecution in
([19]) Huệ Khải, Lịch Sử Thánh Thất Cao Đài Thủ Đô Hà Nội.
Hà Nội: Nxb Tôn Giáo, 2015. Xem ảnh minh họa ban thanh đồng, tr.
98.
([20]) Nhật ký hành pháp: 01-6 Đinh Sửu (ĐS): Thượng sớ.\ 02-6
ĐS: Ăn ít trái cây, một bữa cháo.\ 03-6
ĐS: Như trên.\ 04-6 ĐS: Ăn hai
trái xoài.\ 05 đến 08-6 ĐS: Như
trên.\ 09 và 10-6 ĐS: Ăn năm trái táo
khô.\ 11-6 ĐS: Như trên.\ 12 đến 14-6 ĐS: Ăn mười trái táo.\ 15-6 ĐS: Uống nước dừa.\ 16-6 ĐS: Uống hai ly sữa đậu nành.\ 17 đến 23-6 ĐS: Tu khá lên, uống hai ly
sữa.\ 24 đến 30-6 ĐS: Tu khá lên,
thôi uống sữa, uống hai ly nước dừa trong sáu ngày thiệt nhẹ, học nhiều hay
lạ.\ 01 và 02-7 ĐS: Như trên.\ 03-7 ĐS: Bà bạn [Bùi Thị Giàu] mất.\ 04-7 ĐS: Vì đám tang phóng tâm, phải
uống sữa đậu nành lại mới chịu nổi.\ 09-7
ĐS: Hết phóng tâm, ngồi được mười giờ.\ 10-7
ĐS: Tẩu, khử trược.\ 11 và 12-7 ĐS:
Tu khá luôn.\ 16 và 17-7 ĐS: Không
uống sữa, có ân điển mát mẻ khởi sự lên hai bắp vế.\ 18-7 ĐS: Uống sữa lại, khởi sự lên thượng tiêu [miệng trên dạ dày].\
19-7 ĐS: 3 giờ khuya có cho biết phải
tu thêm nữa.\ 20-7 ĐS: Khởi sự nhớ
lại các việc từ nhỏ tới lớn.\ 29 và 30-7
ĐS: Không ăn uống.\ 01-8 ĐS:
Không ăn, không uống, không nằm, không ngủ, cho tới xuất hồn.\ 02-8 ĐS: Có Đức Lý đến khai khiếu định
ngày xuất thần về chầu Thầy.\ 04-8 ĐS:
Bị động, hai con sợ chết, dộng cửa, phải viết giấy cho biết.\ 05-8 ĐS: Vì phóng tâm, tiếp điển bị đứt
đoạn.\ 06-8 ĐS: Phải uống sữa đậu
nành, vì quá yếu sức gần liệt.\ 07-8 ĐS:
Ăn cháo, trái cây cho khỏe lại.\ 08-8 ĐS:
Ăn cháo.\ 09-8 ĐS: Tẩu, ăn cháo, điển thường.\ 11
tới 13-8 ĐS: Không ăn, uống, giờ
chót có điển xả cho nghỉ.\ 14-8 ĐS:
Ra thiền định. (Xem: Tiểu Sử Đức Giáo
Tông Nguyễn Ngọc Tương, tr. 57-58.)
([22]) Trong danh sách
hai mươi tám vị được Đức Chí Tôn chọn đưa vào Tờ Khai Đạo ngày 23-8 Bính Dần,
vị thứ hai mươi lăm là “Ông Nguyễn Văn Trò, giáo viên, Sài Gòn.” (Nguyễn Trung
Hậu, Đại Đạo Căn Nguyên, 1930, tr.
48). Theo Thanh Minh và Phạm Khoa: Thượng Giáo Sư Nguyễn Văn Trò về sau đắc cử
Thượng Chánh Phối Sư; bửu tháp ở thánh thất Tân Hương (nay ở xã Tân Hương,
huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang).
([23]) Theo Thanh Minh
và Phạm Khoa: Giáo Sư Ngọc Diêu Thanh (Nguyễn Thành Diêu) về sau đắc cử Ngọc
Chánh Phối Sư.
([26]) Nhật ký hành pháp: 01 đến 03-01 Kỷ Mùi (KM): Nhịn ăn ba ngày đại tịnh, thêm sáng, trực
tiếp thêm dễ.\ 16-01 KM: Tu chạy khá
lắm.\ 22-01 KM: Khởi sự ăn lại một
bữa cơm. (Tiểu Sử Đức Giáo Tông Nguyễn
Ngọc Tương, tr. 58.)
([27]) Nhật ký hành pháp: 15-5 Kỷ Mão (KM): Nhập tịnh không ăn.\ 19-5 KM: Ngồi luôn suốt ngày đêm.\ 21-5 KM: Ra tịnh, rõ biết thêm việc đạo. (Tiểu Sử Đức Giáo Tông Nguyễn Ngọc Tương, tr. 58.)
([28]) Tại
cổng Trước Hoa Kỳ Thọ, Giáo Tông Nguyễn Ngọc Tương để đôi liễn: Trước Hoa truyền Đại Đạo chơn thành
đắc quả nhơn sanh độ.\ Kỳ Thọ xuất huyền vi Thánh Đức tận thông
ngũ cực thâu. (Xem minh họa, tr.
94.)
Thiên Lý Mật Truyền là nơi Đức Giáo Tông Nguyễn Ngọc Tương nhập đại
tịnh (năm 1935 được cất tạm trên nóc Thiên Phong Đường). Phòng tịnh vuông vức
(3x3m) trên lầu ba. Trong phòng vỏn vẹn một bàn thờ Đức Chí Tôn, một ghế ngồi
tịnh, và một cái “đơn” để nằm nghỉ. Khi vệ sinh cá nhân, Ngài đi xuống từng lầu
giữa. Thiên Lý Mật Truyền để đôi liễn: Bảo
mạng tùy nguơn hành chánh pháp.\ Thiên khai Đại Đạo thủ chơn truyền. Phía
sau Thiên Lý Mật Truyền là Tịnh Xá cho người tu bậc thượng thừa đến thọ pháp và
thiền định.
Tiểu
Sử Đức Giáo Tông Nguyễn Ngọc Tương, tr. 62.
([34]) Nhật ký hành pháp: 15-11 Tân Tỵ (TT): Nhập thiền định, ăn uống như thường trong tuần
đầu.\ 22-11 TT: Ăn một bữa cơm trưa,
hai bữa ăn trái cây.\ 27-11 TT: Tu
thêm lên một bực nữa, thượng sớ nhập đại tịnh.\ 12-12 TT: Đại tịnh, ngồi được khá mà còn phóng tâm.\ 15-12 TT: Đại tịnh, không ăn uống.\ 16-12 TT: Đại tịnh.\ 17-12 TT: Đại tịnh.\ 19-12 TT: Ăn một bữa cơm, một bữa cháo.\
22-12 TT: Ra tịnh. (Tiểu Sử Đức Giáo Tông Nguyễn Ngọc Tương,
tr. 59.)
([35]) Nhật ký hành pháp: 22-02 Nhâm Ngọ (NN): Nhập tịnh.\ 23 và 24-02 NN: Hành pháp.\ 25-02 NN: Đắc đạo, có gió mưa, sấm nổ.\
26 đến 28-02 NN: Có mùi thơm đưa
đến.\ 29-02 NN: Hành pháp.\ 01 đến 03-3 NN: Hành pháp.\ 04-3 NN: Đắc phong vị Lý Giáo Tông, có
dông mưa.\ 17-03 NN: Hành pháp.\ 25-3 NN: Được chấm đậu hoàn toàn, đi
chầu Thầy và các Đấng thiêng liêng.\ 27
đến 29-3 NN: Hành pháp.\ 16-5 NN: Hành pháp xuất thần.\ 18-5 NN: Xuất chơn thần về Bạch Ngọc
Kinh.\ 09-6 NN: Khởi sự khử trược.\ 17-6 NN: Khử trược phục khí.\ 22-6 NN: Phục khí tiên thiên.\ 01-7 NN:
Còn khử trược, phục khí tiên thiên.\ 17-7
NN: Cũng còn khử trược, phục khí tiên thiên.\ 01-8 NN: Cũng còn đem tiên thiên đổi lấy hậu thiên. (Tiểu Sử Đức Giáo Tông Nguyễn Ngọc Tương,
tr. 63-64.)
([40]) Ông
Nguyễn Ngọc Bích sinh năm 1911 tại làng An Hội, tổng Bảo Hựu (nay là phường 5,
thành phố Bến Tre), qua Pháp học trường Bách Khoa (Polytechnique) tại Paris. Tốt nghiệp kỹ sư cầu cống, ông về nước
làm việc ở Sở Thủy Lợi của tỉnh Sóc Trăng cho đến ngày Nhật đảo chánh Pháp. Sau
ngày toàn quốc kháng chiến (19-12-1946) ông tham gia kháng chiến, làm Khu Bộ
Phó của Khu 9 (Tây Nam Bộ). Khi giặc Pháp càn quét ở Sóc Trăng, ông bị bắt làm
tù binh ngày 25-8-1946. Năm 1948, ông bị cưỡng bách đưa sang Pháp. Tại Paris, ông mở nhà xuất bản Minh Tân, in được nhiều tác phẩm giá trị. Ông lấy thêm bằng bác
sĩ, chuyên khoa ung thư. Ông mất năm 1966 tại Thủ Đức vì ung thư, an táng tại
Bến Tre, gần bào đệ Nguyễn Ngọc Nhựt.
([41]) Ngày 08-01-1938,
Tòa Thánh Vatican thành lập giáo phận Vĩnh Long, gồm ba tỉnh Vĩnh Long, Trà
Vinh, Bến Tre, và hai quận thuộc tỉnh Cần Thơ. Tòa Thánh bổ nhiệm linh mục
Phê-rô Mác-ti-nô Ngô Đình Thục (1897-1984) làm giám mục giáo phận Vĩnh Long, lễ
tấn phong tại nhà thờ Chính Tòa Phủ Cam (Huế) ngày 04-5-1938. Ngày 12-4-1961,
Ngô Đình Thục bắt đầu làm tổng giám mục phụ trách tổng giáo phận Huế.
([49]) Ông Nguyễn Ngọc Nhựt sinh ngày 15-9-1918
tại làng An Hội (nay là phường 5, thành phố Bến Tre), du học ở Pháp, đậu bằng
kỹ sư tạo tác, làm chuyên viên kỹ thuật cho các hãng buôn của Pháp trong nhiều
năm. Vợ ông là con một kỹ sư người Pháp.
Năm 1946, ông tìm cách về nước để tham gia kháng chiến.
Năm 1948, ông được cử làm ủy viên Ủy Ban Kháng Chiến Hành Chánh Nam Bộ, phụ
trách công tác thương binh và xã hội. Ngày 02-6-1949, trong một trận càn của
quân Pháp ở Đồng Tháp Mười, ông bị bắt tại Cái Bèo (tỉnh Sa Đéc, nay là tỉnh
Đồng Tháp). Ông khai là Nguyễn Văn Huyện, giáo viên bình dân học vụ, nhưng quân
Pháp đã điều tra được thân thế của ông.
Sau nhiều cố gắng mua chuộc,
dụ hàng bị thất bại, quân Pháp tra tấn ông dã man, tiêm thuốc cho ông rối loạn
thần kinh. Sau hai lần chuyển nhà tù, ông bị giặc Pháp đưa về giam ở nhà thương
điên Biên Hòa, không được chữa trị. Tại đó, ông hy sinh ngày 16-5-1952.
Chính Phủ Việt Nam Dân Chủ
Cộng Hòa truy tặng ông bằng liệt sĩ và Huân Chương Kháng Chiến hạng nhất.