NIÊN BIỂU ĐỨC GIÁO TÔNG
NGUYỄN
NGỌC TƯƠNG (PHẦN 1/3)
THỨ TƯ 22-6-1881 (26-5
Tân Tỵ)
Tiền khai ([1]) Nguyễn Ngọc Tương chào đời
tại làng An Hội, tổng Bảo Hựu, tỉnh Bến Tre. Song thân là ông Nguyễn Ngọc Đẩu
(1857-1882) và bà Võ Thị Sót (1856-1919). Ông tổ Nguyễn Đức Sơ là người tỉnh
Bình Định, di cư vào Bến Tre hồi thế kỷ 18.([2])
THÁNG 7-1882
(tháng 6 Nhâm Ngọ)
Thân phụ tiền khai Nguyễn Ngọc Tương (ông Nguyễn Ngọc Đẩu)
qua đời. Tiền khai sống với ông nội là Nguyễn Hữu Chơn (1832-1908).
1886 (Bính Tuất)
Tiền khai Nguyễn Ngọc Tương học chữ Nho và một ít chữ quốc
ngữ tại nhà, do ông nội là Nguyễn Hữu Chơn (1832-1908) chỉ dạy.
1895 (Ất Mùi)
Tiền khai Nguyễn Ngọc Tương học lớp ba trường tỉnh Bến Tre.
1897 (Đinh Dậu)
Tiền khai Nguyễn Ngọc Tương thi đậu vào collège de Mỹ Tho.([3])
1900 (Canh Tý)
Tiền khai Nguyễn Ngọc Tương lên Sài Gòn theo học collège
Chasseloup-Laubat.(3)
1902 (Nhâm Dần)
Tiền khai Nguyễn Ngọc Tương tốt nghiệp
collège Chasseloup-Laubat.
Thi đậu vào ngạch Thơ Ký Thượng Thơ, làm việc tại Phủ
Thượng Thơ ([4])
ở Sài Gòn một năm.
Kết hôn với cô Trương Thị Tài (1886-1906). Sinh được Nguyễn
Thị Tú (1903-1926), Nguyễn Ngọc Thăng (trai, thuở nhỏ mất sớm), và Nguyễn Ngọc
Hớn (trai, 1905-1951).([5])
1903 (Quý Mão)
Tiền khai Nguyễn Ngọc Tương đổi về Bến Tre, làm việc tại tỉnh
nhà suốt mười bảy năm (1903-1920).
1906 (Bính Ngọ)
Người phối ngẫu của tiền khai Nguyễn Ngọc Tương là bà
Trương Thị Tài qua đời.
1908 (Mậu Thân)
Tiền khai Nguyễn Ngọc Tương tục huyền với cô Bùi Thị Giàu
(1884-1937). Bà sinh được ba con trai là Nguyễn Ngọc Kỷ (1910-1978), Nguyễn
Ngọc Bích (1911-1966), Nguyễn Ngọc Nhựt (1918-1952); và được hai con gái là
Nguyễn Thị Yến (1913-2004), và Nguyễn Thị Nguyệt (1915-2009).
1919 (Kỷ Mùi)
Tại Bến Tre, trước khi đổi đi quận Châu Thành (tỉnh Cần
Thơ), tiền khai Nguyễn Ngọc Tương hiệp cùng một số vị thành lập Hội Buôn An Nam và Hội Khuyến Văn.
Hội Buôn An Nam có mục đích giúp đồng bào ý thức, biết bảo
vệ quyền lợi kinh tế và thương mại vì thời ấy thương trường hầu như do ngoại
kiều chi phối trọn vẹn.
Hội Khuyến Văn có mục đích khuyến khích dân chúng hiếu học
để tiến bộ và bảo vệ phong hóa nước nhà. Hội tổ chức những buổi diễn thuyết và
lưu hành một nội san để cổ động đồng bào học chữ quốc ngữ, đọc sách báo, sáng
tác thơ văn, đề cao đạo nghĩa nhân luân, tình yêu nước thương nòi, bài trừ mê
tín dị đoan, hủ tục, v.v…
Cuối năm, tiền khai thi đậu ngạch tri huyện.([6])
1920-1924 (Canh
Thân – Giáp Tý)
Tiền khai được bổ đi làm chủ quận Châu Thành (tỉnh Cần
Thơ), nhưng lại được chuyển qua Tòa Bố, như vậy thời gian làm việc tại tỉnh Cần
Thơ tổng cộng khoảng hai tháng,([7]) sau
đó được đổi đi làm chủ quận Hòn Chông (tỉnh Hà Tiên).([8])
Dân địa phương phần đông là người gốc Miên (Khmer) và Hoa kiều, còn người Việt thì
thưa thớt. Dân chúng hầu hết nghèo nàn, cơ cực, thất học. Tiền khai chỉ dẫn
cách nung đá làm vôi, giúp họ kế sinh nhai. Tiền khai cho cất chợ, nhà thương,
trường học, đào kinh dẫn nước vào các ruộng, đặc biệt là đào con kinh chạy từ
quận Hòn Chông tới Rạch Giá. Tiền khai giúp vốn và chỉ dẫn dân chúng khai khẩn
đất hoang, đất rừng thành đồng ruộng. Chẳng những không tìm cách chiếm hữu các
thửa đất mới được khai khẩn, tiền khai còn từ khước việc chánh phủ thuộc địa
muốn tưởng thưởng công lao bằng cách cấp một sở đất để tiền khai đứng tên làm
chủ. Trong mấy năm làm việc ở quận Hòn Chông,([9]) tiền
khai có tu theo đạo Minh Sư,([10]) ăn chay và tịnh
luyện.
1924-1927 (Giáp
Tý – Đinh Mão)
Tiền khai Nguyễn Ngọc Tương làm chủ quận Cần Giuộc, tỉnh
Chợ Lớn.([11])
Thời gian này tiền khai được thăng ngạch tri phủ.([12])
THỨ HAI 01-02-1926
(19-12 Ất Sửu)
Các tiền khai Lê Văn Trung (1876-1934), Cao Quỳnh Cư
(1888-1929), và Phạm Công Tắc (1890-1959) xin Đức Cao Đài đi Cần Giuộc độ tiền
khai Nguyễn Ngọc Tương lúc ấy đang làm chủ quận Cần Giuộc.
Tiền khai Nguyễn Ngọc Tương nhập môn Cao Đài tại quận Cần
Giuộc. Tại quận này, sau một ngày làm việc đời, mỗi tối tiền khai lại tận tụy
đi các nơi để khai đàn thượng tượng hoặc giảng đạo. Thường khi phải đi đến
sáng, bất kể gió mưa ướt át, đường sá lầy lội. Số người nhập môn tăng lên rất
nhanh, không chỉ trong quận Cần Giuộc mà còn ở mấy quận lân cận.
Trong buổi đầu mở đạo Cao Đài, việc phổ độ ở Cần Giuộc rất
thuận lợi. Ngày nay Cần Giuộc có rất nhiều thánh thất. Một số thánh thất do
tiền khai thành lập như: Mỹ Lộc, Tân Chánh, Tân Kim, Tân Quí Tây, v.v...
THỨ
BẢY 27-02-1926 (15-01 Bính Dần)
Trong đàn cơ tại nhà tiền khai Nguyễn Ngọc
Tương (dinh quận Cần Giuộc), Đức Cao Đài dạy:
Tương! Từ
đây con trấn nhậm nơi nào thì là hồng phúc của nơi ấy. Con nghe:
Con trị ai Thầy cũng trị ai
Một lòng đạo đức chớ đơn sai ([13])
Năm năm công quả ([14]) tua ([15]) bền chí
Chỉ dẫn nhơn sanh bước lạc loài.([16])
THỨ
NĂM 04-3-1926 (20-01 Bính Dần)
Tuân lệnh Đức Cao Đài, tiền khai Nguyễn Ngọc Tương (đang làm chủ
quận Cần Giuộc) và một số tiền khai khác cùng đến Vĩnh Nguyên Tự (làng Long An,
quận Cần Giuộc, tỉnh Chợ Lớn) xin phép lập đàn cơ.
Đức Thái Lão Sư Lê Đạo Long (khi xưa sáng lập chùa Vĩnh Nguyên)([17]) giáng
cơ, dạy rằng ngài đã đắc quả vị Như Ý Đạo Thoàn Chơn Nhơn và khuyên các môn đồ
cùng thân quyến quy hiệp đạo Cao Đài. Nhục tử của ngài là tiền khai Lê Văn Lịch
(1890-1947) vâng lời. Sau đó tiền khai Lê Văn Trung tuân lịnh Đức Cao Đài đến
làm lễ khai đàn thượng tượng cho tiền khai Lê Văn Lịch vào Thứ Bảy 10-4-1926
(28-02 Bính Dần).
THỨ
BẢY 26-6-1926 (17-5 Bính Dần)
Tiền khai Nguyễn Ngọc Tương thọ Thiên phong
Phối Sư phái Thượng, thánh danh là Thượng Tương Thanh.
THỨ TƯ
29-9-1926 (23-8 Bính Dần)
Trong buổi họp khai Đạo tại nhà tiền khai
Nguyễn Văn Tường (1887-1939) ở Sài Gòn, có hai trăm bốn mươi lăm vị hiện diện.
Trong danh sách ký tên, ở trang 9, tiền khai Nguyễn Ngọc Tương là vị có số thứ tự 158 (xem tr. 140).([18])
Trên tờ Khai Đạo ghi ngày 07-10-1926 (01-9 Bính
Dần) do tiền khai Lê Văn Trung gởi Quyền Thống Đốc Nam Kỳ Le Fol,([19]) trong danh sách
hai mươi tám môn đệ do Đức Cao Đài chọn đưa vào, vị đứng thứ năm là tiền khai
Nguyễn Ngọc Tương (Tri Phủ, chủ quận Cần Giuộc).([20])
THỨ TƯ
13-10-1926 (07-9 Bính Dần)
Đức Cao Đài dạy: “Các con tức cấp lo phổ độ ... Thầy
dặn các con phải phân nhau mà đi cho khắp.”
Sau đó các
tiền khai tiến hành phổ độ Lục Tỉnh, chia làm ba nhóm. Tiền khai Nguyễn Ngọc
Tương thuộc nhóm thứ nhì (cùng
với các tiền khai: Lê Văn Lịch, Yết Ma Nguyễn Văn Luật, v.v...), phụ
trách các tỉnh: Bến Tre, Chợ Lớn, Gò Công, Mỹ Tho, Tân An. Phò loan của nhóm là
hai tiền khai Nguyễn Trung Hậu (1892-1961) và Trương Hữu Đức (1890-1976).([21])
THỨ BA
16-11-1926 (12-10 Bính Dần)
Tiền khai Nguyễn Ngọc Tương được Đức Chí Tôn
phong phẩm Chánh Phối Sư phái Thượng, cùng một đợt với Chánh Phối Sư Ngọc Trang
Thanh (Lê Bá Trang, 1878-1936), và Chánh Phối Sư Thái Thơ Thanh (Nguyễn Ngọc
Thơ, 1873-1950).([22])
1927-1930 (Đinh
Mão – Canh Ngọ)
Tiền khai Nguyễn Ngọc Tương làm chủ quận Xuyên
Mộc (tỉnh Bà Rịa). Quận này hẻo lánh, gần rừng núi, cạnh bờ biển, hầu như còn
hoang sơ. Người Kinh chiếm khoảng phân nửa dân số, còn lại là người dân tộc.([23])
Tiền khai cho mở trường học, lập chợ để cải
thiện đời sống dân chúng, mở đường giao thông, đặc biệt là con lộ từ Long Hải
đi Nước Ngọt. Xin phép chánh phủ thuộc địa cho dân khẩn rừng khai hoang lấy đất
canh tác.
Tại
Xuyên Mộc, tiền khai mở được các thánh thất như: Hội Mỹ, Long Tân, Xuyên Mộc,
v.v…
Đầu năm 1927
Thọ
lệnh của Đức Lý Giáo Tông tại Từ Lâm Tự (tức Thiền Lâm Tự, thường gọi chùa Gò
Kén, làng Long Thành, tỉnh Tây Ninh), Thượng Chánh Phối Sư Nguyễn Ngọc Tương
cùng Nữ Chánh Phối Sư Hương Thanh (Lâm Ngọc Thanh, 1874-1937) thay mặt Hội
Thánh Tây Ninh đứng tên làm chủ đất đai, tài sản mới mua của Đạo.
THỨ BẢY 11-6-1927 (12-5
Đinh Mão)
Đền
Thánh Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ khởi công xây dựng tại làng Long Thành (tỉnh Tây
Ninh).
THỨ BẢY 22-11-1930 (03-10 Canh Ngọ)
Tại
Tòa Thánh Tây Ninh, Đức Lý Giáo Tông (vô vi) và Phạm Hộ Pháp ra Đạo Nghị Định Thứ Nhì (năm điều khoản):
Điều Thứ
Nhứt: Ban quyền hành cho Thượng Đầu Sư [Lê Văn Trung] thay mặt cho Lão mà thi hành các phận sự Giáo Tông về phần xác, còn
phần thiêng liêng có Lão.
Điều Thứ
Nhì: Chức sắc Cửu Trùng Đài, duy bậc Chánh Phối Sư phải tùng
quyền mà hành chánh về phần chánh trị của Đạo, song đặng thế mặt cho Đầu Sư,
đương buổi người cầm quyền Giáo Tông của Lão.
Điều Thứ
Ba: Mọi việc chi thuộc về quyền chánh trị đều giao cho
Chánh Phối Sư.
Điều Thứ
Tư: Chánh Phối Sư đặng trọn quyền thông công cùng chánh phủ
và nhơn sanh, nhưng buộc phải có hội viên nhơn sanh và Hội Thánh chăm nom cơ
hành động.
Điều Thứ
Năm: Nghị Định nầy sẽ ban hành ngày rằm tháng 10 năm Canh
Ngọ [Thứ Năm 04-12-1930].([24])
Ghi chú: Điều 1 của Đạo
Nghị Định Thứ Nhì được diễn giải là Thượng Đầu Sư Lê Văn Trung
được thăng lên “Quyền Giáo Tông (hữu
hình)”.([25]) Điều 2 được diễn giải là ba vị Ngọc
Chánh Phối Sư Lê Bá Trang, Thượng Chánh Phối Sư Nguyễn Ngọc Tương,([26]) và
Thái Chánh Phối Sư Nguyễn Ngọc Thơ (1873-1950) cùng được thăng lên “Quyền Đầu Sư”.([27])
THỨ HAI 02-02-1931
(15-12 Canh Ngọ)
Tại
Tòa Thánh Tây Ninh, Thượng Chánh Phối Sư Nguyễn Ngọc Tương ra Châu Tri số 1, nội dung như sau:
CHÂU TRI
Cho chư chức sắc và chủ thánh
thất.
Mới vào lãnh việc, tôi gởi lời chào chư
hiền hữu, và cầu xin chư hiền hữu vui lòng giúp tôi làm cho tròn phận sự. Một
ngày gần đây, tôi sẽ đến viếng các thánh thất vă thăm chư đạo hữu, tôi sẽ có
dịp mà bàn luận với chư hiền hữu việc đạo nơi đó.
Hiện nay có một ít việc cần tỏ dưới đây,
xin cậy chư hiền hữu sốt sắng lo giùm:
1. Theo Đạo Nghị Định số 3 của Đức Giáo
Tông truyền: Chánh Trị Sự làm đầu một làng, Phó Trị Sự và Thông Sự làm đầu một
xóm. Muốn thi hành bổn đạo truyền nầy, tôi xin nhờ chư hiền hữu xét lại, làng
nào còn thiếu Chánh Trị Sự, hãy dạy đạo hữu làng ấy công cử lên một người; làng
nào đã cử lỡ dư số thì để y, sau có ai quy trước, không cử thế, để đủ số một mà
thôi. Còn làng nào có ít đạo hữu, từ ba mươi sắp xuống thì được hiệp với đạo
hữu làng kế cận mà cử một Chánh Trị Sự. Mấy khi hội tín đồ mà công cử, thì chư
hiền hữu hãy chịu nhọc mà làm đầu hội, hoặc phái một Giáo Hữu hay Lễ Sanh thay
mặt đến tại chỗ mà thị chứng. Tờ vi bằng công cử đều phải làm hai bổn: một bổn
gởi về Tòa Thánh; một bổn để tại thánh thất.
2. Tôi xin chư hiền hữu nhóm Lễ Sanh,
Chánh Phó Trị Sự và Thông Sự trong hội mình mà lập cho mỗi người một Tờ Công
Hạnh y như kiểu tôi gởi theo đây, trả lời cho rõ ràng và cho đúng hẳn sự thật
theo mấy câu hỏi trong kiểu ấy. Mấy người có mặt đồng ký tên chứng vào.
3. Mỗi năm hai kỳ (rằm tháng Giêng và rằm
tháng 7), mấy người được đem vào bộ phái nhơn sanh sẽ nhóm nơi thánh thất sở
tại, có chư hiền hữu tọa chủ mà bàn tính các việc đạo nơi đó. Đạo nơi nào sẽ
được thạnh hành là nhờ Hội Ngánh nhơn sanh nơi ấy cần chuyên sửa đặt theo vẻ
đạo đức.
4. Kỳ nhóm 15 tháng 7 mỗi năm, Hội Ngánh
nhơn sanh công cử người thay mặt về Tòa Thánh mà nhóm đại hội trong kỳ rằm
tháng 10 mà bàn tính chung hết thảy việc đạo.
Người thay mặt nầy sẽ chọn trong hàng
Chánh, Phó Trị Sự, Thông Sự hay là trong hàng tín đồ cũng được, miễn là người
có đạo đức, trí thức thì tốt. Mỗi họ cử từ một đến năm người thay mặt là nhiều,
tùy số tín đồ nhiều ít.
Định như vầy:
Họ có từ 500 đạo hữu sắp xuống, cử một
phái viên.
Họ có từ 501 đạo hữu tới 1.500 đạo hữu, cử
hai phái viên.
Họ có từ 1.501 đạo hữu tới 2.500 đạo hữu,
cử ba phái viên.
Họ có từ 2.501 đạo
hữu tới 3.500 đạo hữu, cử bốn phái viên.
Họ có từ 3.501 đạo hữu sắp lên cử năm phái
viên.
Năm nay mới khỏi sự sắp đặt nên kỳ nhóm 15
tháng Giêng, Hội Ngánh mỗi thánh thất hãy cử người thay mặt đặng sẽ có nhóm đại
hội ngoại lệ nơi Tòa Thánh mà lập Hội Nhơn Sanh cho hoàn toàn. Người được cử
thay mặt một năm, song đặng tái cử hoài. Người được cử lần đầu nầy thay mặt tới
ngày 15 tháng 7 năm Nhâm Thân.
Nhờ chư hiền hữu ân cần giúp thi hành liền
Châu Tri nầy. Tôi rất cám ơn.
Tòa Thánh, ngày 2-2-1931
Chánh
Thượng Phối Sư
Thượng
Tương Thanh.([28])
THỨ TƯ
25-02-1931 (09-01 Tân Mùi)
Tại Tòa Thánh Tây Ninh,
Đức Chí Tôn dạy tiền khai Thượng Tương
Thanh:
“Tương! Thầy đã có dặn con từ trước mà ngần
ngại nỗi gì? (...) Con đã rõ thấu chơn lý đạo Thầy, con lại
sợ chi mà không từ quan hành đạo, con?” ([29])
THỨ BẢY 09-5-1931 (22-3
Tân Mùi)
Tiền
khai Nguyễn Ngọc Tương nghỉ việc đời, về Tòa Thánh Tây Ninh hành đạo.([30]) Hội
Thánh cất cho tiền khai một ngôi nhà bằng cây lợp tranh, có gác, gần mặt đường
(Bình Dương đạo).
Tiền khai Nguyễn Ngọc Tương tự nguyện làm hai
văn bản giao cho Hội Thánh giữ làm bằng chứng.
Trong văn bản thứ nhất, tiền khai minh xác rằng
thửa đất cất Tòa Thánh tại Tây Ninh do tiền bổn đạo mua, Thượng Chánh Phối Sư
Nguyễn Ngọc Tương và Nữ Chánh Phối Sư Hương Thanh chỉ ghi tên đứng bộ ([31]) thay mặt Hội
Thánh.
Trong văn bản thứ hai, tiền khai minh xác rằng
kể từ ngày 09-5-1931 là ngày tiền khai xuất gia, thì họ tên của tiền khai không
còn dùng để làm sở hữu chủ tài sản tư riêng nào nữa. Từ ngày này về sau, bất kỳ
tài sản chi mang tên Nguyễn Ngọc Tương thì đều là tài sản của Hội Thánh Đại Đạo
Tam Kỳ Phổ Độ.
Hai văn bản này có chánh quyền làng Long Thành
thị thực, và có công chứng tại Tòa Bố tỉnh Tây Ninh.
THỨ BẢY 04-7-1931 (19-5
Tân Mùi)
1. Tại Tây Ninh, Quyền Giáo Tông Lê Văn Trung
gởi Thống Đốc Nam Kỳ Jean-Félix Krautheimer (1874-1943) văn thư số 202, thông báo đã giao Thượng Chánh
Phối Sư Nguyễn Ngọc Tương cầm giềng mối đạo (trích):
“J’ai l’honneur de vous faire connaître qu’à
partir de ce jour M. NGUYỄN NGỌC TƯƠNG est chargé de la direction du Caodaïsme (...). M. NGUYỄN NGỌC TƯƠNG est chargé d’entretenir
des relations avec le Gouvernement en ce qui concerne le Caodaïsme (...).”
Dịch:
Tôi hân hạnh cho Ngài hay kể từ nay ông NGUYỄN
NGỌC TƯƠNG được ủy thác nhiệm vụ cầm giềng mối đạo Cao Đài (...). Ông NGUYỄN NGỌC TƯƠNG chịu trách nhiệm giao
thiệp với chánh phủ về mọi vấn đề của đạo Cao Đài.([32])
2. Tại Tòa Thánh Tây Ninh, Quyền Giáo Tông
Lê Văn Trung ra Châu Tri số 19 thông
báo việc Thượng Chánh Phối Sư Nguyễn Ngọc Tương đã từ quan, phế đời hành đạo.
Trích Châu Tri số 19:
“Trong nền Đại Đạo, ai ai cũng có nghe ông
Thượng Chánh Phối Sư Thượng Tương Thanh, nay đã phế đời hành đạo.
Bấy
lâu, tôi hằng trông mong chư Thiên phong có trách nhậm trọng về Tòa Thánh lo
đạo y như Thầy dạy hồi ban sơ.
Nay ba
Chánh Phối Sư ba phái đã về đủ ở Tòa Thánh và cũng có một Phối Sư, mấy vị Giáo
Hữu phế đời về Tòa Thánh hiến thân cho Đạo. Vậy thể đạo đã thành.
Chiếu
y theo lời của Đấng Chí Tôn dạy tôi hồi ban sơ, chiếu y Pháp Chánh Truyền,
chiếu y Đạo Nghị Định [thứ
nhì, ngày 22-11-1930] của Đức Giáo Tông, tôi đã giao việc hành
chánh cho ba Chánh Phối Sư y theo thơ của tôi gởi cho ba ông đề ngày 22-6-1931
(07-5 Tân Mùi), tôi sao lục gởi luôn theo đây.
Từ
đây, chư hiền hữu phải tùng quyền ba Chánh Phối Sư mà hành sự.” ([33])
THỨ BA
01-9-1931 (19-7 Tân Mùi)
Ngài Nguyễn Ngọc Tương gởi Thống Đốc Nam Kỳ Jean-Félix
Krautheimer văn thư số 284 thông
báo kể từ ngày 31-8-1931, tiền khai chánh thức nhận trách nhiệm cầm giềng mối
đạo ở Nam Kỳ. (Thuở ấy đạo Cao Đài chưa truyền ra Trung Kỳ và Bắc Kỳ. Số tín đồ
lúc ấy được hơn ba trăm ngàn người; có sáu mươi hai thánh thất và bốn mươi ba
thánh thất tạm.) Văn thư này có ngài Lê Văn Trung và ngài Lê Bá Trang cùng ký
tên chuẩn y (approuvé).([34])
Trích văn thư số 284:
“J’ai
l’honneur de vous faire connaître qu’en obéissant aux instructions divines, je
prends effectivement aujourd’hui la direction du Caodaïsme (...) en Cochinchine.
(...)
Avec l’aide du Très-Haut, je m’efforcerai de
réagir de telle façon à pouvoir bien mériter la complète confiance du
Gouvernement et à étaler devant le monde la vraie figure du Caodaïsme (...).
Le jour où les Annamites, du Nord au Sud, le pratiqueront
avec toute la liberté d’un culte national, le Gouvernement n’aura plus aucun
souci de troubles ou de désordres quelconques, car tout vrai Caodaïste est
sincèrement respectueux de l’autorité et amoureux de la paix.”
Dịch:
Tôi
hân hạnh cho ngài hay, vâng theo các thánh giáo, kể từ nay tôi chánh thức cầm
giềng mối đạo Cao Đài ở Nam Kỳ.
(...)
Với sự
ủng hộ của Đấng Tối Cao, tôi sẽ cố gắng hành động chỉnh đốn lại như thế nào cho
được xứng đáng với sự tín nhiệm hoàn toàn của Chánh Phủ, và phô bày trước mọi
người chân tướng của đạo Cao Đài (...).
Ngày
nào mà người Việt Nam, từ Bắc chí Nam, được giữ đạo Cao Đài với trọn quyền tự
do của một Quốc Đạo, chánh phủ sẽ không còn một sự lo ngại nào về biến động hay
loạn lạc nữa, vì người tín đồ Cao Đài chơn chánh rất thật tâm kính trọng chánh
quyền và yêu chuộng hòa bình.([35])
HUỆ kHẢI
(Còn tiếp)
([1]) Các vị tiền khai là
những tông đồ Cao Đài đầu tiên, có công giúp Đức Chí Tôn khai Đạo tại Nam Kỳ
vào năm 1926.
([4]) Phủ
Thượng Thơ cũng gọi là Dinh Thượng Thơ (Direction
de l’Intérieur) hay Dinh Hiệp Lý, thay cho tên gọi Dinh Đổng Lý Nội Vụ (Direction de l’Intérieur), trụ sở cất
xong năm 1864. Từ năm 1946 gọi là Dinh Thủ Hiến Nam Việt, rồi trở thành Tòa Đại
Biểu Nam Phần, sau đó là Bộ Kinh Tế Việt Nam Cộng Hòa với mặt tiền hướng ra
đường Gia Long, tọa lạc ở góc đường Tự Do (nay là Đồng Khởi) và Gia Long (nay
là Lý Tự Trọng).
([6]) Những năm trước 1925, trường cao đẳng dạy luật
và hành chánh ở Hà Nội (école supérieure
de droit et d’administration) chưa đào tạo và cung cấp đủ người dùng, thì
ngạch tri huyện cũng được tuyển chọn trong hàng thơ ký lâu năm, nhưng buộc họ
phải qua hai kỳ thi gay go: (a) examen de
culture générale, khảo về học lực phổ thông; (b) concours professionnel, khảo về chuyên nghiệp và khả năng. Ngạch
tri huyện có hai bậc: Hạng nhì (huyện de 2e classe), và cao hơn là hạng nhất (huyện de
1er classe). Năm 1920, mức lương tri huyện hạng nhất khoảng 1.222 đồng.
(Huệ Khải, Ngô Văn Chiêu – Người Môn Đệ Cao Đài Đầu Tiên. Hà Nội: Nxb Tôn Giáo, 2012, tr. 10.)
([7]) Theo Thanh Minh
và Phạm Khoa: Tính theo lịnh thuyên chuyển của Thống Đốc Nam Kỳ ngày 30-5-1920
và 05-7-1920 đăng trên báo Lục Tỉnh Tân
Văn ngày 07-6-1920 và 09-7-1920. (Xem minh họa, tr. 14.)
([8]) Do nghị
định ngày 15-02-1898, chủ quận được tuyển trong số viên chức hành chánh người
Việt đã có ngạch huyện, phủ, đốc phủ sứ. Chủ
tỉnh vẫn là người Pháp. (Xem Phụ Lục, phần
III, mục 3.)
([10]) Tổ sư đời thứ mười lăm của đạo Minh Sư là Đông Sơ đưa đạo Minh Sư từ Trung Quốc truyền sang Xiêm (Thái Lan) rồi qua
Việt Nam năm 1863 (đời vua Tự Đức). Trước tiên, tổ sư Đông Sơ lập Quảng Tế Phật Đường tại tỉnh Hà Tiên.
([11]) Đổi về
quận Cần Giuộc không lâu, tiền khai xử vụ kiện như sau: Lấy chồng được sáu
tháng, cô vợ bỏ về nhà cha mẹ; bên chồng đệ đơn kiện lên quận. Tại công đường,
cô vợ giãi bày rằng trong nửa năm ở nhà chồng, cô chỉ làm dâu chứ không hề được
làm vợ. Người chồng thú thật đã vay số tiền lớn lo cưới vợ, nên sau đám cưới
phải đi ở đợ để trả cho tới khi nào dứt vốn lẫn lời, vợ chồng mới cưới vì thế
đành phân ly. Chủ nợ xác nhận sự việc như vậy. Đau lòng trước cảnh khổ của vợ
chồng son, tiền khai lấy tiền riêng trả nợ thay cho họ.
([12]) Cũng
như ngạch tri huyện, ngạch tri phủ có hai hạng. Người có ngạch tri huyện hạng
nhất, nếu đủ thâm niên sẽ được thăng lên ngạch tri phủ hạng nhì (phủ de 2e classe), mức lương năm 1924 khoảng
1.672 đồng. Cao hơn là ngạch tri phủ hạng nhất (phủ de 1er classe), mức lương năm 1926 khoảng 1.933 đồng. Cao hơn ngạch
tri phủ là đốc phủ sứ, thường gọi tắt là đốc phủ. (Huệ Khải, Ngô Văn Chiêu – Người Môn Đệ Cao Đài Đầu Tiên, tr. 11-12.)
([14]) Năm năm công quả: Tính từ lúc tiền khai
nhập môn Cao Đài (1926) tới khi từ quan về Tòa Thánh Tây Ninh hành đạo (1931).
([17]) Đức Thái Lão Sư
Lê Đạo Long, thế danh Lê Văn Tiểng (1843-1913), khai sáng Vĩnh Nguyên Tự năm
1908 (Mậu Thân). Xem minh họa, tr. 20.
([18]) Huệ Khải, Lược
Sử Đạo Cao Đài: Thời Tiềm Ẩn 1920-1926 / A Concise Caodai History: The Earliest
Beginnings 1920-1926. Hà Nội: Nxb Hồng Đức, 2017, 2023. Phụ bản 13-09.
([19]) Ngày
09-4-1926 Aristide Eugène le Fol, ngạch tham biện hạng nhất (administrateur de 1er classe), được bổ
làm quyền thống đốc Nam Kỳ, nhậm chức ngày 19-4-1926. Như vậy các sách sử Cao Đài hay chép
Le Fol là thống đốc thì không đúng.
Ông chỉ là quyền thống đốc, đảm nhiệm chức vụ trong khoảng hơn nửa năm trong
lúc chờ một thống đốc chánh thức từ Pháp bổ sang. Trong cách xưng hô (như trên
Tờ Khai Đạo ngày 07-10-1926), mọi người vẫn gọi ông là thống đốc vì phép lịch sự.
([21]) Nguyễn Trung
Hậu, Đại Đạo Căn Nguyên. Sài Gòn:
1930, tr. 49. (Về nguồn gốc tên gọi Lục Tỉnh, xem Phụ Lục, phần I.)
([22]) Châu Tri
Chỉnh Đạo 1934-1936 có cách viết “Thượng Chưởng Pháp Lê Bá Trang” (tr.
19) thì gọn hơn là “Chưởng Pháp Thượng
Trang Thanh (Lê Bá Trang)”. Sau đây cũng sẽ noi theo cách đó khi cần ghi thế
danh kèm với thánh danh và phẩm vị.
([23]) Thời
Pháp thuộc, người dân tộc bị gọi là mọi, về
sau gọi là đồng bào thiểu số, rồi gọi
là dân tộc ít người.
([26]) Trong Châu Tri
Chỉnh Đạo 1934-1936, Châu Tri số 3 (tr. 1) ghi là “Chánh Phối Sư quyền Đầu Sư Thượng Tương Thanh
gởi cho chư chức sắc, chức việc và đạo hữu nam nữ.” Châu Tri số 4 (tr. 2) khi nhắc tới hai vị Nguyễn Ngọc Tương và Lê Bá Trang
thì ghi là “Thượng và Ngọc Chánh Phối Sư
Quyền Đầu Sư”.
([27]) Trong Danh Nhân Đại Đạo (bản thảo), Nguyễn Văn
Hồng viết rằng tiền khai Nguyễn Ngọc Thơ được thăng lên Quyền Thái Đầu Sư vào
Chủ Nhật 12-3-1933 (17-2 Quý Dậu). Nhưng trong Đạo Sử Nhựt Ký (bản
thảo), riêng về những năm 1933-1935, không thấy ông Hồng sưu tập văn kiện nào
ghi ngày 12-3-1933.
([30]) Trong vi bằng
(biên bản) cuộc nhóm chức sắc, chức việc nhân lễ Đức Quan Thánh Đế Quân ngày
Thứ Tư 12-6-1935 (12-05 Ất Hợi), Thượng Chưởng Pháp Lê Bá Trang nhắc lại: “Vưng lời Thầy dạy[,] ông Thượng
Tương Thanh liền gởi đơn xin từ chức quan; được nhà nước cho nghỉ rồi, ông
Thượng Tương Thanh về thẳng nơi Tòa Thánh Tây Ninh ngày 9 Mai 1931.” (Châu Tri Chỉnh Đạo
1934-1936, tr. 51.)
([31]) Đứng bộ: Bộ (hay bạ, nói tắt từ địa bạ 地簿) là sổ sách ghi chép về ranh giới ruộng đất ở các làng,
xã trong từng tỉnh. Đứng bộ là ghi họ
tên người làm chủ ruộng đất trong sổ sách do làng, xã lập.