10. KINH ĂN
1. Cúi cầu Đức Chí Tôn,
chúng con hứa cùng Đức Chí Tôn chúng con chẳng hề phạm tội lỗi, song le bởi khờ
dại, yếu đuối còn năng sai phạm dường ấy.
2. Cúi lạy Đức Chí Tôn
lấy lòng khoan dung ân xá tội lỗi chúng con. Cúi lạy Đức Chí Tôn, xin đoái xem
thương xót chúng con rối rắm đau đớn, thật vì tội lỗi chúng con làm trái lòng
Đức Chí Tôn, hơn là bối rối đau đớn vì những phần phạt chúng con đã đáng chịu.
3. Cúi cầu Đức Chí Tôn
ghé mắt lại thương lấy chúng con lo buồn sầu não, chúng con đã phạm tội lỗi
cùng Đức Chí Tôn, Đức Chí Tôn lòng lành đáng yêu chuộng vô cùng.
4. Cúi lạy Đức Chí Tôn
lấy lòng thiện từ tha hết mọi sự dữ chúng con đã biết, và tội lỗi kẻ khác làm
bởi tại chúng con, vì những sự lành chúng con phải làm mà chúng con chẳng làm,
hay là làm chẳng nên.
5. Cúi cầu Đức Chí Tôn
thiện từ xá tội chúng con đã làm cùng các tội lỗi hoặc chúng con đã phạm mà
chẳng biết, chúng con chẳng ưa những tội lỗi ấy.
6. Chúng con xưng thật
trước Thiên Bàn, chúng con ước ao phải chi chúng con đặng đổ máu mình ra mà sửa
hết mọi tội lỗi của chúng con.
7. Dầu sự gì yêu chuộng
ở đời này, thì chúng con cũng chẳng tiếc, phải chi chúng con phú dưng hết mọi
sự ấy mà bồi lại sự chúng con đã phạm tội cùng Đức Chí Tôn, phải chi chúng con
đặng đau đớn thảm thiết cho đáng bực tội lỗi chúng con làm.
8. Cúi cầu Đức Chí Tôn
ân xá độ dẫn chúng con, chúng con từ đây sửa lỗi ăn năn, nguyện theo Đức Chí
Tôn cho đến ngày cùng.
(Lạy 3 lạy không gật)
GIẢI NGHĨA
Đoạn 1:
song le: Nhưng; nhưng mà.
năng: Thường; hay; luôn; nhiều lần. Thí dụ: năng làm (hay làm; siêng làm); năng
đi (đi nhiều; hay đi; siêng đi); năng
học (siêng học; học nhiều; chăm học); năng
nhặt chặt bị (siêng năng làm việc, tích góp dần dần thì lâu ngày sẽ được nhiều).
dường ấy: Như thế ấy.
Đoạn 2:
khoan dung 寬容: Rộng lượng tha thứ.
ân xá 恩赦: Ban ơn mà tha tội.
đoái xem: Đoái nhìn; đoái trông; ngoảnh lại nhìn.
đáng chịu: Xứng đáng chịu phạt, không hề oan uổng.
Đoạn 3:
ghé mắt lại: Để mắt nhìn tới.
Đoạn 4:
thiện từ 善慈: Tốt lành và
thương yêu.
Đoạn 5:
chẳng ưa: Chẳng thích; chẳng ưng chịu; chẳng muốn. (Chữ “chẳng” nghĩa mạnh hơn “không”; tỏ ý cương
quyết.)
Đoạn 6:
xưng thật: Thành thật xưng tội, không giấu giếm.
Đoạn 7:
phú dưng: Dâng nộp; dâng lên để giao nộp.
bồi lại: Đền bồi lại.
đáng bực: Xứng đáng với mức độ.
Đoạn 8:
độ dẫn 度引: Cứu độ và dẫn
dắt.
ngày cùng: Ngày cùng cuối; ngày cuối đời; ngày chết.
TỔNG LUẬN
1. Kinh
Ăn Năn Tội có thể xem cũng là kinh sám hối bằng văn xuôi bởi vì ăn năn (hay
hối hận, hối tiếc) là cảm thấy day dứt, giày vò trong
lòng về lỗi lầm đã mắc phải và muốn sửa đổi, có ý hứa với lòng mình sau này sẽ
không tái phạm nữa. Bởi vậy, Đức Ngô Minh Chiêu dạy: “Mà sám hối [là] nguyện chừa bỏ những tội xưa, từ nay về sau không còn vấp phạm nữa thì
sự sám hối mới có kết quả.” ([2])
2. Hầu như tôn giáo nào cũng có nghi thức
ăn năn, sám hối (hay xưng tội) để được tha thứ. Trong NĐCT 2022 có Kinh Sám Hối gồm 444 câu song thất lục bát,([3]) và thêm Bài Khen Ngợi Kinh Sám Hối, gồm 14 câu lục bát do Ðức Ðông Phương Lão Tổ giáng cơ ban trao.
Ngoài ra, trong KNT 2016 còn có bài Kinh Sám Hối (ngắn, 16 câu song thất lục
bát) do Đức Ngọc Quế Tiên ban cho tại Kiên Giang. Điều này cho thấy sám hối vô
cùng quan trọng và rất cần thiết cho người tu. Đức Ngô Minh Chiêu dạy: “Sám hối là một pháp môn chuộc tội. Mọi
người đều phải luôn luôn sám hối.” ([4])
3. Thời Nhị Kỳ Phổ Độ, Đức Phật Thích Ca dạy chúng sanh hãy biết thú tội
để được tha thứ. Để diễn tả ý “thú tội”
(xưng tội), kinh Phật nói là “bất đương
phúc tàng” 不 當 覆 藏 (không nên che giấu). Thật vậy, Kinh Đức Phật Dạy Xá Lợi Phất Về Sám Hối
chép lời Đức Phật Thích Ca dạy vị đại đệ tử là Xá Lợi Phất sự cần thiết phải thú
tội và sám hối như sau: “Nếu có trai
lành, gái lành nào không muốn sa vào địa ngục, súc sanh, ngạ quỷ thì họ cần phải
sám hối lỗi lầm, không nên che giấu.” ([5])
4.
Tín hữu đạo Chúa rất coi trọng nghi thức “xưng
tội” (tức là
thú tội). Trong Thư
Thứ Nhứt (chương 1, câu 9), Thánh Gio-an viết: “Nếu chúng ta thú
nhận tội lỗi, Thiên Chúa là Đấng trung thành và công chính sẽ tha tội cho chúng
ta, và sẽ thanh tẩy chúng ta sạch mọi điều bất chính.”
Theo lời thư Thánh Gio-an dẫn trên, suy ra, một người có tội nếu biết thành
tâm xưng tội và sám hối trước Đức Chúa Trời (Thượng Đế) thì sau này người đó có
thể sẽ trở nên một vị Thánh, mặc dù trong quá khứ, cuộc đời người ấy trót đã phạm
phải nhiều tội lỗi đến thế nào chăng nữa.
Do ý nghĩa sâu sắc này, người phương Tây thường hay nhắc tới câu nói bất
hủ: “Mỗi Thánh Nhân đều có một quá khứ. Mỗi kẻ tội đồ đều có một tương lai.”
Còn người Á Đông quen nói: “Quay đầu là bờ.” (Hồi
đầu thị ngạn. 回頭是岸.)
Tất cả cùng một chủ đích là nhắc
nhở chúng sanh hãy biết thành tâm ăn năn, thường xuyên sám hối, bởi vì đã mang
kiếp người thì không một ai lại không mắc lỗi. Thật vậy, Đức Đông Phương Lão Tổ cảnh tỉnh mọi người: “Ở đời mạt kiếp này, là người thì không ai khỏi lỗi.
Nhích chơn, hả miệng đã gây nên tội lỗi rồi, cần gì phải hành động.” ([6])
Nhiêu Lộc, 13-11-2014
Huệ Khải
([1]) Bài này khi nào đọc kinh Tiểu hay là Đại Đàn thì khỏi niệm
danh hiệu. Khi nào dùng việc khác thì mới nguyện. (KNT 2016, tr. 13)
([3]) Kinh Sám Hối này
do các Đấng là Đức Alfred Aya, Đức Địa Tạng Vương Bồ Tát, Đức Đông Huê Đế Quân,
Đức Khổng Phu Tử, Đức Lữ Tổ, Đức Nam Cực Chưởng Giáo, Đức Nhiên Đăng Cổ Phật,
Đức Quan Âm Bồ Tát, Đức Quan Thánh Đế Quân, Đức Tề Thiên Đại Thánh, Đức Thái Ất
Thiên Tôn, Đức Thái Thượng Đạo Tổ, Đức Thập Điện Minh Vương, và Đức Vân Trung
Tử giáng cơ ban cho môn sanh Minh Lý Đạo từ năm 1925. Chư Tiền Khai Đại Đạo Tam
Kỳ Phổ Độ đã được Đức Chí Tôn dạy đến Minh Lý Đạo thỉnh Kinh Sám Hối cùng một
số kinh khác để tụng trong đạo Cao Đài.
([5]) Phật ngứ Xá Lợi Phất: “Nhược
hữu thiện nam tử, thiện nữ nhân, ý bất dục nhập nê lê, cầm thú, bệ lệ trung giả,
chư sở tác quá giai đương hối quá chi bất đương phúc tàng.” (Phật Thuyết Xá Lợi Phất Hối Quá Kinh) 佛 語 舍 利 弗 : 若 有 善 男 子 , 善 女 人 , 意 不 欲 入 泥 犁 禽 獸 薜 荔 中 者 , 諸 所 作 過 皆 當 悔 過 之 不 當 覆 藏 . (佛 說 舍 利 弗 悔 過 經) Ghi chú: 1/ Nê lê 泥 犁: Địa ngục. – 2/ Bệ lệ 薜 荔: Ngạ quỷ (quỷ đói).