Thứ Năm, 28 tháng 9, 2017

2/8 MỘT THOÁNG CAO ĐÀI


KHÁI NIỆM VỀ ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ
Vào giữa thập niên 1920 một nền đạo mới đã xuất hiện ở Việt Nam với danh xưng Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, gọi tắt là đạo Cao Đài.
Thuật ngữ Tam Kỳ ngụ ý chia lịch sử triết giáo của nhân loại ra ba thời kỳ lớn:
1. Nhứt Kỳ Phổ Độ kéo dài từ thời thượng cổ (tiền sử hay khuyết sử) cho tới khoảng giữa thế kỷ 7 trước Công Nguyên (TCN), tức khoảng năm 650 TCN.
Tại Trung Quốc, Kinh Dịch đã hình thành được nền tảng ban đầu. Tại Palestine, hình thành Do Thái Giáo (khoảng năm 1300 TCN). Tại Ấn Độ, đạo Bà La Môn xuất hiện. Đạo Cao Đài xem Bà La Môn Giáo thuộc về Phật Đạo trong thời Nhứt Kỳ Phổ Độ. Các vị Phật của thời kỳ này là Nhiên Đăng Cổ Phật, Brahma Phật, Shiva Phật, và Krishna Phật… Song hành với đạo Bà La Môn ở Ấn Độ thời cổ còn có một hệ tư tưởng khác và sau khi được canh tân đã trở thành Kỳ Na Giáo (Jainism) trong thời Nhị Kỳ Phổ Độ.
2. Nhị Kỳ Phổ Độ diễn ra từ khoảng giữa thế kỷ 7 TCN cho tới khoảng giữa thế kỷ 19 (khoảng năm 650 TCN tới khoảng năm 1850).
Tại Trung Quốc, hình thành Khổng Giáo và Lão Giáo (thế kỷ 6 TCN). Tại Palestine, Do Thái Giáo vẫn tiếp tục. Chúa Jesus Christ ra đời, và rồi Kitô Giáo hình thành. Tại Ấn Độ, đạo Bà La Môn vẫn tiếp tục. Thế kỷ 6 TCN Ấn Độ có thêm Thích Ca Giáo, và Kỳ Na Giáo (Jainism); sang thế kỷ 15, Xích Giáo (Sikhism) ra đời. Tại Ba Tư (Iran ngày nay), khoảng trước thế kỷ 6 TCN, Bái Hỏa Giáo (Ba Tư Giáo) xuất hiện. Triết học Hy Lạp ra đời vào thế kỷ 6 TCN và tiếp tục phát triển. Đạo Cao Đài xem Pythagore Giáo thuộc về Phật Đạo thời Nhị Kỳ Phổ Độ. Tại Ả Rập, vào thế kỷ 7, đạo Islam thành hình.
3. Tam Kỳ Phổ Độ khởi đầu khoảng giữa thế kỷ 19.
Trong hai kỳ trước, các nền tư tưởng triết giáo tiêu biểu nói trên còn bị giới hạn trong điều kiện không gian địa lý ngăn cách. Sang Kỳ Ba, thế giới ngày một gần lại, con người đã chinh phục được khoảng cách thiên nhiên. Phương tiện giao thông, truyền thông đa phương tiện và công nghệ thông tin ngày càng phát triển đã góp phần đưa các nền tư tưởng gần lại, và giúp con người khám phá ra sự tương đồng trong đa dạng. Kỳ Ba vì vậy có một đặc sắc riêng là xu thế dung hòa và tổng hợp tư tưởng Đông Tây kim cổ.
Ngoài sự thành lập đạo Cao Đài ở Việt Nam vào năm 1926, sau đây là một vài sự kiện nổi bật phản ánh xu thế nói trên của Tam Kỳ Phổ Độ:
Năm 1863, tại Iran (xưa là Ba Tư) đạo Baha’i ra đời, xác định rằng các tôn giáo trên thế giới đều có chỗ đại đồng vì cùng sinh ra từ một Đấng Thượng Đế duy nhất.
Năm 1875 Hội Thông Thiên Học (the Theosophical Society) thành lập ở thành phố New York (Hoa Kỳ). Năm 1879 trụ sở của Hội dời về thành phố Adyar (Ấn Độ). Nêu tiêu ngữ Không tôn giáo nào cao hơn chân lý, Thông Thiên Học đề cao chân lý đại đồng, và hướng con người thoát ra khỏi vỏ ốc tôn giáo để tới được Đại Đạo.
Năm 1893, Đại Hội Tôn Giáo Thế Giới (the World’s Parliament of Religions) được tổ chức lần đầu tại thành phố Chicago (bang Illinois, Hoa Kỳ). Sau đó, Đại Hội được tái tục nhiều lần: 1993 tại Chicago lần nữa; 1999 tại Cape Town (Nam Phi); 2004 tại Barcelona (Tây Ban Nha); 2009 tại Melbourne (Úc); 2015 tại thành phố Salt Lake (bang Utah, Hoa Kỳ)…
Năm 1955, Hội Nghị Các Nhà Tôn Giáo Thế Giới (The Conference of World Religionists) tổ chức tại Tokyo (Đông Kinh, thủ đô Nhật Bản). Hội Thánh Cao Đài Tây Ninh và Cơ Quan Truyền Giáo Cao Đài ở Đà Nẵng (sau này là Hội Thánh Truyền Giáo Cao Đài) đều cử chức sắc cấp cao tham dự. [Xem Phụ Bản 1.]



Công Đồng Vatican II (do Giáo Hoàng Gioan XXIII khai mạc (1962) và Giáo Hoàng Phaolô VI bế mạc (1965) đã mời gọi đối thoại liên tôn giữa Công Giáo và các tôn giáo khác trên thế giới.
Năm 1964, Giáo Hoàng Phaolô VI thiết lập một cơ quan phụ trách về các mối quan hệ với tín đồ thuộc các tôn giáo khác. Năm 1988, cơ quan này mang tên Hội Đồng Tòa Thánh Về Đối Thoại Liên Tôn (PCID: the Pontifical Council for Interreligious Dialogue).
Năm 1965, Giáo Hoàng Phaolô VI công bố Nostra Aetate (Trong Thời Đại Chúng Ta), còn được gọi là Tuyên Ngôn Về Những Quan Hệ Của Giáo Hội Với Các Tôn Giáo Không Phải Kitô Giáo (The Second Vatican Council’s Declaration on the Relations of the Church with Non-Christian Religions).
Năm 2014, Hội Nghị Các Tôn Giáo Thế Giới lần thứ ba mươi tư (the 34th World Religions Conference) tổ chức tại Canada với chủ đề “Con Đường Đưa Tới Hòa Bình” (the Pathway to Peace).
Trong rất nhiều sách đã xuất bản, đáng chú ý là quyển Các Tôn Giáo Hiện Tồn Trên Thế Giới (The World’s Living Religions. New York: Dell Pub., 1964) của Giáo Sư Archie J. Bahm (1907-1996). Theo Bahm (tr. 14), sống trong xã hội toàn cầu (cosmopolitan society) con người cần có tôn giáo khác hơn thời trước, phù hợp văn minh khoa học hiện đại của thế giới.
Nói khác đi, con người có yêu cầu hiện đại hóa tôn giáo. Bahm viết (tr. 14): “Các hình tướng, giáo lý và thiết chế đặc biệt mà qua đó các nhu cầu, và kinh nghiệm tu hành của một số người đã được phô diễn thì chúng có thể hóa ra lỗi thời, mà sự tiếp tục duy trì chúng thường trở nên có hại cho tín ngưỡng tôn giáo lành mạnh.”
Theo Bahm, một tôn giáo hiện đại hóa lý tưởng cũng là một “tôn giáo thế giới”. Giáo sư viết (tr. 353): “Tuy nhiên nhân loại đang thiếu một nền tôn giáo thế giới theo ý nghĩa rằng thực chất nền tôn giáo đó là nền đạo duy nhất và theo ý nghĩa rằng tôn giáo đó vượt lên hẳn các tôn giáo khác chỉ vì bản thân tôn giáo đó chứa đựng tinh hoa của tất cả các tôn giáo khác.” Giáo sư lại xác định (tr. 353): “Chúng ta chưa sẵn sàng để phát triển một ‘tôn giáo thế giới’ phối hợp tinh hoa tất cả các tôn giáo của nhân loại.”
Những phát biểu về một tôn giáo hiện đại và toàn cầu cho thấy loài người khao khát một nền đạo đại đồng vượt mọi biên cương, chủng tộc.
Trong thế kỷ 20, ở nhiều nước có nhiều hoạt động phục vụ lý tưởng ấy. Mỗi hoạt động như thế có thể xem là một mắt xích trong toàn chuỗi xích của phong trào tìm kiếm cho nhân loại một Đại Đạo. Các sự kiện rộng khắp thế giới (từ 1893 đến nay) như liệt kê ở trên là những bằng chứng hiển nhiên.
Riêng tại Việt Nam trong những năm 1920-1926, Đức Thượng Đế tá danh Cao Đài Tiên Ông đã lần lượt quy tụ những con người sứ mạng để xây đắp nền móng đầu tiên của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ (công cuộc phổ độ lần thứ ba của Đại Đạo), tức đạo Cao Đài nói tắt.
Thuật ngữ Đại Đạo hàm ngụ ý nghĩa vượt lên khỏi mọi hình thức tôn giáo cố hữu mà nhân loại đã quen thuộc. Nói cách khác, Đại Đạo là siêu tôn giáo (above and beyond religion).
Thuật ngữ Phổ Độ (Universalism) ngụ ý rằng đối tượng cứu rỗi là toàn thể chúng sanh.
Mặc dù Đại Đạo là siêu tôn giáo (sur-religion), nhưng khởi đầu xây dựng cơ sở hạ tầng không thể không mượn hình thức tôn giáo (religion). Cũng vậy, cho dù Phổ Độ vốn vượt biên cương và chủng tộc, nhưng khởi sự xây đắp nền móng đầu tiên không thể không mượn một đất nước, một dân tộc để làm cái nôi cho mọi phát triển trong tương lai.
Khởi đầu cho buổi ban sơ của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, Đức Thượng Đế chọn Việt Nam mở đạo Cao Đài thay vì một nơi nào khác. Archimedes (người Hy Lạp, khoảng 287-212 TCN) nói: “Hãy cho tôi cây đòn đủ dài và một điểm tựa để đặt cây đòn ấy, tôi sẽ bẩy trái đất này đi.” Vì vậy, có thể xem Việt Nam là điểm tựa của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ.
Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ khởi đầu với hình thức tôn giáo Cao Đài tại Việt Nam, vốn là đất nước nằm tại ngã tư giao thoa tư tưởng Đông Tây kim cổ, và vốn có quá trình thấm nhuần tinh thần Tam Giáo đồng nguyên trong khoảng mười chín thế kỷ trước khi đạo Cao Đài ra đời.
Việt Nam còn là nơi các đặc trưng của văn hóa Ấn, Hoa và phương Tây hiện diện. Archie J. Bahm đánh giá (tr. 32): “Ba nền văn minh lớn nhất của nhân loại là Ấn Độ, Trung Hoa, và châu Âu hay phương Tây.”
Do đó, Việt Nam có nhiều tiền đề thuận lợi để tiếp thu chân lý đại đồng từ Đức Thượng Đế tá danh Cao Đài. Có thể nói rằng tôn giáo Cao Đài và cái nôi Việt Nam chính là phương tiện để qua đó đạt tới mục đích sau cùng (cứu cánh) của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ.

HUỆ KHẢI