NIÊN BIỂU TIỀN KHAI
NGUYỄN NGỌC TƯƠNG
NGUYỄN NGỌC TƯƠNG
1935 (Ất Hợi):
Tiền
khai Nguyễn Ngọc Tương cho khởi công tu tạo thánh thất An Hội.([1])
Thiên
Lý Mật Truyền được cất tạm trên nóc Thiên Phong Đường. (Cuối năm 1939 Thiên Lý
Mật Truyền được dời về nơi cất Tịnh Xá, trong vườn Trước Hoa Kỳ Thọ.)
Hội
Thánh phê chuẩn, ban hành quyển Lễ Nghi
Niêm Thức - Hôn Nhơn Tang Tế, dày 43 trang (12x15,5cm, nhà in Xưa Nay, Sài
Gòn).
THỨ BẢY 05-01-1935 đến THỨ TƯ 06-02-1935
(01-12
Giáp Tuất đến 03-01 Ất Hợi):
Tiền
khai Nguyễn Ngọc Tương nhập đại tịnh, tuyệt thực, cầu phước cho nhân sanh đầu
năm mới.
THỨ HAI 11-02-1935 đến THỨ NĂM 14-02-1935
(08-01
Ất Hợi đến 11-01 Ất Hợi):
Lúc
8 giờ sáng, Hội Vạn Linh khai mạc tại thánh thất An Hội, có tám mươi tám họ đạo
trong hai mươi tỉnh tham dự. Chưởng Pháp Thượng Trang Thanh (Lê Bá Trang) ([2]) chủ tọa, đã trình bày
trước Hội:
“Sở dĩ gọi Hội Vạn Linh
là vì Hội nầy gồm toàn các phần tử trong Đạo, từ chức sắc đại Thiên phong cho
đến tín đồ. Ấy là hội lớn hơn hết trong Đạo vì Hội Vạn Linh gồm cả ba: Hội Nhơn
Sanh, Hội Thánh, và Thượng Hội.
Quyền của Hội Vạn Linh tự
nhiên phải lớn hơn các quyền trong Đạo. Thánh giáo có dạy rằng quyền vạn linh
đối với quyền của Đức Chí Tôn. Vạn linh nhứt định tức là Đức Chí Tôn nhứt định
vậy, vì nhơn tâm tức Thiên ý.
Hội Vạn Linh để định đoạt
những việc tối trọng của Đạo, mà không hội nào khác định được, ví dụ như việc
chọn cử người cầm giềng mối Đạo.
Vì sao mà có nhóm Hội Vạn
Linh hôm nay?
Nguyên khi Anh Cả chúng
ta là ông Thượng Trung Nhựt quy liễu rồi, thì bên Cửu Trùng Đài khuyết vị thay
thế cho Thầy mà làm chủ quyền Đại Đạo tại thế. Hễ thiếu, thì tự nhiên phải có
người thay, chớ không nên để trống, vì nếu không ai làm đầu, thì làm sao mà cử
động hình thể được.
Trong Hội Thánh hiện
thời, những chức sắc đại Thiên phong đứng kế Anh Cả là ba vị Quyền Đầu Sư, sắp
theo thứ tự thọ phong trước sau là: Thượng Tương Thanh, Ngọc Trang Thanh và
Thái Thơ Thanh.
Hồi mới khai Đạo tới nay,
có nhiều thánh giáo của Đức Chí Tôn và Đức Lý Giáo Tông cho biết trước phận sự
của ông Thượng Tương Thanh ngày sau là người cầm giềng mối Đạo.
Tôi trích lục vài đoạn
thánh giáo ấy ra đây cho chư hiền hữu rõ:
1. Thánh giáo năm Thìn [29-5 Mậu Thìn] ngày 16-7-1928, đàn tại quận Xuyên Mộc,
tỉnh Bà Rịa. Hộ Pháp và Thượng Phẩm phò loan. Ông Thượng Trung Nhựt, Thượng
Tương Thanh, Thái Thơ Thanh và Nữ Chánh Phối Sư Hương Thanh chứng đàn.
‘Thầy
các con.
(…)
Tương,
con nhớ lời Thầy! Con vốn con tin của Thầy giao cho Chánh Phủ. Nhờ con mà nền
Đạo mới ra lẽ chơn chánh trước mặt Chánh Phủ và chúng sanh. Thầy để con chịu sự
nhọc nhằn đau thảm, song có vậy mới đặng, vì con là Đạo, Đạo là con. Thầy rất
mừng cho hạnh đức con, rất hạp cùng lý Đạo. Thầy dặn con phải ẩn nhẫn, chịu khổ
hạnh cho lẽ Đạo đặng rỡ ràng. Đạo nhờ con mà nên, con vì Đạo mới ra đáng mặt.
(…)
Ôi!
Con yêu dấu ôi! Nếu mỗi đứa anh con đều đặng như con vậy, Đạo chưa ra đến nỗi
nầy. Thầy nhiều phen ứa lụy! Con hiểu ý Thầy. Thầy biết bụng con, con ráng
chịu. Thầy xin con đừng sầu thảm mà động đến Thầy.’
Và thánh ngôn ngày
14-8-1931,
năm Mùi [01-7 Tân Mùi], đàn nơi bửu điện Tòa Thánh Tây Ninh, Hộ
Pháp và Văn Pháp ([3])
phò loan. Ông Thượng Trung Nhựt, Thượng
Tương Thanh, Ngọc Trang Thanh, Thái Thơ Thanh và Hương Thanh chứng đàn.
‘Đại
Đạo Tam Kỳ Phổ Độ Lý Giáo Tông.
(…)
Ngọc
Trang Thanh! Kêu Thượng Tương Thanh.
(…)
Thượng
Tương Thanh! Lão mừng hiền hữu đó. Lão vì Chí Tôn đã hứa, mà lo lập vị cho đáng
giá, thì hiền hữu phải tận tâm mà chung lo với Lão mới phải. Ngày nay đã hành
chánh, thì cũng nên tập cho mình có đủ tư cách người cầm sanh mạng của nhơn
loại.’
Cũng vì phẩm vị hiện thời
của ông Thượng Tương Thanh trong Hội Thánh, và cũng vì các lời thánh giáo của
Thầy và Đức Lý dạy trước đó, nên tôi có ý tỏ muốn xin trong Hội Thánh công cử
ông Thượng Tương Thanh lên chấp chưởng nền Đạo cho thuận Thiên ý, cho hòa Luật
Đạo. Nhưng ông Thượng Tương Thanh nằng nằng không dám, vì bởi Đạo đã phân rẽ nhiều
chi nhiều phái; lại thánh giáo Thầy và Đức Lý dạy cũng đã lâu rồi, chưa biết
nhơn sanh còn để trọn đức tin nơi đó hay chăng.
Vả lại, sau khi an táng
Anh Cả chúng ta rồi, ông Hộ Pháp lại nắm luôn quyền hành của phẩm Giáo Tông,
lập Nghị Định ngày 12-12-1934 [06-11 Giáp Tuất], ký tên như vầy: ‘Chưởng
Quản Nhị Hữu Hình Đài: Hiệp Thiên và Cửu Trùng: Phạm Hộ Pháp’. Việc nầy trái Luật Pháp: Hiệp Thiên Đài hay ([4]) về phần thiêng liêng là phần hồn; Cửu Trùng
Đài về phần hữu hình là phần xác. Hai Đài có quyền hành đặc biệt, không bên nào
xâm lấn bên nào được. Nếu chức sắc Hiệp Thiên Đài qua lần lần hết bên Cửu Trùng
Đài, thì phải bỏ trống Hiệp Thiên Đài, tức là bỏ cho hồn tan thì xác phải rã.
Vì các cớ đã tỏ trên đây
nó rất trọng hệ cho nền Đạo, nên hai vị Quyền Đầu Sư thi hành phận sự mình,
nhóm Ban Chỉnh Đạo rồi nhóm Hội Thánh mà bàn tính về vấn đề tối trọng ấy. Song
hai Hội nầy không giải quyết được, nên mới nhứt định mời nhóm Vạn Linh hôm
nay...
Vì sao Hội Vạn Linh không
nhóm nơi Tòa Thánh Tây Ninh, lại nhóm tại
thánh thất An Hội (Bến Tre)?
Ấy là tại mấy vị chức sắc
nơi Tòa Thánh Tây Ninh. Ông Thượng Tương Thanh có viết thơ ngày 11 tháng Chạp
(15-01-1935) xin ông Hộ Pháp Phạm Công Tắc thuận tình để cho Hội Vạn Linh nhóm
về Tòa Thánh, cho có thể tán thành sự hòa hiệp cho nền Đạo đặng yên. Song ông
Hộ Pháp trả lời không thuận, nên ngày nay mới có nhóm tại đây.
Hội bỏ thăm tuyển cử rồi,
bàn tính sắp đặt xong rồi sẽ nhứt định việc về Tòa Thánh tưởng không muộn gì.
Đây tôi xin nhắc lại cho
chư hiền hữu nhớ rằng thánh địa ở Tây Ninh, ông Thượng Tương Thanh vẫn còn thay
mặt cho Đạo đứng bộ làm chủ như trước. Không ai có quyền cản ngăn không cho Đạo
theo ông về Tòa Thánh đặng.
Hội Vạn Linh nầy nhóm đủ
phép theo Luật Đạo, vì là Hội Thánh nhóm ngày 24-12-1934, có tám mươi ba vị
chức sắc Thiên phong dự hội, hiệp với hai vị Quyền Đầu Sư và hai vị chức sắc
bên Hiệp Thiên Đài nhứt định mời hội. Vả lại cái duyên cớ mời hội cũng đủ trong
Châu Tri mời nhóm gởi trước cho các thánh thất và đăng vào báo trước lâu ngày,
tưởng cũng đủ thì giờ cho toàn Đạo đâu đâu đều được hay biết hết.” (38)
Thượng
Chưởng Pháp chủ toạ cuộc bỏ phiếu, bắt đầu từ 2 giờ 30 chiều ngày 08-01 Ất Hợi,
đến 6 giờ chiều ngày 10-01 Ất Hợi mới xong.[5]([6])
THỨ BA 12-02-1935 (09-01 Ất Hợi):
Hội
Vạn Linh tại thánh thất An Hội lập vi bằng (biên bản) về việc Tòa Thánh Tây
Ninh đòi đất thánh địa và các thánh thất. Có đoạn viết:
“Ông Hộ Pháp và bà Nữ
Chánh Phối Sư có gởi thơ cho ông Thượng Tương Thanh mà đòi đất Tòa Thánh mà các
thánh thất của ông đứng tên.
Sau khi xét nét rồi, Hội
Vạn Linh nhứt định để hết thảy tài sản của Đạo
cho vị đắc cử cầm giềng mối Đạo đứng bộ làm chủ cho Đạo...” ([7])
THỨ NĂM 14-02-1935 (11-01 Ất Hợi):
Lúc
8 giờ sáng, Hội Vạn Linh còn khoảng một ngàn người dự. Ban Trị Sự kiểm trong
thùng được năm ngàn ba trăm năm mươi ba phiếu.([8])
Trong đó: Chưởng Pháp Thượng Trang Thanh (Lê Bá Trang) được hai mươi bảy phiếu;
Đầu Sư Thượng Tương Thanh (Nguyễn Ngọc Tương) được năm ngàn ba trăm hai mươi
sáu phiếu. (Có năm ngàn ba trăm hai mươi lăm phiếu xin về Tòa Thánh Tây Ninh
hành đạo.)
Buổi
chiều Hội Vạn Linh họp lại (15-18 giờ 30), còn khoảng một ngàn người dự. Chưởng
Pháp Thượng Trang Thanh (Lê Bá Trang) công bố biên bản kiểm phiếu. Hội Vạn Linh
đồng đứng dậy chào mừng Đầu Sư Thượng Tương Thanh đã đắc cử địa vị cầm giềng
mối Đạo.
Tiền
khai Nguyễn Ngọc Tương phát biểu:
“Thưa chư vị hiền hữu
lưỡng phái.
Khi mở Hội Vạn Linh, tôi
vì biết mình tài sơ đức thiểu, đã có tuyên bố rằng không ra dự cử, nhưng chư
hiền hữu cũng tín nhiệm bỏ thăm cho tôi đại đa số như vậy, làm cho tôi rất cảm
động. Tôi xin để lời cảm tạ ơn hết thảy chư vị hiền hữu còn ở lại đây và chư vị
vắng mặt.
Vả chăng phận sự cầm
giềng mối Đạo là rất lớn lao nếu chẳng biết chắc có Thiên lực phò trì, thì
không ai dám lãnh. Lòng tín nhiệm của vạn linh đã tỏ ra rõ ràng hôm nay, tôi
tin thiệt là mạng lịnh của Trời định vậy. Nên tôi không dám từ nan, phải cúi
đầu vâng chịu.
Chư hiền hữu đã có để
lòng tin tưởng nơi tôi mà phú thác các gánh nặng nề nầy cho tôi, thì từ đây về
sau, tôi cũng xin chư hiền hữu vùa giúp ([9]) cho tôi lo tròn phận sự. Còn việc về Tòa Thánh Tây Ninh, vạn linh đã bỏ
thăm “về” gần trọn hết. Tôi vẫn cũng có lòng ước vọng như vậy, nhưng nghĩ lại
sự về có điều trở ngại, nên phải làm sao về cho được êm ái hòa thuận.
Tôi tưởng phải nhờ hiền
hữu Thượng Chưởng Pháp và Hội Vạn Linh ráng lo liệu giùm việc khó khăn nầy mới
được.”
Thượng
Chưởng Pháp tuyên bố: “Ông Đầu Sư Thượng
Tương Thanh đã nhận sự tuyển cử ông hôm nay. Ông cũng đã thuận tình về Tòa
Thánh Tây Ninh. Còn lễ đăng điện cho ông tôi tính làm tại Tòa Thánh Tây Ninh có
mời các chi các phái. Vậy chư hiền hữu có đồng ý kiến không?” Mọi người
đồng ý.
Hội
Vạn Linh công cử ba vị Chưởng Pháp Thượng Trang Thanh (Lê Bá Trang), Thượng
Sanh Cao Hoài Sang, và Bảo Pháp Nguyễn Trung Hậu về Tòa Thánh Tây Ninh thương
nghị việc hòa hiệp.([10])
THỨ BA 19-02-1935 đến THỨ BẢY 23-02-1935
(16-01
Ất Hợi đến 20-01 Ất Hợi):
Theo
nghị quyết của Hội Vạn Linh ngày Thứ Năm 14-02-1935 (11-01 Ất Hợi) ba vị Chưởng
Pháp Thượng Trang Thanh (Lê Bá Trang), Thượng Sanh Cao Hoài Sang, và Bảo Pháp
Nguyễn Trung Hậu hướng dẫn một phái đoàn đông đảo về Tòa Thánh Tây Ninh thương
nghị việc hòa hiệp.
Chưởng
Pháp Thượng Trang Thanh (Lê Bá Trang) gởi thư đến Phạm Hộ Pháp và các Nghị Viên
trong ban Phụ Chánh, nhưng không được tiếp.
Ngày
21-02-1935 Chưởng Pháp Thượng Trang Thanh gởi đến Phạm Hộ Pháp thư thứ hai, cho
biết đến 12 giờ trưa Thứ Bảy 23-02-1935 (20-01 Ất Hợi) thì Thượng Chưởng Pháp
hết phận sự được ủy
thác đi nghị hòa.
Thứ
Bảy 23-02, lúc 10 giờ sáng, Phạm Hộ Pháp phái Tiếp Đạo Cao Đức Trọng là một
Nghị Viên trong ban Phụ Chánh ra tiếp riêng Chưởng Pháp Thượng Trang Thanh (Lê
Bá Trang). Tiếp Đạo giải thích rằng phái đoàn về đông tới bảy, tám trăm người
mà không báo trước, nên không thể tiếp ở Tòa Thánh vì sợ xảy ra điều trở ngại;
vậy tiếp một mình Thượng Chưởng Pháp cũng như tiếp cả phái đoàn; Thượng Chưởng
Pháp được trọn quyền quyết định việc về Tòa Thánh, nhưng phải cho ban Phụ Chánh
biết trước năm ngày để chuẩn bị tiếp đón.([11])
THỨ NĂM 04-4-1935 (02-3 Ất Hợi):
Hội
Thánh gởi thơ mời các chức sắc từ Lễ Sanh trở lên về thánh thất An Hội (Bến
Tre) dự lễ đăng điện của tiền khai Nguyễn Ngọc Tương.
THỨ NĂM 11-4-1935 (09-3 Ất Hợi):
Tại Bến Tre, Đầu Sư Thượng Tương Thanh (Nguyễn Ngọc Tương)
gởi Châu Tri đến các chức sắc, chức việc, và đạo hữu nam nữ:
“Từ ngày 14 tháng Giêng tới nay, gần được hai
tháng rồi, Đức Thượng Chưởng Pháp lãnh lịnh của Hội Vạn Linh, cũng cứ hết lòng
lo điều đình mãi sự hòa hiệp với Tây Ninh, nhưng kết quả cũng chưa thấy hình
thấy dạng.
(…)
Vậy Đức Chưởng Pháp và tôi nhứt định từ đây ở nơi thánh thất An
Hội (Bến Tre), lập Văn Phòng tại đó mà lo việc đạo. Chừng nào có mạng lịnh của
Đại Từ Phụ dạy thì mới về Tòa Thánh Tây Ninh.” ([12])
THỨ BA 07-5-1935 (05-4 Ất Hợi):
Lập đàn cơ tại thánh thất An Hội. Chứng đàn: Chưởng Pháp
Thượng Trang Thanh (Lê Bá Trang) và Đầu Sư Thượng Tương Thanh (Nguyễn Ngọc
Tương). Phò loan: Châu, và Lê Tam Tỉnh (1893-1966). Đức Lý Thái Bạch Tiên
Trưởng giáng, dạy Chưởng Pháp Thượng Trang Thanh (Lê Bá Trang) nghi thức làm lễ
đăng điện như sau:
“Đúng 11
giờ 9 phút ngày mùng 7 tới đây [Thứ Năm 09-5-1935]
đem hiền hữu Thượng Tương Thanh tắm gội, xông hương bách hoa, rồi trấn sau lưng
bốn chữ Cửu Thiên Khai
Hóa. Nơi nhứt khiếu [nê huờn] đề Thập Nhị
Linh Thần. Hai bàn tay trấn Thần Lục Đinh Lục Giáp.
Chơn họa phù Chiếu Linh Tiên. (…)
Mười hai giờ trưa cùng ngày mùng 7 đó, hiền hữu
vào Bát Quái Đài trấn thần vào Thiên phục Giáo Tông, trấn thần Kim Quang, rồi
lên Cửu Linh Điện là chỗ của em tọa vị, triệu Thập Nhị Thời Thần Vương. Trấn
bốn hướng tứ phương bằng bùa Giáng Ma Xử. Kế đăng
điện liền, cho Bần Đạo chia sớt nhị xác thân (…).
Thượng Tương Thanh lên tọa vị. Hiền hữu Thượng
Trang Thanh đọc thánh giáo về Luật của Bần Đạo giáng dạy Thượng Tương Thanh, đã
đưa cho rồi đó. Đạo truyền và hai thánh giáo (các thánh giáo này đặng đem vào
Thiên sử). Khi đọc rồi thì ra ngoài bàn Hộ Pháp đứng ngó vô cho ngay mặt Giáo
Tông, rồi truyền lịnh như vầy:
‘Sắc lịnh cho Bảo Phong Quân [Hồ
Thiện Quyện], Khai Thế [Lê Thành] Tính và Bảo Đức Chơn Quân [Nguyễn
Văn Cho], các em khá dâng Luật và Pháp.’
Sáu bàn tay dâng lên Đức Giáo Tông. Dâng rồi để trên
ghế, thì hiền hữu đi thẳng đến trước mặt, gần nơi ngai của Giáo Tông mà phán
lời này:
‘Này là Thiên Luật, hiền hữu khá tuân theo!’
Đoạn này rồi thì Giáo Tông đứng dậy, mới cất tiếng xưng hô danh hiệu
của mình. Rồi tỏ lòng thương nhân loại, nghĩa là giơ hai tay lên trên không mà
nhìn trọn chư đạo hữu một giây lát. Kế dộng mười hai tiếng chuông, thì Giáo
Tông vào Bát Quái Đài làm phép nước, rồi sắp trở về nhà Thiên Lý Mật Truyền. Ấy
là xong phận.” ([13])
THỨ TƯ 08-5-1935 (06-4 Ất Hợi):
Việc
thương nghị hòa hiệp với Tòa Thánh Tây Ninh không đạt kết quả mong muốn. Theo
đề nghị của Chưởng Pháp Thượng Trang Thanh (Lê Bá Trang), lễ đăng điện được
đồng thuận sẽ tổ chức tại thánh thất An Hội để tiền khai Nguyễn Ngọc Tương
chánh thức nhận phẩm vị Giáo Tông.
Theo
thơ mời ngày Thứ Năm 04-4-1935, các chức sắc từ Lễ Sanh trở lên về thánh thất
An Hội dự lễ đăng điện của tiền khai Nguyễn Ngọc Tương. Lúc 15 giờ đã có mặt: Chưởng Pháp Thượng Trang Thanh (Lê Bá Trang);
Đầu Sư Thượng Tương Thanh (Nguyễn Ngọc Tương); Giáo Sư (năm nam, một nữ); Giáo Hữu
(hai mươi nam, ba nữ); Lễ Sanh (một trăm bảy mươi nam, trong đó có một trăm bốn
mươi bốn mới được công cử; và một trăm lẻ tám nữ, trong đó có một trăm mới được
công cử.) ([14])
THỨ NĂM 09-5-1935 (07-4 Ất Hợi):
Lễ
đăng điện của Giáo Tông Nguyễn Ngọc Tương được cử hành long trọng vào giờ Ngọ.
Buổi chiều, Hội Thánh Ban Chỉnh Đạo họp lại lúc 16 giờ 30.
THỨ SÁU 10-5-1935 (08-4 Ất Hợi):
Hội
Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo phê chuẩn Nội Luật Thánh Thất và cho phép ban hành
để hướng dẫn cách tổ chức nội trị trong từng họ đạo.
THỨ BẢY 11-5-1935 (09-4 Ất Hợi):
Chưởng Pháp Thượng Trang Thanh (Lê Bá Trang) ra bố cáo, cho biết từ
ngày 09-5-1935 (07-4 Ất Hợi) tiền khai “đã
giao quyền đạo lại cho Đức Giáo Tông”. Trong bố cáo, tiền khai Thượng Chưởng Pháp dẫn lại bài “Kinh Chúc
Mừng” (mười sáu câu) do Đức Giáo Tông Vô Vi Lý Thái Bạch ban cho tiền khai
Nguyễn Ngọc Tương vào giờ Tý, Thứ Tư 17-4-1935 (15-3 Ất Hợi):
Đầu cúi lạy Ơn Trên Từ Phụ
Ban phước lành nuôi đủ chúng sanh
Hoằng khai mối Đạo nên thành
Nay cho một đấng Thánh hành độ dân
Cầm giềng mối ra ân cứu khổ
Giải cho đời sanh khổ đặng an
Bốn phương lạc nghiệp thừa nhàn
Mừng nay đặng thấy một đàng Thánh minh
Giữa vạn vật công bình chánh trực
Giáo dẫn đời đặng thoát biển mê
Trần gian lao khổ nhiều bề
Nhờ ơn rọi đuốc dẫn về ngôi xưa
Mừng nền Đạo sớm trưa phong nhã
Vừng mây lành phủ cả càn khôn
Nương theo phép nhiệm vĩnh tồn
THỨ HAI 05-8-1935 (07-7 Ất Hợi):
Giáo
Tông Nguyễn Ngọc Tương bắt đầu đợt đại tịnh một trăm hai mươi ngày tại Thiên Lý
Mật Truyền (trên nóc Thiên Phong Đường). Trong bảy ngày sau cùng, Giáo Tông
tuyệt thực, mỗi ngày chỉ uống vài hớp nước.
1936 (Bính Tý):
Giáo
Tông Nguyễn Ngọc Tương cho lập nhà tu thượng thừa nam, rồi mở thêm nhà tu trung
thừa nữ.
THỨ SÁU 31-01-1936 (08-01 Bính Tý):
Hội
Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo họp phiên đầu tiên tại thánh thất An Hội (Bến Tre).([16])
Lúc này Hội Thánh có chín mươi sáu thánh thất (toàn đạo Cao Đài có một trăm ba
mươi lăm thánh thất). Thành phần tham dự như sau:
- Hiệp Thiên Đài: Bảo Đạo, Khai Thế, Bảo Phong Quân.
- Cửu Trùng Đài: Phối Sư (6 nam, 2 nữ); Giáo Sư (31
nam, 6 nữ); Giáo Hữu (92 nam, 43 nữ); hơn 300 Lễ Sanh nam nữ dự thính.
Giáo
Tông Nguyễn Ngọc Tương giải thích: “Vì trong Hội Thánh còn thiếu chức Đầu Sư
và Chánh Phối Sư, còn mấy vị Phối Sư mới thăng thưởng thì chưa được thông
thuộc, nên Anh Cả phải ngồi chủ tọa Hội Thánh kỳ này, sau có người điều đình
được rồi sẽ phú thác.” ([17])
Đại
hội chấp thuận một chương trình gồm mười điểm như sau: Về bốn hạng chức sắc.([18])
\ Về sự hành đạo của chức sắc.([19])
\ Về công hạnh của mỗi phẩm chức sắc.\ Về sắc phục thường mặc của chức sắc,
chức việc.\ Về tài chánh.([20])
\ Về phước điền.([21])
\ Về nhà tu,([22])
hạnh đường,([23])
tiểu học đường.([24])
\ Về vệ sinh.([25])
\ Về ban thường xuyên của Hội Thánh.([26])
\ Về Ban Ủy Viên Kiểm Dượt [duyệt] kinh sách để tái bản.([27])
CHỦ NHẬT 12-4-1936 (21-3 Bính Tý):
Thánh
thất An Hội (Bến Tre) cho xuất bản Châu Tri Chỉnh Đạo 1934-1936, dày 74 trang (16x24cm), in tại nhà in
Bùi Văn Nhẫn (Bến Tre).([28]) Gồm mười châu tri từ lúc
khởi đầu Ban Chỉnh Đạo. Sách in không có Châu Tri số 1 và số 2, bắt đầu từ Châu
Tri số 3 (ngày 27-7-1934), không có số 4; kế tiếp là Châu Tri số 5 (ngày
26-9-1934), số 6 (ngày 20-11-1934), số 7 (ngày 05-12-1934), số 8 (ngày
15-12-1934), số 9 (ngày 29-12-1934), số 10 (ngày 15-01-1935). Còn có nhiều văn
bản khác, và kết thúc với vi bằng (biên bản) phiên họp đầu tiên của Hội Thánh Cao
Đài Ban Chỉnh Đạo tại thánh thất An Hội (Bến Tre) vào Thứ Sáu 31-01-1936 (08-01
Bính Tý).
THỨ BẢY 13-6-1936 (24-4 Bính Tý):
Đức
Giáo Tông Nguyễn Ngọc Tương nhập đại tịnh tại Thiên Lý Mật Truyền (trên nóc Thiên
Phong Đường). Tiền khai ăn rất ít cơm, còn dùng trái cây, uống nước dừa, sữa
đậu nành, và chút ít cháo.
THỨ SÁU 17-7-1936 (29-5 Bính Tý):
Sau
hơn nửa tháng bệnh nặng, Thượng Chưởng Pháp Lê Bá Trang quy thiên tại thánh
thất An Hội. Giáo Tông Nguyễn Ngọc Tương cho báo tang các nơi, trong đó có:
-
Điện tín gởi Phạm Hộ Pháp:
“Avons douleur pour faire part décès notre
grand frère Lê Bá Trang, survenu 17 Juillet, enterrement 21 Juillet.”
Dịch: Chúng tôi đau đớn báo tin anh lớn của
chúng ta Lê Bá Trang quy thiên ngày 17-7, an táng ngày 21-7.
- Điện tín gởi Nữ Chánh Phối Sư Hương Thanh:
“Avons
douleur vous informer décès Chưởng Pháp Lê Bá Trang, survenu aujourd’hui à BenTre
et demandons permission d’enterrer dans propriété commune derrière Grand Temple
Tây Ninh. Attendons réponse demain.”
Dịch: Chúng tôi đau đớn báo tin Chưởng Pháp
Lê Bá Trang đã quy thiên hôm nay tại Bến Tre. Mong muốn được an táng phía sau Đền Thánh
Tây Ninh. Chúng tôi chờ phúc đáp ngày mai.([29])
CHỦ NHẬT 19-7-1936 (02-6 Bính Tý):
Buổi chiều, Giáo Tông Nguyễn Ngọc Tương nhận được hai điện
tín, cùng chấp thuận việc an táng Thượng Chưởng Pháp Lê Bá Trang phía sau Đền
Thánh ở Tây Ninh.
- Điện tín của Phạm Hộ Pháp:
“Au nom sacerdoce et au mien
vous adresse condoléances émues. Autorise enterrer au Saint Siège.”
Dịch: Nhân danh Hội
Thánh và cá nhân, tôi xin chia buồn sâu sắc. Được phép chôn cất ở Tòa Thánh.
- Điện tín của Nữ
Chánh Phối Sư Hương Thanh:
“Condoléances
très émues, accord pour inhumation derrière Grand Temple.”
THỨ BA 21-7-1936 (04-6 Bính Tý):
Sau ba ngày lễ tang tại thánh thất An Hội, vào buổi sáng Giáo
Tông Nguyễn Ngọc Tương cùng hai vị chức sắc Hiệp Thiên Đài và bổn đạo đưa liên
đài Thượng Chưởng Pháp Lê Bá Trang về Tòa Thánh Tây Ninh.
Buổi chiều không thể làm lễ tang tại Đền Thánh, vì Tòa Thánh
Tây Ninh yêu cầu tất cả mọi người khi vào Đền Thánh phải mặc tang phục, không
được mặc phẩm phục chức sắc.([31])
Khoảng 10 giờ tối, trở ngại được giải quyết: Liên đài Thượng
Chưởng Pháp để tại nhà giảng, hôm sau làm lễ tại đây; phái đoàn đưa tang nghỉ tạm
ở Học Xá.
THỨ NĂM 23-7-1936 (06-6 Bính Tý):
Lúc
8 giờ sáng, Phạm Hộ Pháp làm lễ tiếp dẫn đưa liên đài Thượng Chưởng Pháp Lê Bá
Trang an táng phía sau Đền Thánh.
Buổi
chiều, Giáo Tông Nguyễn Ngọc Tương dẫn đầu phái đoàn đến Hộ Pháp Đường chào từ
biệt Phạm Hộ Pháp. Cả đoàn trở về Bến Tre trong ngày.
Sau
ngày Thượng Chưởng Pháp Lê Bá Trang quy thiên, Giáo Tông Nguyễn Ngọc Tương ra
lệnh ngưng lập đàn, không dùng cơ bút. Từ đây Hội Thánh chỉ trọn hành theo Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Tân Luật, và Pháp
Chánh Truyền (không dùng phần chú giải của Tòa Thánh Tây Ninh).
Mọi việc đạo, Hội Thánh chung trí luận bàn trong
các cuộc nhóm họp theo định lệ hằng tháng, hằng năm và trong các cuộc nhóm họp bất
thường.([32])
1937 (Đinh Sửu):
Với hoài bão truyền đạo Cao Đài ra ngoài địa giới Nam Kỳ. Giáo
Tông Nguyễn Ngọc Tương đi Huế và Hà Nội để thăm dò tình thế trong hoàn cảnh
triều đình Huế đang ngăn cấm nền tôn giáo mới. Đi theo tiền khai có thanh đồng
Tô Văn Pho (1919-1998). Sau này người thanh niên ấy sẽ giữ vai trò quan trọng
trong quá trình xây dựng và gìn giữ thánh thất Cao Đài tại Hà Nội.
CHỦ NHẬT 16-5-1937 (07-4 Đinh Sửu):
Lạc
thành thánh thất An Hội sau khi hoàn tất tu tạo. Đến chúc mừng có các vị:
Nguyễn Bửu Tài, Nguyễn Thế Hiển (Hội Thánh Cao Đài Tiên Thiên); Phan Văn Thiệu
(Hội Thánh Cao Đài Minh Chơn Đạo), v.v…
THỨ NĂM 08-7-1937 (01-6 Đinh Sửu):
Giáo
Tông Nguyễn Ngọc Tương nhập đại tịnh tại Hiệp Thiên Đài. Tiền khai ghi lại nhật
ký hành pháp rất chi tiết.([33])
CHỦ NHẬT 08-8-1937 (03-7 Đinh Sửu):
Người
phối ngẫu của tiền khai Nguyễn Ngọc Tương là bà Bùi Thị Giàu (sinh năm 1884) tạ
thế.
1938 (Mậu Dần):
Suốt
năm này Giáo Tông Nguyễn Ngọc Tương đi thăm các thánh thất, làm phép đại xá,
giải khổ cho từng nơi. Tiền khai giảng giải:
-
Mỗi người đều mang nặng nhiều nghiệp chướng tội tình, nên khó dứt mà tu được.
Ai được hưởng phép đại xá rồi thì các nghiệp cũ đã dứt, có thể tu hành đắc đạo
được.
-
Ngoài các nghiệp cũ lỗi xưa, mỗi người còn vương mang lấy khổ trần, do lòng ham
muốn dục vọng chiêu tập vào, khó giải thoát được. Phép giải khổ là cách Ơn Trên
hộ trợ điển lành, giúp người tu có đủ đức tin sẽ nương theo phép giải khổ ấy mà
tự mình lần lần giải được các khổ trần.
Trong
hai năm 1938-1939, tiền khai phái nhiều chức sắc ra phổ độ ở hai miền Trung và
Bắc. Ở miền Trung, mở được hai mươi lăm thánh thất với số tín đồ khoảng năm
ngàn người. Ở miền Bắc, lập được thánh thất tại Hà Nội.([34])
THỨ BẢY 15-01-1938 (14-12 Đinh Sửu):
Thành lập ban tổ chức chuẩn bị cho Lễ Thành Đạo, bao gồm đại
diện Ban Cửu Viện: Chánh, Phó Nội Viện
Trưởng: Giáo Sư Thượng Trò Thanh, Giáo Sư Ngọc Thóa Thanh.\ Công Viện Trưởng: Giáo Sư Thượng Trọng
Thanh.\ Chánh, Phó Lễ Viện Trưởng:
Giáo Sư Thượng Thân Thanh, Giáo Sư Thượng Hộ Thanh.\ Chánh, Phó Hộ Viện Trưởng: Nữ Giáo Sư Hương Phụng, Giáo Sư Ngọc
Khánh Thanh.
Ban
tổ chức soạn xong chương trình chi tiết cho Lễ Thành Đạo, kéo dài từ Thứ Hai 07-02-1938
đến Thứ Hai 14-02-1938 (08-01 Mậu Dần đến 15-01 Mậu Dần). Chương trình
được các vị Quyền Chánh Phối Sư Thái Cậy Thanh, Thượng Lai Thanh và Giáo Sư
Ngọc Diệu Thanh (thay thế Quyền Ngọc Chánh Phối Sư Thái Minh Thanh đang bệnh)
kiểm duyệt.
THỨ HAI 07-02-1938 đến THỨ HAI 14-02-1938
(08-01
Mậu Dần đến 15-01 Mậu Dần):
Lễ
Thành Đạo được cử hành long trọng tại thánh thất An Hội.([35])
Mặc dù đã xác định “Đại Lễ có ý nghĩa chấm dứt nhiệm vụ Chỉnh
Đạo và các chi phái cũng đã rồi phận sự. Từ nay, chỉ có Hội Thánh Đại Đạo Tam
Kỳ Phổ Độ để hướng dẫn nhơn sanh tu hành đúng theo chơn truyền và Tân Pháp Đức
Chí Tôn.” ([36])
nhưng thực ra sau Lễ Thành Đạo, Hội Thánh vẫn giữ danh xưng Ban Chỉnh Đạo.
Giữa tháng 02-1938 (giữa tháng 01 Mậu Dần):
Tòa Thánh Tây Ninh ban hành Đạo Luật Năm Mậu Dần (gồm mười bảy điều). Điều Thứ Năm (Quan sát
gia nghiệp của Đạo) quy định: “Cả sản nghiệp của Đạo do bà Nữ Đầu Sư Lâm
Hương Thanh và ông Nguyễn Ngọc Tương đứng bộ từ thử phải cải bộ lại cho Đức Hộ
Pháp đứng tên thay mặt làm chủ cho Đạo.”
1939 (Kỷ Mão):
Từ
năm này trở về sau, trong nhiều văn bản, Giáo Tông Nguyễn Ngọc Tương khuyên nhủ
bổn đạo vào mỗi thời cúng, phải để tâm thành cầu nguyện cho nhơn sanh được mau
thoát nghiệp vay trả tương tàn; phải tụng Kinh
Sám Hối, Kinh Cứu Khổ càng nhiều càng tốt. Tiền khai luôn luôn nhắc bổn đạo
chỉ siêng lo tu hành cầu nguyện, chẳng nên vướng vào việc quốc sự (chánh trị).
CHỦ NHẬT 19-02-1939 đến THỨ SÁU 17-3-1939
(01-01 Kỷ Mão đến 27-01 Kỷ Mão):
Giáo
Tông Nguyễn Ngọc Tương nhập đại tịnh.([37])
THỨ BẢY 01-7-1939 đến THỨ SÁU 07-7-1939
(15-5 Kỷ Mão đến 21-5 Kỷ Mão):
Giáo
Tông Nguyễn Ngọc Tương nhập đại tịnh.([38])
Cuối năm 1939 (Kỷ Mão):
Dời
Thiên Lý Mật Truyền về nơi cất Tịnh Xá trong vườn Trước Hoa Kỳ Thọ.([39])
THỨ TƯ 24-01-1940 (16-12 Kỷ Mão):
Giáo
Tông Nguyễn Ngọc Tương ra Châu Tri số 395 để chúc xuân bổn đạo năm Canh Thìn.
Có đoạn viết: “... những mảng gắng lo
việc cả của Đạo nhứt là việc kiến trúc các cơ quan cho kịp thì Thiên ý định, mà
Tệ Huynh quên mệt quên già. Hôm nay Đạo đã đến tuổi mười lăm, được có huệ quang
chánh kiến; còn Tệ Huynh cũng tới lục tuần nhĩ thuận rồi, mong gấp thấy sự quy
nhứt tán thành...” ([40])
THỨ SÁU 02-02-1940 đến THỨ BẢY 04-5-1940
(25-12
Kỷ Mão đến 27-3 Canh Thìn):
Giáo
Tông Nguyễn Ngọc Tương nhập đại tịnh. Có những ngày ngồi luôn từ giờ Tý đến giờ
Dậu.
THỨ NĂM 15-02-1940 (08-01 Canh Thìn):
Khánh
thành Tịnh Xá.
THỨ BA 14-5-1940 (08-4 Canh Thìn):
Giáo
Tông Nguyễn Ngọc Tương mở khóa tịnh đầu tiên tại Tịnh Xá vừa khánh thành ngày
15-02-1940 (08-01 Canh Thìn). Giáo Tông đích thân truyền pháp tu.
THỨ SÁU 15-11-1940 đến THỨ SÁU 20-12-1940
(16-10
Canh Thìn đến 22-11 Canh Thìn):
Giáo
Tông Nguyễn Ngọc Tương nhập đại tịnh. Mỗi ngày dùng một bữa. Có những ngày
không ăn.
1941 (Tân Tỵ):
Nhà
tu trung thừa nữ được dời về khoảng đất rộng rãi.([41])
Trước kia tạm cất gần phòng trù thánh thất An Hội.
THỨ TƯ 22-01-1941 (25-12 Canh Thìn):
Do lỗi hai chức việc tại
họ đạo Hiệp Thạnh (Tây Ninh), lại bị vu cáo về chánh trị, tiền khai Nguyễn Ngọc
Tương bị tòa án xử phạt mười tám tháng tù. Sau khi chống án, ngày Thứ Ba 08-4-1941
(12-3 Tân Tỵ) tiền khai được tòa xử lại, đổi ra sáu tháng tù treo.
THỨ NĂM 10-4-1941 (14-3 Tân Tỵ):
Giáo Tông Nguyễn Ngọc
Tương ra Châu Tri số 418, nhắc tới việc phải ra hầu tòa hai lần (22-01 và
08-4-1941):
“Tệ Huynh
không buồn cũng không phiền những người vu cáo ám hại. Tệ Huynh tin chắc chi
chi cũng có Thầy biết cả. Nơi tòa trên mà không nhìn nhận được sự chắc thiệt,
sự trung thành và sự vô tội của Tệ Huynh trong vụ nầy, cũng bởi có Thiêng Liêng
để vậy, mới tạo ra được một cái hàm oan cho Tệ Huynh phải chịu, hầu thử lòng
các em trong buổi nầy, đặng lừa lọc người tâm thành bền vững có hạnh đức, xứng
đáng đệ tử của Thầy, em của Tệ Huynh. Nói rõ là những em nào thiệt tu hành,
thiệt tin Tệ Huynh, rõ biết Tệ Huynh phải chịu nạn, để gánh bớt tội lỗi cho các
em mà tỏ lòng thêm mến thương khắng khít, thì em ấy sẽ được vững chắc mà đi
trên con đường đạo đức đến nơi kết quả. Trái lại, những em nào không dốc chí tu
hành, không đủ đức tin nơi Thầy, nơi Đạo, và nơi Tệ Huynh, mới thấy khó nản
lòng trở bước, đã lơ lảng Đạo Thầy, thì phải mắc kế của quỷ vương, rồi có thể
bị lôi kéo ra khỏi Đạo…” ([42])
1942 (Nhâm Ngọ):
Giáo
Tông Nguyễn Ngọc Tương phái nhiều Ban Minh Đạo đi thăm viếng các thánh thất.
Tiền khai giải thích:
“Minh là tỏ rạng,
làm cho sáng rõ. Đạo là nói về sự hành đạo của mỗi chức sắc và sự
giữ đạo của mỗi tín đồ.
Đi minh đạo
là đến nơi nào còn khuyết điểm để khêu đuốc huệ, rọi đường tu, chỉ thêm rõ phận
sự cho mỗi chức sắc và dạy tín đồ cho rõ thêm luật Đạo và cách tu hành, nâng đỡ
đức tin cho trong họ đạo được thêm vững vàng…”-([43])
THỨ NĂM 01-01-1942 đến THỨ BẢY 07-02-1942
(15-11
Tân Tỵ đến 22-12 Tân Tỵ):
Giáo
Tông Nguyễn Ngọc Tương nhập đại tịnh.([44])
THỨ HAI 06 rạng THỨ BA 07-4-1942
(21
rạng 22-02 Nhâm Ngọ):
Khoảng
một tuần lễ trước ngày này, Giáo Tông Nguyễn Ngọc Tương làm việc và tiếp chức
sắc suốt ngày đêm. Tiền khai đi thăm các nhà tu, cơ sở đạo... Mỗi đêm tiền khai
làm việc đến khuya. Luôn luôn có hai thư ký bên cạnh làm giúp việc giấy tờ.
Trước
khi vào tịnh, tiền khai vừa làm việc vừa trò chuyện, chia sẻ những tâm sự trong
đời hành đạo:
“Sứ mạng của nền Đạo là
cao cả, mà hiện tình rất hiếm người đảm đương. Việc đạo là tối trọng, là cả một
công cuộc tái tạo và cứu khổ cho nhơn loại đang bị chìm đắm trong biển khổ đầy
khói lửa tang thương. Anh đã vì lòng thương mà cố gắng hết sức mình, nhưng sức
người có hạn! Vả lại, anh cần phải nắm cơ siêu thoát, mới thấu triệt lẽ Đạo,
mới đủ huyền năng đưa thuyền Đạo đến nơi đến chốn. Bổn phận anh là về phần lý
tưởng, về phần đạo pháp, chớ không phải về phần hành chánh là phận sự của Đầu Sư. Thế mà vì thiếu người,
anh phải cam lo cả, đến những việc thường thức hằng ngày. Như vậy thiệt là một
điều không may cho Đạo!
Nhưng thôi, dầu sao, anh
cũng phải vào đại tịnh. Mọi việc ở ngoài giao lại cho Hội Thánh lo; và sẽ luôn
luôn có Thiêng Liêng, Đức Lý ủng hộ.”
Vào
giờ Tý, Giáo Tông Nguyễn Ngọc Tương từ giã, bước lên lầu Thiên Lý Mật Truyền,
vào đợt đại tịnh.([45])
THỨ NĂM 24-9-1942 (15-8 Nhâm Ngọ):
Khánh
thành nhà tu thượng thừa nữ.
THỨ BẢY 13-02-1943
(09-01 Quý Mùi):
Giáo Tông Nguyễn Ngọc Tương ra Tuyên Ngôn:
“Vì đạo Cao Đài chính
mình Đức Chúa Trời khai, mới có muôn vàn Thần Thánh, Tiên Phật hạ trần giúp sức
phổ thông, nên sẽ được bền bỉ đến bảy ức năm.
Gặp đời nầy ai không vào
Đạo, đời sau, rồi đời sau nữa, nếu có tái sanh trở lại trái địa cầu nầy, thì
cũng phải vào Đạo.” ([46])
1944 (Giáp Thân):
Giáo
Tông Nguyễn Ngọc Tương cho lập nhà tu trung thừa nam. Tiền khai dạy lập nhiều
đoàn chức sắc lấy tên là Ban Truyền Tín
đi các tỉnh miền Nam
để thăm viếng bổn đạo, nâng đỡ đức tin, khuyến tu và độ thêm người vào Đạo.
THỨ TƯ 21-02-1945 (09-01 Ất Dậu):
Giáo Tông Nguyễn Ngọc Tương ra Tuyên Ngôn:
“Nơi đây [tỉnh Bến Tre và hai
quận An Hóa, Chợ Lách] sẽ được
phong võ thuận hòa, điền viên thêm thạnh mậu, không khí thường được thanh
lương, người thêm thơ thới mạnh khỏe, khỏi bịnh hiểm nghèo, khỏi nạn tai sẽ
đến.
Muốn hưởng lạc cảnh nầy,
thì chỉ có tùng luật lệ của Đạo Trời mới mở, buộc nhứt là ăn chay làm lành…” ([47])
THỨ BẢY 19-5-1945 (08-4 Ất Dậu):
Giáo Tông Nguyễn Ngọc Tương ra Tuyên Ngôn:
“Thời cuộc lúc này rất
nghiêm trọng. Chư hiền hữu nên nhớ lại những
lời của Bần Đạo đã khuyên dạy về cử chỉ của người đạo đối với đời. Nhứt là
không nhúng tay vào quốc sự, chiến tranh, mà phải có hại không khỏi. Trái lại,
nhơn lúc này mà lo lập thêm công quả và lo phổ độ những người trong địa phận họ
đạo mình cho biết nhập môn tu hành…
Phổ độ người đồng chủng
với mình biết bỏ quấy theo lành, tu nhơn tích đức, cũng là giúp ích cho nước
nhà, hóa dân vi thiện, không luận là nhập theo đảng phái mới gọi là ái quốc.” ([48])
THỨ NĂM 20-9-1945
(15-8 Ất Dậu):
Giáo Tông Nguyễn Ngọc Tương ra Tuyên Ngôn:
“Nếu các em quên lời dạy
của Thầy và không nhớ lời khuyên của Tệ Huynh, tự mình đem mình vào nơi hiểm
địa bên đời, nơi chốn có sự tranh đấu quyền lợi, tức là các em đem Đạo vào nơi
một phạm vi rất hẹp, nghịch ý Trời, lỗi lời nguyền mà phải phạm Thiên điều…
Tóm tắt, các em cứ thành
tâm tu niệm, ráng lập mình nên gương, nên đạo đức, ráng độ người theo chánh về
lành. Việc đó rất hữu ích cho người đời, cũng là cho nước nhà vậy. Rất thuận
Thiên ý, đẹp lòng Trời. Có thể chiêu tập được nhiều phước lành, đưa nước nhà
khỏi nạn tai còn sẽ tới.” ([49])
THỨ HAI 11-02-1946 (10-01 Bính Tuất):
Quân
Pháp tái chiếm Bến Tre. Giáo Tông Nguyễn Ngọc Tương rời Thiên Lý Mật Truyền ra
gặp các sĩ quan Pháp để bảo lãnh cho bổn đạo và Hội Thánh. Vì còn trong thời
gian đại tịnh, tiền khai chỉ viết trên giấy (bút đàm).
THỨ BẢY 19-10-1946 (25-9 Bính Tuất):
Một
phái đoàn quan chức thay mặt Giám Mục Ngô Đình Thục ([50])
đến viếng Hội Thánh, và trình Giáo Tông Nguyễn Ngọc Tương hai việc: (a) Làm thế
nào chấm dứt xung đột Việt-Pháp? (b) Muốn có sự liên lạc mật thiết giữa hai đạo
Thiên Chúa và đạo Cao Đài.
Tiền
khai trả lời:
“Vì còn trong đại tịnh,
Bần Đạo chưa có thể tiếp kiến được.
Muốn cho Pháp Nam hiểu
biết nhau, cho khỏi sự xung đột nữa, thì hai bên cần phải nhìn nhận quả quyết
rằng chi chi cũng có Đấng Chúa Trời định đoạt trước, và có Phật, Tiên, Thánh,
Thần thi hành Thiên ý.
Hiện bây giờ muốn biết
quả quyết có Trời và Phật, Tiên, Thánh, Thần, thì phải biết nhìn nhận có đạo
Cao Đài, là của Đấng Chúa Trời đã đem khai trong nước Việt Nam từ năm 1926 tới
bây giờ, và quan sát những thánh giáo của Đấng Chúa Trời đã giáng dạy, và sự tu
hành của những người thiệt tu về đạo Cao Đài.
Nếu hiểu rõ được đạo Cao
Đài rồi, thì biết nhìn nhận rằng cả nhơn loại đều là con chung của một Cha
Trời, tức là anh em với nhau, rồi gìn một Đạo với nhau, thì sự xung đột hết
thấy, mà sẽ thấy đem lại những sự thương yêu hòa thuận.
Đạo Cao Đài từ khi mới
lập, đã có tỏ ý liên lạc với Ngũ Chi Đại Đạo. Trong Ngũ Chi Đại Đạo có đạo
Thánh [Thiên
Chúa], thì tự nhiên theo ý Trời đã định,
sớm muộn đạo Thánh cũng phải hiệp với đạo Cao Đài.
Nay Đức Cha đã tỏ ý muốn
liên lạc mật thiết, thì sự hiệp một có lẽ sẽ thấy gần đây.
LÝ GIÁO TÔNG
Tái bút: Xin mời quý vị thượng quan ở lại vài hôm để hiểu biết thêm
việc Đạo nơi đây.”
Sau
đó, Giáo Tông Nguyễn Ngọc Tương dạy Hội Thánh phái chức sắc đi đáp lễ Giám Mục
Ngô Đình Thục.([51])
1947 (Đinh Hợi):
Đầu
năm này, con trai tiền khai Nguyễn Ngọc Tương là kỹ sư Nguyễn Ngọc Bích bị giặc
Pháp bắt.([52])
Để giữ trọn vẹn tinh thần thuần chân vô ngã của Đạo, tiền khai không chịu dùng
uy tín của Người để bảo lãnh con (y như trường hợp sau này, vào tháng 6-1949,
khi con tiền khai là kỹ sư Nguyễn Ngọc Nhựt bị giặc Pháp bắt).
Giáo
Tông Nguyễn Ngọc Tương sai dịch các Tuyên Ngôn ra tiếng Pháp, rồi in song ngữ
Việt-Pháp để phổ biến cho nhơn sanh. Mỗi Tuyên Ngôn in khoảng vài ba chục ngàn
bản. Ngoài ra tiền khai còn dạy gởi các báo Việt, Pháp đăng các Tuyên Ngôn ấy.
THỨ NĂM 30-01-1947
(09-01 Đinh Hợi):
Giáo Tông Nguyễn Ngọc Tương ra Tuyên Ngôn:
“Nhơn sanh phải chịu đau
thảm thiệt mạng khôn cùng. Ấy là đời sắp tiêu diệt đó. Vậy nên Đạo Trời mới mở
kỳ ba, đại ân xá mới có ban hành. Nhơn sanh phải nhập môn giữ Đạo, làm phải làm
lành thì mới được hưởng đại ân xá ấy.
Đại ân xá là một sự rất
quý báu của Đạo Trời, người tu vào Đạo Trời nhờ đó mà tội lỗi kiếp trước và
kiếp nầy được bôi xoá; nhờ đó mà thân tâm mình mới được trong sạch trở lại,
được hưởng khí thanh, nó đưa mình ra ngoài vòng tiêu diệt của tận thế.” ([53])
THỨ SÁU 07-3-1947
(15-02 Đinh Hợi):
Giáo Tông Nguyễn Ngọc Tương ra Tuyên Ngôn:
“Trong thời kỳ rất khó
khăn nầy, chư hiền hữu phải ráng lo giữ Đạo cho thêm sốt sắng, đức tin cho thêm
bền vững, và đừng để cám dỗ ép buộc, xa Đạo mà trở lại đời loạn ly đau thảm.
Chư hiền hữu đã chọn theo
về bên Đạo, phải cứ giữ một đường mà đi tới. Người giữ Đạo Trời với lòng thành
thật, cũng có thể chiêu tập được nhiều phước lành hữu ích cho nhơn sanh, và
cũng cho nước nhà vậy. Nước có đức được thảnh thơi hưng thạnh lâu dài. Nước
không đức chẳng sớm thì muộn không khỏi nạn tai đưa đến dồn dập.” ([54])
THỨ HAI 29-9-1947
(15-8 Đinh Hợi):
Giáo Tông Nguyễn Ngọc Tương ra Tuyên Ngôn:
“Dân Nam chúng ta thường
xưng mình là giống dân Hồng Lạc, tức là giống dòng Tiên Thánh vậy. Chúng ta rất
tin tưởng kính thờ Trời, Phật, Tiên, Thánh, Thần, và ông bà cha mẹ. Chúng ta đã
có được nhiều ân huệ của Trời ban, và có nhiều trang lịch sử khá đẹp.
Nhưng hiện nay, Bần Đạo
lấy làm buồn mà thấy một số đông người Nam mất gần hết đức tin của tổ tông thuở
trước, mà mê man trong giả mộng theo vật chất bên đời. Cái nạn đao binh khói
lửa nó đang đưa nước nhà lần lần đến cảnh điêu tàn hiu quạnh, cũng do nơi sự
mất đức tin mà ra.
Bần Đạo cất lời tha thiết
kêu gọi các đẳng nhơn sanh Nam
Việt:
- Nên bỏ hết những tình
dục, nhứt là tham ghét oán thù.
- Tin quả quyết có Trời
là Đấng Tạo Hóa sanh nhơn sanh vật.
- Nên sớm nhập Đạo Trời
đã mở với đại ân xá kỳ ba.
Ấy là đường vĩnh sanh có
một, của Đạo Trời đã mở để cứu vớt sanh linh mà đem qua thượng ngươn tái tạo.
Tận thế hầu gần, nếu ai còn dụ dự nữa, thì sẽ mất dịp thoát vòng tiêu diệt của
đời cùng.” ([55])
THỨ BẢY 11-10-1947 (27-8 Đinh Hợi):
Nhân
danh là Lý Giáo Tông cầm giềng mối đạo Cao Đài, tiền khai Nguyễn Ngọc Tương gởi
thư cho Emile Bollaert (vừa được bổ nhiệm làm Cao Ủy Pháp ở Sài Gòn ngày 05-3-1947
để giải quyết chiến tranh Đông Dương). Bản dịch:
“Kính Thượng Quan,
Sự tiêu diệt lớn lao nhơn
vật sẽ hiện tượng gần đây. Ấy là đại quả kiếp lâu đời của các dân tộc sắp đền
bồi với nhau một lần chót nữa.
Khi những nợ tiền khiên
chồng chập ấy trả xong, thì Thiên Đình sẽ ban xuống một đạo luật hình đặc biệt,
để tảo trược trừ hung, khử tà, đem quả địa cầu trở lại thanh khiết. Ấy là những
điềm ra trước của tận thế đó vậy.
Đạo Cao Đài chính thật
của Đấng Chúa Trời đã mở từ năm 1926, hiệp Ngũ Chi Đại Đạo là Phật, Tiên,
Thánh, Thần, và Nhơn Đạo, khi ấy sẽ thật hành ráo riết vai tuồng chánh thức của
mình. Nhờ sự hành động sốt sắng của đạo binh vô số Thần Thánh, Đạo sẽ lan
truyền một lượt ra khắp Ngũ Châu. Và nhờ đại ân xá kỳ ba của Trời ban, mà cứu
vớt sanh linh khỏi vòng tiêu diệt của đời cùng.
Nhơn sanh chỉ có thành
thật nhập môn vào Đạo Trời mới mở, thì sẽ được hưởng ân xá tội tình, có thể đem
mình ra khỏi nơi tiêu diệt.
Sau khi những việc trên
đây lần lượt trải qua, có thể làm cho mặt thế đổi dời, thì sẽ tới sự phán xét
đại đồng. Các đẳng linh hồn bỏ xác từ năm 1914 trong vạn quốc sẽ đến hầu trước
Toà Phán Xét, mà nghe Thiên Đình định sự thưởng phạt cho mình.
Sẽ phân biệt được đại
khái ba bực linh hồn:
a. Những linh hồn trong
sạch hoàn toàn sẽ được lên Thiên Đường.
b. Những linh hồn có ít
âm chất thì sẽ được đầu thai trở lại quả địa cầu nầy (đã được nhắc lên một
bực), mà tiếp tục trau giồi hạnh đức.
c. Còn những linh hồn cứ
làm quấy mãi, không nghe những lời kêu gọi về thiệt, về phải, về lành, thì sẽ
bị đưa xuống quả địa cầu số 68 để đền tội và ở lại lớp cũ mà lo tấn hóa.
Nơi đời thượng nguơn đương
tái tạo, sẽ thấy những sự tin tưởng kính thờ Đạo Trời mới mở, sự hiền lương đạo
đức và sự thuận thảo hòa bình, đại đồng miên viễn. Các sắc dân sẽ nhận tình anh
em bình đẳng với nhau, và các nước sẽ đồng ý hiệp nhau thành một đại gia đình,
để trọn đức tin nơi một Chúa tối cao, một Cha duy nhứt.
Sẽ dứt hết những sự can
qua. Nếu có xích mích nhau thì để cho trong nhà lo sự hòa giải êm thuận.
Còn những dân tộc nhược
tiểu ở dưới quyền bảo hộ, thì Thiên ý định phải được giải phóng, nếu chúng mong
muốn, đặng cho chúng được tự do hành động theo nguyện vọng của mình, qua những
nạn tai của mấy năm sau cùng của tận thế. Nếu chúng bị tiêu diệt vì bởi sự ràng
buộc còn trở ngại, thì trước Tòa Thiêng Liêng, tự nhiên chúng sẽ đổ tội cho thủ
hộ của chúng.
Kính Thượng Quan,
Trong đời hạ nguơn tiêu
diệt, chúng ta không nên lãng phí ngày giờ mà tính toán những việc thế thần,
quyền lợi phù du; mà chúng ta có lợi lo hiệp cùng nhau trên căn bản đức tin Đạo
Trời mới mở, bỏ hết những tánh ích kỷ tổn nhơn, mà đồng ý thật tình thương yêu
hòa thuận. Nhờ sự sửa đổi tánh tình mau lẹ nầy, mà chúng ta sẽ được trở lại
trong huệ ân thiêng liêng và hưởng được đại ân xá kỳ ba, có sức giải được những
sự xung đột giữa các nước, và đem lại cho chúng ta sự hòa bình hạnh phúc.” ([56])
THỨ NĂM 27-11-1947
(15-10 Đinh Hợi):
Giáo Tông Nguyễn Ngọc Tương ra Tuyên Ngôn:
“Chừng nào trong thế gian,
các dân tộc đều biết nhìn nhận có Trời, có Đạo, có quả báo luân hồi, biết tôn
trọng nhơn nghĩa đạo đức hơn quyền lợi bạc vàng, thì sự đấu tranh sẽ dứt, sự
hòa bình đại đồng thế giới mới trở lại lâu dài.” ([57])
THỨ NĂM 02-6-1949 (06-5
Kỷ Sửu):
Con
trai tiền khai Nguyễn Ngọc Tương là kỹ sư Nguyễn Ngọc Nhựt bị giặc Pháp bắt.([58])
Để giữ trọn vẹn tinh thần thuần chân vô ngã của Đạo, tiền khai không chịu dùng
uy tín của Người để bảo lãnh con (y như trường hợp đầu năm 1947, khi con tiền khai
là kỹ sư Nguyễn Ngọc Bích bị giặc Pháp bắt).
1950-1951 (từ nửa sau năm Canh Dần tới đầu năm Tân Mão):
Giáo
Tông Nguyễn Ngọc Tương vời hầu hết chức sắc nam nữ nơi Hội Thánh lên Thiên Lý
Mật Truyền để dạy việc. Ngài tiếp các chức sắc làm nhiều kỳ, ân cần dạy khuyên mỗi
chức sắc phải ráng lo làm tròn phận sự của mình, và tu sửa thêm hơn cho được
đầy đủ đạo đức.
Cuối
năm Canh Dần, Giáo Tông Nguyễn Ngọc Tương truyền lịnh cho Hội Thánh Cao Đài Ban
Chỉnh Đạo phải: Lập hồ sơ chức sắc cho đầy đủ; in kinh sách cho đủ dùng; xây mộ
tất cả các chức sắc quá vãng; xây hồ nước; mua vải trắng để dành; dự bị một số
tiền chừng bốn, năm chục ngàn.
Ngài
dặn gia đình sửa sang tất cả mồ mả gia tộc.([59])
THỨ NĂM 19-01-1950 (02-12 Kỷ Sửu):
Từ Bến Tre, Giáo Tông Nguyễn Ngọc Tương gởi thư ra thánh thất
Hà Nội (số 48 Hòa Mã), dặn dò Giáo Hữu Thượng Pho Thanh (Tô Văn Pho):
“Em Sáu,
“Ông gần ra tịnh. Những người thiệt tu hành, thiệt trung thành với Hội
Thánh Bến Tre, siêng năng sốt sắng lo làm phải làm lành, lập đức bồi công hằng
bữa, hết lòng hết dạ lo giúp Đạo, thiệt tình khắng khít bên cạnh ông, thì sẽ bị khảo nội khảo ngoại càng ngày càng thêm
nhiều cho đến chừng ông ra tịnh mới hết. Hễ khảo nhiều chừng nào thì công quả
nhiều chừng nấy, nếu không thở than thối chí.
“Vậy em cố giữ đức tin cho thiệt mạnh mẽ luôn luôn, cho bền chặt vững
vàng; ai có kiếm điều làm nhục nhã, ai có mắng nhiếc hăm dọa, ai có muốn làm
thiệt hại cho em thế nào thì cũng đừng giận đừng buồn, đừng nao núng sợ sệt.
Dầu có bị đau ốm gầy mòn thương thân thương thể cho mấy đi nữa cũng đừng sầu
thảm ngả lòng mà lảng lơ việc đạo, mà hao mòn âm chất.
“Em
nên tin chắc hẳn rằng người thiệt quên mình lo giúp Đạo tức là làm việc cho
Thầy thì có Thần Thánh ủng hộ luôn luôn, dầu việc hung cho thế mấy đi nữa cũng
hóa ra kiết được.” ([60])
THỨ BẢY 09-6-1951 (05-5 Tân Mão):
Giáo
Tông Nguyễn Ngọc Tương dạy hai thanh đồng:
“Anh sẽ về chầu Đại Từ Phụ bảy ngày. Hai em ráng giữ
gìn cho thanh tịnh. Khi thấy dứt thở quá bảy ngày mà anh chưa về, thì hai em sẽ
cho Hội Thánh hay.” ([61])
THỨ BA 12-6-1951 (08-5 Tân Mão):
Giáo
Tông Nguyễn Ngọc Tương ngồi tịnh suốt ngày đêm.
CHỦ NHẬT 17-6-1951 (13-5 Tân Mão):
Giáo
Tông Nguyễn Ngọc Tương dứt uống nước.
THỨ HAI 18 rạng THỨ
BA 19-6-1951
(14 rạng 15-5 Tân Mão):
Vào
giờ Tý, Giáo Tông Nguyễn Ngọc Tương dứt thở. Tính từ ngày tiền khai nhập đại
tịnh, vào giờ Tý đêm 21 rạng 22-02 Nhâm Ngọ (06 rạng 07-4-1942) đến khi xuất
thần và dứt hơi thở, thời gian đúng chín năm tám mươi mốt ngày.
THỨ TƯ 20-6-1951 (16-5 Tân Mão):
Hai
thanh đồng thấy Giáo Tông Nguyễn Ngọc Tương dứt thở đã lâu, nên đỡ Người nằm
xuống.
THỨ SÁU 22-6-1951 (18-5 Tân Mão):
Thấy
tay chân Giáo Tông Nguyễn Ngọc Tương đều lạnh, hai thanh đồng sợ, nên tuy mới qua
bốn ngày vẫn đi xuống lầu Thiên Lý Mật Truyền để báo tin Hội Thánh Cao Đài Ban
Chỉnh Đạo.
THỨ BẢY 23-6-1951 (19-5 Tân Mão):
Hội
Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo mời hai bác sĩ công và một bác sĩ tư đến. Sau khi
khám nghiệm, các bác sĩ xác nhận rằng Giáo Tông Nguyễn Ngọc Tương đã tạ thế từ
hai ngày trước; nhưng vì tinh thần mạnh mẽ nên di thể còn mềm dịu, chưa hư
hoại. Hội Thánh vẫn để yên di thể, chờ thêm hai mươi bốn tiếng đồng hồ.
CHỦ NHẬT 24 rạng THỨ
HAI 25-6-1951
(20 rạng 21-5 Tân Mão):
Vào
giờ Tý, Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo đưa di thể Giáo Tông Nguyễn Ngọc Tương
vào liên đài.
THỨ HAI 25-6-1951 (21-5 Tân Mão):
Lúc
15 giờ, lễ tang bắt đầu. Tại Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo, các thánh thất và
tư gia đạo hữu đều treo cờ tang. Mỗi thánh thất đều lập một bàn thờ cho đạo hữu
đến vọng bái.
Lúc
16 giờ, hơn một ngàn người đưa liên đài từ Tịnh Xá về Hội Thánh, nhập bửu điện
rồi an vị nơi ngôi Giáo Tông.
THỨ NĂM 28-6-1951 (24-5 Tân Mão):
Liên đài của Giáo Tông
Nguyễn Ngọc Tương đặt tại Cửu Trùng Thiên trong sân Đại Đồng Xã. Các lễ tế kéo
dài đến Thứ Bảy 07-7-1951 (04-6 Tân Mão). Tổng cộng có một trăm ba mươi sáu lễ
tế của đại diện chánh quyền, quan khách, tôn giáo bạn, các chi phái, và họ đạo.
Có hơn một vạn người về viếng, từ ba miền đất nước. Mỗi ngày có hơn ba ngàn
người viếng tang. Hơn hai ngàn vị cùng phụ trách lễ tang.([63])
THỨ NĂM 05-7-1951 (02-6 Tân Mão):
Hội Thánh Cao Đài Ban
Chỉnh Đạo ra Tuyên Cáo số 2, với ba nội dung chánh: (a) Vạch rõ con đường hướng
đạo của Giáo Tông Nguyễn Ngọc Tương; (b) Thuật rõ giai đoạn nhập diệt của Ngài;
(c) Định rõ đường lối hành đạo của Hội Thánh ở hiện tại và tương lai.
Ngày an táng, liên đài
Giáo Tông đặt trên linh xa, trang hoàng bằng hoa huệ trắng kết thành hình Long
Mã cõng Hà Đồ. Hơn một vạn bổn đạo dự lễ. Linh xa đi khắp châu thành Bến Tre, rồi
đưa về đặt trên nền bửu tháp trước Hiệp Thiên Đài thánh thất An Hội.
([1]) Làng An Hội xưa có ngôi thánh thất
đầu tiên đặt tại nhà tiền bối huyện hàm Nguyễn Dư Hoài (1868-1930). Bấy giờ đạo
Cao Đài chưa chia chi phái. Sau khi tiền bối Nguyễn Dư Hoài quy thiên, thánh
thất ấy không còn. Khu đất đó hiện nay đối diện nhà thờ Tin Lành, góc Nguyễn
Đình Chiểu và Nguyễn Huệ, phường 1, thành phố Bến Tre.
Tiền khai Nguyễn Ngọc Tương cho cất trên đất nhà một
thánh thất nhỏ (cột bằng cây dừa lão, lợp ngói, nền lót gạch tàu), là thánh
thất An Hội. Khi cho tu tạo thánh thất An Hội (1935), đồ từ khí và các thứ được
gởi tạm tại nhà riêng ông Võ Văn Lý (1878-1953) là nhà sàn đối diện nhà tu
trung thừa nữ (nhà tu nay ở số 189 Trương Định, phường 6, thành phố Bến Tre).
Thánh thất An Hội lạc thành ngày Chủ Nhật 16-5-1937 (07-4 Đinh Sửu).
Xem: Huệ Nhẫn, Lịch Sử Đạo Cao Đài. Quyển II, tr. 400.
Trong Châu
Tri Chỉnh Đạo 1934-1936, tr. 27-31, có in lại bài diễn văn khai hội dẫn
trên của Thượng Chưởng Pháp, nhưng gọn hơn; thí dụ, không nhắc tới hai thánh
giáo của Đức Cao Đài và của Đức Lý.
Giữa
tháng 02-1938 (tháng 01 Mậu Dần), Tòa Thánh Tây Ninh ban hành Đạo Luật Năm Mậu Dần (gồm mười bảy
điều), trong đó Điều Thứ Năm (Quan
sát gia nghiệp của Đạo) quy
định: “Cả sản nghiệp của Đạo do bà Nữ Đầu Sư Lâm Hương Thanh và ông Nguyễn
Ngọc Tương đứng bộ từ thử phải cải bộ lại cho Đức Hộ Pháp đứng tên thay mặt làm
chủ cho Đạo.”
([20]) Định mức mỗi năm: Tín đồ
góp một ngày công quả, chức việc hai ngày, Lễ Sanh bốn ngày, Giáo Hữu tám ngày,
Giáo Sư mười hai ngày. Một ngày công quả tương đương hai cắc.
Tháng 11-1936 giá gạo ở Nam Kỳ tăng từ 1,3 đồng
lên 2,2 đồng một giạ (20 lít). [In
November 1936, the price of rice in Cochinchina rose from 1.3 piasters to 2.2
piasters per giạ (20 litres). Source: Dr. Manh Hung Le, The Impact of World War II on the Economy of
Vietnam ,
1939-45. Eastern Universities Press by
Marshall Cavendish, 2004.] https://books.google.com.vn
([33]) Nhật ký hành pháp: 01-6 Đinh
Sửu (ĐS): Thượng sớ.\ 02-6 ĐS: Ăn
ít trái cây, một bữa cháo.\ 03-6 ĐS:
Như trên.\ 04-6 ĐS: Ăn hai trái
xoài.\ 05 đến 08-6 ĐS: Như trên.\ 09 và 10-6 ĐS: Ăn năm trái táo khô.\ 11-6 ĐS: Như trên.\ 12 đến 14-6 ĐS: Ăn mười trái táo.\ 15-6 ĐS: Uống nước dừa.\ 16-6
ĐS: Uống hai ly sữa đậu nành.\ 17 đến
23-6 ĐS: Tu khá lên, uống hai ly sữa.\ 24
đến 30-6 ĐS: Tu khá lên, thôi uống sữa, uống hai ly nước dừa trong sáu ngày
thiệt nhẹ, học nhiều hay lạ.\ 01 và 02-7
ĐS: Như trên.\ 03-7 ĐS: Bà bạn
mất [Bùi Thị Giàu].\ 04-7 ĐS: Vì đám
tang phóng tâm, phải uống sữa đậu nành lại mới chịu nổi.\ 09-7 ĐS: Hết phóng tâm, ngồi được mười giờ.\ 10-7 ĐS: Tẩu, khử trược.\ 11
và 12-7 ĐS: Tu khá luôn.\ 16 và 17-7
ĐS: Không uống sữa, có ân điển mát mẻ khởi sự lên hai bắp vế.\ 18-7 ĐS: Uống sữa lại, khởi sự lên
thượng tiêu [miệng trên dạ dày].\ 19-7 ĐS:
3 giờ khuya có cho biết phải tu thêm nữa.\ 20-7
ĐS: Khởi sự nhớ lại các việc từ nhỏ tới lớn.\ 29 và 30-7 ĐS: Không ăn uống.\ 01-8
ĐS: Không ăn, không uống, không nằm, không ngủ, cho tới xuất hồn.\ 02-8 ĐS: Có Đức Lý đến khai khiếu định
ngày xuất thần về chầu Thầy.\ 04-8 ĐS:
Bị động, hai con sợ chết, dộng cửa, phải viết giấy cho biết.\ 05-8 ĐS: Vì phóng tâm, tiếp điển bị đứt
đoạn.\ 06-8 ĐS: Phải uống sữa đậu
nành, vì quá yếu sức gần liệt.\ 07-8 ĐS:
Ăn cháo, trái cây cho khỏe lại.\ 08-8 ĐS:
Ăn cháo.\ 09-8 ĐS: Tẩu, ăn cháo, điển thường.\ 11
tới 13-8 ĐS: Không ăn, uống, giờ
chót có điển xả cho nghỉ.\ 14-8 ĐS:
Ra thiền định. (Xem: Tiểu Sử Đức Giáo
Tông Nguyễn Ngọc Tương, tr. 57-58.)
Thứ Hai
07-02-1938 (08-01 Mậu Dần):
08-10 giờ: Ban Tổ Chức đến Tòa Thánh nhận nhiệm vụ.\ 15-20 giờ: Cúng khai hội.\ 21-22 giờ:
Thuyết đạo, đề tài “Cơ Khai Đạo, Chỉnh Đạo, Và Thành Đạo”.
Thứ Ba
08-02-1938 (09-01 MD): Giờ
Tý: Cúng đại lễ.\ 05-10 giờ 30:
Thuyết đạo, đề tài “Luân Chuyển Đại Hội Long Hoa”.\ Buổi chiều: Tiếp thánh lịnh đại xá.\ Buổi tối: Mở Văn Minh Điện.
Thứ Tư 09-02-1938 (10-01 MD): Buổi sáng: Hội
Thánh tiếp các chi phái.\ Buổi chiều:
Đức Giáo Tông ban đại xá.\ 20-23 giờ:
Thuyết đạo, đề tài “Tái Tạo, Tỏ Dấu Thương Đời”.
Thứ Năm 10-02-1938 (11-01 MD): Giờ Tý: Cúng đại lễ.\ Buổi sáng: Thuyết đạo, đề tài “Thọ Khổ, Nhắc Lại Công Đức Ngài Cao
Thượng Phẩm”.\ 15-17 giờ 30: Thuyết
đạo, đề tài “Giải Khổ, Nhắc Lại Công Đức Ngài Lê Bá Trang”.
Thứ Sáu 11-02-1938 (12-01 MD): Giờ Tý: Cúng đại lễ.\ Buổi sáng: Thuyết đạo.\ Buổi
chiều: Ban phép đại xá.
Thứ Bảy
12-02-1938 và Chủ Nhật 13-02-1938 (13-01 MD và 14-01 MD):
Như ngày 11-02-1938.
Thứ Hai
14-02-1938 (15-01 MD): Giờ
Tý: Cúng đại lễ thượng nguơn.\ 07-09
giờ: Thuyết đạo tại bửu điện, đề tài “Tân Pháp Chí Tôn”.\ 09-11 giờ: Giáo Tông định công chấm quả
các vị hiện diện (số vắng mặt sẽ chấm công sau).\ Giờ Ngọ: Cúng đại lễ.\ 14-17 giờ: Nổi trống nơi Tây Thiên Đài, trổi nhạc chúc mừng, Ban
Trị Sự xướng danh từng vị được chấm công. Hội Thánh cảm tạ, phát giấy khen lưu
niệm. Bế mạc. (Xem: Huệ
Nhẫn, Lịch Sử Đạo Cao Đài. Quyển II, tr. 483-486.)
([39]) Tại cửa ngõ Trước Hoa Kỳ
Thọ, tiền khai Nguyễn Ngọc Tương để đôi liễn: Trước Hoa truyền Đại Đạo chơn thành đắc quả nhơn sanh độ.\ Kỳ
Thọ xuất huyền vi Thánh Đức tận thông thái cực thâu.
Thiên
Lý Mật Truyền là nơi tiền khai nhập đại tịnh (năm 1935 được cất tạm trên nóc
Thiên Phong Đường). Phòng tịnh vuông vức (3x3m) trên lầu ba. Trong phòng vỏn
vẹn một bàn thờ Đức Chí Tôn, một ghế ngồi tịnh, và một cái “đơn” để nằm nghỉ.
Khi vệ sinh cá nhân, tiền khai đi xuống từng lầu giữa. Thiên Lý Mật Truyền để
đôi liễn: Bảo mạng tùy nguơn hành chánh
pháp.\ Thiên khai Đại Đạo thủ chơn truyền.
Phía sau Thiên Lý Mật Truyền là Tịnh Xá cho người
tu bậc thượng thừa đến thọ pháp và thiền định.
Tiểu Sử Đức Giáo Tông
Nguyễn Ngọc Tương, tr. 62.
([44]) Nhật ký hành pháp: 15-11 Tân
Tỵ (TT): Nhập thiền định, ăn uống như thường trong tuần đầu.\ 22-11 TT: Ăn một bữa cơm trưa, hai bữa
ăn trái cây.\ 27-11 TT: Tu thêm lên
một bực nữa, thượng sớ nhập đại tịnh.\ 12-12
TT: Đại tịnh, ngồi được khá mà còn phóng tâm.\ 15-12 TT: Đại tịnh, không ăn uống.\ 16-12 TT: Đại tịnh.\ 17-12 TT:
Đại tịnh.\ 19-12 TT: Ăn một bữa cơm,
một bữa cháo.\ 22-12 TT: Ra tịnh. (Tiểu Sử Đức Giáo Tông Nguyễn Ngọc Tương,
tr. 59.)
([45]) Nhật ký hành pháp: 22-02 Nhâm
Ngọ (NN): Nhập tịnh.\ 23 và 24-02 NN:
Hành pháp.\ 25-02 NN: Đắc đạo, có gió mưa, sấm nổ.\ 26 đến 28-02 NN: Có mùi thơm đưa đến.\ 29-02 NN: Hành pháp.\ 01 đến
03-3 NN: Hành pháp.\ 04-3 NN: Đắc
phong vị Lý Giáo Tông, có dông mưa.\ 17-03
NN: Hành pháp.\ 25-3 NN: Được
chấm đậu hoàn toàn, đi chầu Thầy và các Đấng thiêng liêng.\ 27 đến 29-3 NN: Hành pháp.\ 16-5 NN:
Hành pháp xuất thần.\ 18-5 NN: Xuất
chơn thần về Bạch Ngọc Kinh.\ 09-6 NN:
Khởi sự khử trược.\ 17-6 NN: Khử
trược phục khí.\ 22-6 NN: Phục khí
tiên thiên.\ 01-7 NN: Còn khử trược, phục khí tiên thiên.\
17-7 NN: Cũng còn khử trược, phục khí
tiên thiên.\ 01-8 NN: Cũng còn đem
tiên thiên đổi lấy hậu thiên. (Tiểu Sử
Đức Giáo Tông Nguyễn Ngọc Tương, tr. 63-64.)
([50]) Ngày 08-01-1938, Tòa Thánh Vatican
thành lập giáo phận Vĩnh Long, gồm ba tỉnh Vĩnh Long, Trà Vinh, Bến Tre, và hai
quận thuộc tỉnh Cần Thơ. Tòa Thánh bổ nhiệm linh mục Phêrô Máctinô Ngô Đình
Thục (1897-1984) làm giám mục giáo phận Vĩnh Long, lễ tấn phong tại nhà thờ
Chính Tòa Phủ Cam (Huế) ngày 04-5-1938. Ngày 12-4-1961 Ngô Đình Thục bắt đầu
làm tổng giám mục phụ trách tổng giáo phận Huế.
([52]) Ông Nguyễn Ngọc Bích
sinh năm 1911 tại làng An Hội, tổng Bảo Hựu (nay là phường 5, thành phố Bến
Tre), qua Pháp học trường Bách Khoa (Polytechnique)
tại Paris. Tốt nghiệp kỹ sư cầu cống, ông về nước làm việc ở Sở Thủy Lợi của
tỉnh Sóc Trăng cho đến ngày Nhật đảo chánh Pháp. Sau ngày toàn quốc kháng chiến
(19-12-1946) ông tham gia kháng chiến, làm Khu Bộ Phó của Khu 9 (Tây Nam Bộ).
Đầu năm 1947, giặc Pháp càn quét ở Sóc Trăng, ông bị bắt làm tù binh. Năm 1948,
ông bị cưỡng bách đưa về Pháp (vì có quốc tịch Pháp). Tại Paris, ông mở nhà
xuất bản Minh Tân, in được
nhiều tác phẩm giá trị. Ông lấy thêm bằng bác sĩ, chuyên khoa ung thư. Ông mất
năm 1966 tại Thủ Đức vì ung thư, an táng tại Bến Tre, gần bào đệ Nguyễn Ngọc
Nhựt.
([58]) Ông Nguyễn Ngọc Nhựt sinh ngày 15-9-1918
tại làng An Hội (nay là phường 5, thành phố Bến Tre), du học ở Pháp, đậu bằng
kỹ sư tạo tác, làm chuyên viên kỹ thuật cho các hãng buôn của Pháp trong nhiều
năm. Vợ là con một kỹ sư người Pháp.
Năm
1946, ông tìm cách về nước để tham gia kháng chiến. Nhờ người anh là kỹ sư
Nguyễn Ngọc Bích (nguyên Khu Bộ Phó của Khu 9, bị Pháp bắt đưa sang quản thúc
tại Pháp năm 1948) giúp đỡ, ông Nhựt làm căn cước giả, trà trộn trong số lính
thợ Việt Nam (ONS: Ouvrier Non Spécialisé),
đáp tàu thủy về Sài Gòn.
Đầu
năm 1947, ông Nhựt ra vùng kháng chiến tại chiến khu Đồng Tháp Mười.
Năm
1948, ông được cử làm ủy viên Ủy Ban Kháng Chiến Hành Chánh Nam Bộ, phụ trách
công tác thương binh và xã hội.
Ngày
02-6-1949, trong một trận càn của quân Pháp ở Đồng Tháp Mười, ông bị bắt tại
Cái Bèo (tỉnh Sa Đéc, nay là tỉnh Đồng Tháp). Ông khai là Nguyễn Văn Huyện,
giáo viên bình dân học vụ, nhưng quân Pháp đã điều tra được thân thế của ông.
Sau nhiều cố gắng mua chuộc, dụ hàng bị thất bại,
quân Pháp tra tấn ông dã man, tiêm thuốc cho ông rối loạn thần kinh. Sau hai
lần chuyển nhà tù, ông bị giặc Pháp đưa về giam ở nhà thương điên Biên Hòa,
không được chữa trị. Tại đó, ông hy sinh ngày 16-5-1952.
Chính Phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa truy tặng ông
bằng liệt sĩ và Huân Chương Kháng Chiến hạng nhất.
([63]) Tiểu sử Đức Giáo Tông Nguyễn Ngọc Tương, tr. 87.
► Quý đạo hữu gần xa muốn nhận các kinh sách do Chương
Trình Chung Tay Ấn Tống Kinh Sách Đại Đạo xuất bản, được gởi biếu qua bưu điện,
xin vui lòng gởi e-mail về: daidaovanuyen@gmail.com
Và xin quý đạo hữu hoan hỷ trả giúp cước phí cho bưu điện ngay khi nhận được sách biếu.
Và xin quý đạo hữu hoan hỷ trả giúp cước phí cho bưu điện ngay khi nhận được sách biếu.
Ban Ấn Tống trân trọng cảm ơn quý đạo hữu.