PHỤ LỤC
Theo Ðại Nam Nhất Thống
Chí của Quốc Sử Quán triều Nguyễn, vào năm Mậu Dần (1698) chúa Nguyễn Phúc
Chu cho lập phủ Gia Định. Năm Nhâm Tuất (1802) vua Gia Long đổi phủ Gia Định
thành trấn Gia Định; đến năm Mậu Thìn (1808) đổi tên trấn Gia Định ra thành Gia
Định gồm năm trấn là Phiên An, Biên Hòa, Định Tường, Vĩnh Thanh, Hà Tiên.
Năm Minh Mạng thứ 13 (Nhâm Thìn, 1832) vua Minh Mạng đổi tên
thành Gia Định ra thành Phiên An, năm
trấn chia thành sáu tỉnh Phiên An, Biên Hòa, Định Tường, Vĩnh Long, An Giang,
Hà Tiên. Như vậy tên Lục Tỉnh đã có từ năm 1832. Hai năm sau (Giáp Ngọ, 1834),
Lục Tỉnh được gọi chung là Nam Kỳ. Năm Ất Mùi (1835), tỉnh Phiên An đổi tên là
tỉnh Gia Định.([2])
Sau khi chiếm xong ba tỉnh miền Đông gồm Gia Định, Định
Tường, Biên Hòa (Nhâm Tuất, 1862) và ba tỉnh miền Tây gồm Vĩnh Long, An Giang,
Hà Tiên (Đinh Mão, 1867), thực dân Pháp xóa bỏ cách phân chia địa giới hành
chánh cũ của triều Nguyễn.
Lúc đầu Pháp gọi département
thay cho phủ, gọi arrondissement thay
cho huyện.([3])
Khoảng năm Mậu Thìn (1868), Nam Kỳ Lục Tỉnh có hơn hai mươi arrondissement (gọi là hạt hay địa hạt, do tham biện cai
trị, dinh hành chánh gọi là tòa tham biện,
chịu dưới quyền thống đốc đóng ở Sài Gòn, thư ký địa hạt cũng gọi là bang biện tức là secrétaire d’arrondissement).
Nghị định ngày 07-6-1871 thu hẹp lại còn mười tám hạt; rồi
tăng lên mười chín (1876); tăng lên hai mươi (1880); bỏ hạt hai mươi (1881);
rồi lại lập thêm hạt Bạc Liêu (1882) và hạt Cap Saint Jacques (1895) thành hai
mươi mốt arrondissement.
Nghị định ngày 16-01-1899 đổi tên hạt thành tỉnh (province), tham biện đổi thành chủ tỉnh (chef de province), tòa tham
biện gọi là tòa bố.
Vài chục năm sau mới chia tỉnh ra quận (délégation) dưới quyền chủ
quận; quận chia ra tổng (canton),
đứng đầu là cai tổng (chef de
canton). Tổng chia thành xã.([5])
Do có thay đổi tên theo nghị định 1899, dân Nam Kỳ thời trước
còn gọi viên chức đầu tỉnh là quan tham
biện chủ tỉnh; người thông ngôn cho chủ tỉnh được gọi là thông ngôn đứng bàn ông chánh.([6])
Như vậy, do nghị định 1899, từ năm Kỷ Hợi (1899), Lục Tỉnh của Nam Kỳ chia
thành hai mươi mốt tỉnh như sau:
- Gia Định chia thành năm tỉnh: Gia Định, Chợ Lớn, Tân An,
Tây Ninh, Gò Công.
- Biên Hòa chia thành bốn tỉnh: Biên Hòa, Bà Rịa, Thủ Dầu
Một, Cap Saint Jacques (tức Vũng Tàu).
-
Định Tường đổi thành Mỹ Tho.
-
Vĩnh Long chia thành ba tỉnh: Vĩnh Long, Bến Tre, Trà Vinh.
- An Giang chia thành năm tỉnh: Châu Đốc, Long Xuyên, Sa Đéc,
Sóc Trăng, Cần Thơ.
- Hà Tiên chia thành ba tỉnh: Hà Tiên, Rạch Giá, Bạc Liêu.
Chia lại đất Nam Kỳ thành hai mươi mốt tỉnh,([7])
có lẽ thực dân Pháp muốn xóa nhòa hai chữ Lục Tỉnh trong lòng người Việt, cũng
là cách cắt đứt lòng lưu luyến với truyền thống, một thủ đoạn tâm lý bên cạnh
các cuộc đàn áp những phong trào yêu nước kháng chiến.
Nhưng dân Nam Kỳ vẫn hoài vọng Lục Tỉnh. Nên mãi đến năm Mậu
Thân (1908) trên tờ báo Lục Tỉnh Tân Văn do
ông Gilbert Trần Chánh Chiếu làm chủ bút, vẫn xuất hiện thường xuyên tên Lục
Tỉnh, Lục Châu. Mùa Thu năm Bính Dần (1926), khi khởi đầu công cuộc phổ độ ở
miền Nam, các vị tiền khai đạo Cao Đài đã gọi đó là cuộc phổ độ Lục Tỉnh. Mãi đến
thập niên 50 và 60, ở miền Nam cũng còn nói, nhắc đến hai chữ Lục Tỉnh xa xưa
này.
Thực dân Pháp bỏ tên Lục Tỉnh nhưng còn
giữ lại hai chữ Nam Kỳ, gọi là Cochinchine,
phân biệt với Bắc Kỳ là Tonkin, Trung
Kỳ là Annam. Người Anh, Mỹ cũng gọi
Nam Kỳ là Cochinchina. Giới học giả
trong và ngoài nước từng đưa ra nhiều cách lý giải khác nhau về xuất xứ tên gọi
Cochinchine, nhưng vẫn chưa ngã ngũ.([8])
1. Thống Đốc
và Thanh Tra
Đứng đầu bộ máy hành chánh Nam Kỳ thời Pháp chiếm là Thống Đốc Nam Kỳ (Gouverneur de la
Cochinchine). Viên chức này do Toàn Quyền Đông Pháp, tức Đông Dương thuộc Pháp,
giới thiệu và được Tổng Trưởng Thuộc Địa bổ nhiệm.
Toàn Quyền còn cử thêm một viên chức lưu động, hàng năm thanh
tra các tỉnh một lần và báo cáo cho Thống Đốc. Đó
là Thanh Tra Chánh Trị Và Hành Chánh Sự
Vụ (Inspecteur des Affaires politiques et administratives).
2. Soái Phủ
Trụ sở của Thống Đốc đặt tại Sài Gòn (về sau gọi là Dinh Gia
Long). Người miền Nam quen gọi là Soái
Phủ Nam Kỳ (Gouvernement des Amiraux), vì cho tới năm 1878 nó còn là dinh
của một quan võ Pháp, hàm Lieutenant-Gouverneur, tức Phó Soái. Kể từ năm 1879 mới thay quan võ bằng quan văn, và Thống
Đốc Nam Kỳ (dân sự) đầu tiên là Le Myre de Vilers. Mãi đến năm 1926, khi nói
tới Quyền Thống Đốc Le Fol, người Nam Kỳ vẫn còn lẫn lộn gọi là Thống Soái, Phó
Soái, dù ông không phải là sĩ quan.
3. Chủ Tỉnh,
Chủ Quận, Tri Phủ, Tri Huyện
Ở Trung Kỳ và Bắc Kỳ, tỉnh chia thành nhiều phủ, đứng đầu là tri phủ; phủ chia thành nhiều huyện,
đứng đầu là tri huyện. Ở Nam Kỳ, tỉnh
chia thành nhiều quận, đứng đầu là chủ quận. Quận chia thành nhiều tổng, đứng đầu là cai tổng (chef de canton). Tổng chia thành nhiều làng.
Chủ tỉnh là người Pháp. Do Nghị định ngày
15-02-1898, chủ quận được tuyển trong số viên chức hành chánh người Việt nào đã
có ngạch huyện, phủ, đốc phủ sứ. Cho nên tri huyện, tri phủ ở Nam Kỳ chỉ là
ngạch trật về hành chánh, không phải là quan chức như ở Trung Kỳ và Bắc Kỳ, nhưng
người miền Nam quen gọi chủ quận là quan phủ, quan huyện. Những viên chức người
Việt này xuất thân là thơ ký, có thể có một ít vốn chữ Nho, học ở trường làng
trước khi vào học chương trình Pháp ở collège de Mỹ Tho (nay là trường Nguyễn
Đình Chiểu) và trường Bổn Quốc ở Sài Gòn, tức là lycée Chasseloup-Laubat, sau
đổi tên thành Jean Jacques Rousseau (nay là trường Lê Quý Đôn). Phần lớn các
bậc tiền khai đạo Cao Đài đã xuất thân từ hai trường học này. Hai trường trung
học lớn khác là Petrus Ký ở Sài Gòn và collège de Cần Thơ.
4. Collège de Mỹ Tho
Nghị
định ngày 17-3-1879 của Thống Đốc Nam Kỳ Le Myre de Vilers thành lập collège de Mỹ Tho
tại tỉnh Mỹ Tho (nghị định bổ sung ngày 14-6-1880). Ngày
02-12-1942, trường đổi tên là collège Le Myre de Vilers. Do nghị định
179-NÐ ngày 22-3-1953 của Tổng Trưởng Giáo Dục Nguyễn Thành Giung, trường đổi
tên là trung học Nguyễn Ðình Chiểu cho tới nay. Ông Giung sinh năm 1894 tại Sa
Đéc, lấy tiến sĩ vạn vật học tại Marseille (Pháp), làm Tổng Trưởng Bộ Giáo Dục
nhiệm kỳ 1952-1953 thời Bảo Đại làm Quốc Trưởng Quốc Gia Việt Nam (l’État du
Việt Nam). Bấy giờ Thủ Tướng là Nguyễn Văn Tâm, nhiệm kỳ từ 23-6-1952 đến
07-12-1953.
Charles Marie le Myre de Vilers là cựu tỉnh
trưởng (préfet), cựu giám đốc dân sự
vụ (directeur des affaires civiles) ở
Algérie, được bổ làm Thống Đốc Nam Kỳ ngày 13-5-1879, nhậm chức từ 07-7-1879 đến
11-01-1883, vắng mặt ở Sài Gòn từ 04-3-1881 đến 31-10-1881. (Xem: Commission
française du Guide des Sources de l’Histoire des Nations, Sources de l’Histoire de l’Asie et de l’Océanie dans les Archives et
Bibliothèques françaises. Part I: Archives. [Ouvrage préparé avec l’aide et
sous les auspices de l’Unesco.] München: K.G. Saur, 1981, pp. 538-539.) ([10])
5.Collège Chasseloup-Laubat
Lược sử trường Chasseloup-Laubat:
Pháp thành lập école Normale colonial (trường sư phạm thuộc địa, 10-7-1871);
xây trên nền cũ chùa Khải Tường (12-8-1871). Đổi tên thành collège Indigène
(trường bản xứ, 1874). Đổi tên thành collège Chasseloup-Laubat (1876), chia ra
khu Âu (quartier européen) và khu bản
xứ (quartier indigène). Tách khu bản
xứ nhập sang collège de Cochinchine (trung học Nam Kỳ, 15-7-1927). Collège de
Cochinchine đổi tên thành lycée Petrus Ký, còn collège Chasseloup-Laubat đổi
tên thành lycée Chasseloup-Laubat (1928). Từ 1966 tới nay lycée
Chasseloup-Laubat đổi tên là trường trung học Lê Quý Đôn.
Chasseloup-Laubat là Bộ Trưởng Hải Quân và
Thuộc Địa của triều đình Pháp, chủ trương chiếm Sài Gòn để làm căn cứ thuận lợi
cho quân viễn chinh Pháp ở Viễn Đông. Ông ta tác động vua Napoléon III rất nhiều
trong chính sách xâm lược, cướp Nam Kỳ làm thuộc địa.([11])
SÁCH
THAM KHẢO
Huệ Khải, Đất Nam
Kỳ - Tiền Đề Pháp Lý Mở Đạo Cao Đài. Hà Nội: Nxb Tôn Giáo 2010.
Huệ Khải, Ngô Văn
Chiêu - Người Môn Đệ Cao Đài Đầu Tiên. Hà Nội: Nxb Tôn Giáo 2012.
Huệ Nhẫn, Lịch Sử Đạo Cao Đài. Quyển II. Hà Nội: Nxb Tôn Giáo 2008.
Nguyễn Như Lân, 200 Năm Dương Lịch Và Âm Lịch Đối Chiếu (1780-1980). Sài Gòn: Nxb
Khai Trí 1968.
Nguyễn Thế Anh, Việt Nam Dưới Thời Pháp Đô Hộ. Sài Gòn: Nxb Lửa Thiêng 1970.
Nha Khí Tượng Việt Nam, Lịch Thế Kỷ XX (1901-2000). Hà Nội: Nxb Phổ Thông, 1976.
Thánh thất An Hội (Bến Tre), Châu Tri Chỉnh Đạo 1934-1936. Sài Gòn: Nhà in Hòa Chánh 1954.
[Thánh thất An Hội (Bến Tre),] Tiểu Sử Đức Giáo
Tông Nguyễn Ngọc Tương 1881-1951. Sài Gòn: Nhà in Hòa Chánh 1958.
([5]) Theo Bulletin de la Société des Études Indochinoises (Nouvelle série,
Tome XX). Sài Gòn: 1945, p. 16-35; và theo Nguyễn Đình Đầu, “Địa Bàn Thành Phố Qua Các Thời Kỳ”, in
trong Địa Chí Văn Hóa Tp.HCM. Nxb Tp.HCM, 1988, tr. 485-486.
Theo Đào Văn Hội, Lịch Trình Hành Chánh
Nam Phần. Sài Gòn: 1961, Chương IV, tham biện là inspection; viên chức trông coi inspection gọi là inspecteur hay résident. Về tên bang biện,
xem Paulus Huình Tịnh Của, Sách Quan Chế.
Sài Gòn: Bản in Nhà nước, 1888, tr. 15.
([8]) Để tham khảo, sau đây là cách giải thích
của Nguyễn Đình Đầu (“Thay lời giới thiệu”,
in trong: Pierre Pegneaux de Béhaine [Bá Đa Lộc Bỉ Nhu], Tự Vị An Nam La Tinh. Hồng Nhuệ Nguyễn Khắc Xuyên dịch và giới
thiệu. Nxb Trẻ, 1999, tr. 5-6.):
“Chúng ta có thể
tóm tắt: địa danh COCINCINA chia ra làm hai phần COCIN và CINA. Cocin nguyên
trước là Co Ci, do phiên âm hai tiếng Giao Chỉ mà thành (vì thế Tự Vị An Nam La Tinh mới dịch Người Giao Chỉ là Cocincinenses). Còn Cina thì bởi
âm Sin hay Ts’inn và người mình đọc là Tần mà ra. Bên Ấn Độ có một thành phố
tên COCHIN, sợ lẫn với Cochi hay Cochin, nên phải ghi rõ “Giao Chỉ (gần) Tần”
và chữ La Tinh ghi thành COCINCINA (mà người Nhật hay Trung Hoa ghi ra Giao Chỉ
Chi Na). Trên các bản đồ Tây phương vẽ Đông Nam Á, từ trước cho tới thế kỷ
XVII, đều ghi trên địa phận nước ta tên COCINCINA, CAUCHINCHINA, COCHINCHINA,
COCHINCHINE hoặc dạng tự nào đại khái như thế để nói lên đó là xứ GIAO CHỈ GẦN
NƯỚC TẦN. Do đó, ta có thể đoán địa danh ấy đã xuất hiện từ khi nước ta gọi là
quận Giao Chỉ bị nhà Tần đô hộ.
“Từ đầu thế kỷ
XVII, hai họ Trịnh-Nguyễn tranh giành quyền lực, phân chia nước ta thành hai
vùng cai trị Đàng Trong và Đàng Ngoài, lấy sông Gianh làm ranh giới phân ly.
Trên bản đồ cũng như trong văn kiện, người Tây phương gọi Đàng Ngoài là TUNQUYN
(hoặc nhiều dạng tương tự như TUMQUYN, TUNKIN, TONGKING, TONKIN...) tức lấy tên
thủ đô ĐÔNG KINH để gọi bao quát cả Đàng Ngoài. Còn Đàng Trong thì họ vẫn dùng
tên cũ COCINCINA mà gọi. Đàng Trong dưới thời Đắc Lộ (Từ Điển Việt-Bồ-La) rộng từ sông Gianh tới núi Đá Bia ở dinh Phú
Yên. Trên một thế kỷ sau – thời của Bỉ Nhu với Tự Vị An Nam La Tinh –, địa danh
COCINCINA lại chỉ thêm phần đất phương nam rất rộng lớn. Phần Nam Bộ xưa được
mệnh danh là xứ Đồng Nai. Năm 1698, xứ Đồng Nai được thiết lập phủ huyện. Phủ
GIA ĐỊNH tồn tại suốt từ đó đến năm 1800 và bao gồm toàn thể đất Nam Bộ. (...)
Lại từ sau 1885, khi Pháp đã chiếm hết Việt Nam, Pháp chia cắt nước ta thành ba
khúc và mệnh danh:
TONKIN
là BẮC KỲ
ANNAM là
TRUNG KỲ
COCHINCHINE
là NAM KỲ
“Cả ba địa danh
Đông Kinh, An Nam, Giao Chỉ (gần) Tần đã bị Tây ngữ hóa và đặt tên cho những
phần đất chẳng ăn nhằm gì với ý nghĩa của nguyên ngữ.”
Huệ
Khải nói thêm: COCHIN mà Nguyễn Đình Đầu
nói tới là một cảng trên bờ biển Malabar ở tây nam Ấn Độ, là nơi người phương
Tây đặt chân lên nước Ấn trước tiên. Cảng bị thực dân Bồ Đào Nha chiếm từ năm
1502.
([11]) Huệ Khải,
Ngô Văn Chiêu - Người Môn Đệ Cao Đài Đầu
Tiên, tr. 39.
► Quý đạo hữu gần xa muốn nhận các kinh sách do Chương
Trình Chung Tay Ấn Tống Kinh Sách Đại Đạo xuất bản, được gởi biếu qua bưu điện,
xin vui lòng gởi e-mail về: daidaovanuyen@gmail.com
Và xin quý đạo hữu hoan hỷ trả giúp cước phí cho bưu điện ngay khi nhận được sách biếu.
Và xin quý đạo hữu hoan hỷ trả giúp cước phí cho bưu điện ngay khi nhận được sách biếu.
Ban Ấn Tống trân trọng cảm ơn quý đạo hữu.