HUỆ KHẢI
(Dũ Lan LÊ
ANH DŨNG)
ĐẤT NAM KỲ - TIỀN ĐỀ
VĂN HÓA
MỞ ĐẠO CAO ĐÀI
In lần thứ ba / Third
edition
Nhà xuất bản TÔN
GIÁO, Hà Nội 2012
TRI ÂN
Chuyên khảo này nguyên là bài nói chuyện tại Cơ quan Phổ
thông Giáo lý Đại đạo vào ngày 08-11-1999 (01-10 Kỷ Mão). Sau đó, một phần nội
dung chủ yếu đã lần lượt đăng trên tạp chí Nghiên
cứu và Phát triển (Huế, hai số quý 2 và quý 3-2004), và tạp chí Văn hóa Nghệ thuật (Hà Nội, hai số tháng
9 và tháng 10-2004).
(...) Sau cùng, tôi xin cảm ơn tất cả các
tác giả có tác phẩm được trích dẫn trong chuyên khảo này. Các thông tin khả tín
của các vị ấy đã giúp bài viết của tôi được phong phú thêm rất nhiều.
Huệ Khải
Tháng 01-2008
------------
I. LỜI MỞ
Trong chuyên khảo Peasant
politics and religious sectarianism: Peasant and priest in the Cao Dai in Viet Nam (Chính trị nông dân và giáo phái:
Nông dân và thầy tu trong đạo Cao Đài ở Việt Nam ), Jayne Susan Werner viết: “Đạo Cao Đài được thành lập ở Sài Gòn năm
1925 (...). Không lâu sau khi thành lập,
tôn giáo mới này đã có được đông đảo tín đồ ở khắp cả Nam Kỳ.” ([1])
Căn cứ theo “Số ước lượng
tín đồ Cao Đài do Thống đốc Nam
Kỳ cho biết, trong một báo cáo gởi Toàn quyền Đông Dương ngày 14-12-1934. Hồ sơ
riêng của Thống đốc Pagès”([2])
Werner viết: “Vào khoảng năm 1930, có từ
năm trăm ngàn tới một triệu nông dân theo Đạo, trong lúc tổng số dân là từ bốn
tới bốn triệu rưỡi.” ([3])
Con số nửa triệu hay một triệu
tín đồ như dẫn trên trong thực tế đã từng gây ra nhiều tranh luận. Như một tổng
kết sơ bộ, Victor L. Oliver viết:
“Số liệu thống kê về sự phát triển của đạo Cao Đài trong những năm đầu
tiên thì lộn xộn và không đáng tin cậy. Nguyễn Văn Tâm nói rằng Đạo có được gần
30.000 người nhập môn trong sáu tháng. Cho tới tháng 10-1926 số tín đồ đã tăng
lên 50.000 người.([4])
Vốn hay công kích đạo Cao Đài, Duncanson
nói bóng gió rằng ông Lê Văn Trung là người hợp đồng thuê nhân công nên đủ sức
huy động 50.000 người có mặt tại lễ Khai minh Đại đạo. Duncanson ám chỉ rằng những
thành viên ấy phải được coi là những ‘tín đồ’ khả nghi.([5])
Trong năm 1928 ông Lê Văn Trung khẳng định
có trên một triệu tín đồ. Cùng năm này, nhật báo L’Opinion công bố con số 700.000 người. Bác bỏ con số
này, trên báo La Presse indochinoise Maurice
Monribot viết rằng chỉ có chừng 200.000 tín đồ mà thôi.([6])
“Nguyễn Trần Huân viết rằng cho tới năm 1931 đạo Cao Đài có khoảng
500.000 tín đồ.([7])
Các cây bút khác đã bất đồng với nhau về
con số ước tính này. Chẳng hạn, Ellen J. Hammer tin rằng đạo Cao Đài cho tới
năm 1930 đã có trên một triệu tín đồ;([8]) Meillon trong Les Messages spirites nói rằng cho tới năm 1930 số tín đồ Cao Đài chiếm khoảng một phần tám
(500.000) tổng số dân miền Nam;([9]) G. Abadie viết rằng vào năm 1932, số tín đồ
Cao Đài ở Nam
Kỳ lên tới con số ‘hơn một triệu người trong lúc số dân là ba triệu rưỡi.’ ([10])
“Bất đồng quan điểm về
sức mạnh thực sự của đạo Cao Đài thể hiện bằng số lượng tín đồ từ năm 1925 đến
năm 1932 dường như cho thấy về phía một số người đã có thái độ miễn cưỡng không
muốn thừa nhận sự thành công của đạo Cao Đài. Về phía khác, những tuyên bố cường
điệu của những người khác gợi cho thấy một tư thế phòng vệ khi đối diện với sự
công kích. Những số ước tính được thổi phồng này là một cố gắng nhằm cường điệu
mạnh hơn nữa sự thành công của đạo Cao Đài và nhằm cải thiện hình ảnh của tôn
giáo này đối với công chúng.” ([11])
Sau khi biện giải như thế, Victor L. Oliver khẳng định: “Tác giả tin rằng vào năm 1930 số tín đồ Cao
Đài (gồm cả người lớn và trẻ em) ước tính dè dặt là 500.000 người. Trong bất kỳ
trường hợp nào, thậm chí với những con số ước tính khiêm tốn nhất chăng nữa, sự
phát triển mau lẹ của đạo Cao Đài trong những năm đầu tiên vẫn có ý nghĩa quan
trọng.”([12])
Cùng quan điểm với Oliver, khi chấp nhận số lượng tín đồ từ nửa
tới một triệu vào năm 1930, Werner khẳng định rằng: “Đạo Cao Đài là phong trào quần chúng rộng lớn xuất hiện đầu tiên ở Nam Kỳ...” ([13])
Tại sao đạo Cao Đài lại ra đời ở Nam Kỳ và lớn mạnh mau lẹ ở
Nam Kỳ vào đầu thế kỷ 20 chứ không phải là một miền đất khác, và vào một thời
gian khác? Có thể nêu ra một trong nhiều yếu tố giúp giải đáp câu hỏi trên, đó
là: Nam Kỳ có đủ một tiền đề văn hóa thích hợp để mở đạo Cao Đài.
Theo Thạch Phương, đặc tính văn hóa nổi trội của Nam Kỳ là: cởi
mở trong giao lưu, nhạy bén với cái mới; thấm nhuần một tinh thần dân chủ, bình
đẳng; nhân nghĩa, bao dung; không chịu gò bó trong những khuôn mẫu phong kiến cứng
ngắc.([14])
Vậy, phải chăng những đặc tính đó đã khiến cho người Nam Kỳ sớm dễ dàng chấp nhận
được đạo Cao Đài, cho dù tôn giáo mới này có nhiều khác lạ hơn các tôn giáo sẵn
có từ xưa?
Ngoài ra, những điều kiện thiên nhiên đặc thù của Nam Kỳ không
thể không tác động và để lại dấu ấn đậm nét trong đời sống vật chất, tinh thần
và tâm linh của người dân Nam Kỳ. Trần Thị Thu Lương và Võ Thành Phương thấy rằng:
“Trong bối cảnh mà những tôn giáo lớn của
thế giới không có điều kiện để gây ảnh hưởng mạnh thì mảnh đất Nam Bộ [Nam
Kỳ] thế kỷ 18-19 (thậm chí là cả khi sang
thế kỷ 20) là nơi thuận lợi cho các tôn giáo địa phương có điều kiện nảy sinh...”
([15])
Do đó, khi khảo sát sự ra đời và phát triển của đạo Cao Đài ở
Nam Kỳ, cũng cần quan tâm tìm hiểu bối cảnh đất nước, con người đã sinh thành
và dưỡng nuôi đạo Cao Đài, một tôn giáo có nguồn gốc bản địa nhưng từ khi mới
hình thành đã sớm đặt lý tưởng phổ độ toàn cầu.
*
Nhan đề chuyên khảo này nói tới địa danh Nam Kỳ.
Sao lại là Nam Kỳ thay vì Nam Bộ hay một cái tên nào khác?
Khảo sát lịch sử ra đời những tên gọi cho miền đất phương Nam
của Tổ quốc, có thể xác định năm 1834 (đời vua Minh Mạng) địa danh Nam Kỳ bắt đầu
xuất hiện, theo nghĩa Kỳ 圻 là một cõi đất; Nam Kỳ là cõi đất phương Nam. Mãi đến tháng
5-1945, sau khi phát xít Nhật lật đổ thực dân Pháp (09-3) báo chí mới bắt đầu
dùng tên gọi Nam Bộ thay cho Nam Kỳ,([16])
theo nghĩa Bộ 部 là một phần; Nam Bộ là một phần đất nước ở phía Nam.([17])
Đạo Cao Đài chính thức ra đời năm 1926, khi ấy cái tên Nam Bộ
chưa hề có. Như thế, danh xưng Nam Kỳ trong chuyên khảo này hoàn toàn hợp lý.([18])
Ở đây tên gọi Nam Kỳ được tạm hiểu là cái tên mang tính văn hóa, nó liên hệ thời
gian từ những năm 20 của thế kỷ 20 (khi đạo Cao Đài ra đời) trở ngược về thế kỷ
17 (thời Nam tiến khẩn hoang, phá rừng dựng nước của các thế hệ lưu dân triều
Nguyễn) chứ không chỉ hạn định từ năm 1834 trở đi, khi danh xưng Nam Kỳ Lục Tỉnh
chính thức đi vào lịch sử dân tộc.
*
Trên đây nói rằng Nam Kỳ là cái tên mang tính văn
hóa nhằm tách nó ra khỏi những ý nghĩa về chính trị và lịch sử. Còn từ văn hóa trong cụm từ tiền đề văn hóa của nhan đề được dùng
theo ý nghĩa nào?
Tôi muốn hiểu nó theo ý nghĩa đã được cộng đồng quốc tế chấp
nhận tại Hội nghị liên chính phủ về các chính sách văn hóa họp năm 1970 tại
Venice, mà Federico Mayor, Tổng giám đốc UNESCO, nhắc lại như sau: “... văn hóa bao gồm tất cả những gì làm cho
dân tộc này khác với dân tộc khác, từ những sản phẩm tinh vi hiện đại nhất cho
đến tín ngưỡng, phong tục tập quán, lối sống và lao động.” ([19])
Theo ý nghĩa đó, tiền đề
văn hóa được hiểu là tất cả những điều kiện cần thiết có trước về văn hóa để
cho đạo Cao Đài khi mới xuất hiện chẳng những vừa phù hợp với nếp sống, phong tục
tập quán, tín ngưỡng người dân Nam Kỳ mà lại vừa có sắc thái khác hơn các hình
thức tín ngưỡng sẵn có tại Nam Kỳ, cái nôi của nền tôn giáo mới này.
*
Khi thấy rằng tiền đề văn hóa đó là cái riêng (đặc
thù) của phương Nam thì, nói
như Sơn Nam , cũng sẽ “hiểu thêm tại sao miền Nam có vài sắc
thái tôn giáo mà ngoài Bắc ngoài Trung không có...” ([20]) Bởi lẽ, như Đinh Văn Hạnh đã nhìn thấy,
ở Nam Kỳ vốn có sẵn “những tiền đề sâu xa
đưa đến những đặc điểm về đời sống văn hóa tinh thần và tâm linh của người Việt”
trên miền đất này.([21])
Bước đầu tìm hiểu tiền đề văn hóa mở đạo Cao Đài ở Nam Kỳ, chuyên
khảo này chỉ mới tạm xét đến năm khía cạnh sau:
i. Tính mở của địa lý thiên nhiên Nam Kỳ;
ii. Tính mở và động của làng Nam Kỳ;
iii. Tính đa dân tộc và đa tín ngưỡng của đất Nam Kỳ;
iv. Cá tính người Nam Kỳ;
và
v. Nhu cầu tâm linh người
Nam Kỳ.
Trình bày năm khía cạnh
trên, tôi thử chắt lọc, vận dụng, khai thác kết quả các công trình nghiên cứu đã công bố của các nhà khoa học xã hội trong
và ngoài nước. Các tác giả ấy đều ở ngoài cộng đồng Cao Đài và vì thế những ý
kiến của họ đúc kết nơi đây sẽ giúp hiểu thêm một cách khách quan về sự ra đời
của đạo Cao Đài ở Nam Kỳ vào đầu thế kỷ 20.
Nói cách khác, theo nguyên tắc “thuật nhi bất tác” của Khổng Tử, tôi
mong sao mấy lý lẽ trình bày trong chuyên khảo này có thể thoát ra ngoài tư ý
và định kiến chủ quan để may ra góp được phần nào nhận thức về tiền đề văn hóa
của việc mở đạo Cao Đài, một tôn giáo trẻ đã thực sự hiện diện trong đời sống
tâm linh dân tộc qua hơn ba phần tư thế kỷ.
[1]
[Werner 1981: 4]. Lưu ý – Cước chú này cho biết đoạn trích dẫn trên đây mượn
trong một quyển sách của Werner xuất bản năm 1981, trang 4. Về chi tiết của nguồn
tài liệu, xin xem Thư tịch ở cuối
chuyên khảo này.
[2] [Werner 1981: 72].
[3] [Werner 1981: 4].
[4] [Nguyễn Văn Tâm 1949: 4-5].
[5] [Duncanson 1968: 125-126].
[6] [Smith 1970: 341].
[7] [Nguyễn Trần Huân 1958: 273].
[8]
[Hammer 1954: 79].
[9]
[Meillon 1962: 14].
[10]
[Gobron 1950: 103].
[11]
[Oliver 1976: 41-42].
[13]
[Werner 1981: 15].
[14] [Thạch
Phương 1992: 249, 253, 254, 258].
[15] [Trần
Thị Thu Lương 1991: 42].
[16] [Bằng
Giang 1992: 11, 14].
[17] [Bằng
Giang 1992: 11, 14].
[18] Tên gọi
Nam Kỳ nơi đây không liên quan tới giai đoạn lịch sử ngắn ngủi từ 01-6-1946 đến
19-5-1948, là lúc thực dân Pháp dựng lên một chánh quyền bù nhìn. Trong chuyên
khảo này, tôi chủ ý ghi thêm [Nam Kỳ] sau cái tên Nam Bộ trong nguyên văn một số
tác giả được trích dẫn.
[19] http://www.findarticles.com/p/articles/mi_m1310/is_1989_Nov/ai_8171031/pg_2.
[20] [Sơn Nam 1971: VII].
[21] [Đinh
Văn Hạnh 1999: 30].
► Quý đạo hữu gần xa muốn nhận các kinh sách do Chương
Trình Chung Tay Ấn Tống Kinh Sách Đại Đạo xuất bản, được gởi biếu qua bưu điện,
xin vui lòng gởi e-mail về: daidaovanuyen@gmail.com
Và xin quý đạo hữu hoan hỷ trả giúp cước phí cho bưu điện ngay khi nhận được sách biếu.
Và xin quý đạo hữu hoan hỷ trả giúp cước phí cho bưu điện ngay khi nhận được sách biếu.
Ban Ấn Tống trân trọng cảm ơn quý đạo hữu.