5. Tìm hiểu thánh giáo Đức Lý Giáo Tông
5.1. Thánh
giáo
“Nhân sự hiện diện đông đủ của chư hiền đệ, hiền muội hôm
nay, Bần Đạo cũng nêu một vài điều cần cho cơ Đạo hiện hữu để giúp phần nào cho
chư hiền tu thân hành đạo, lập công bồi đức.”
* Suy Niệm 1: Đối tượng của ý thức hệ Cao Đài
Encyclopædia Britannica (như dẫn ở 2.3 trên đây) cho biết: “Một ý thức hệ thì nhắm tới cộng đồng, quốc gia, hay giai cấp.” Bài
giảng về ý thức hệ của Đức Lý không nhắm tới quốc gia hay giai cấp mà nhắm tới
một cộng đồng được mệnh danh là đạo Cao Đài.
Ở đây, trước tiên
cần nên xác định đối tượng. Hầu hết người đạo Cao Đài đều tự hào khi nói tới sứ
mạng cứu độ cho toàn nhân loại mà Thượng Đế ban trao, và là sứ mạng mà thánh
ngôn hay nhắc lại kể từ năm 1926. Tuy nhiên, mấy ai từng tự vấn xem liệu bản
thân người đạo Cao Đài có hội đủ điều kiện để hiện thực sứ mạng cao cả ấy?
Đơn cử một thí dụ,
bản thân tôn giáo Cao Đài vẫn còn trong trình trạng phân ly thì làm sao có thể
kêu gọi nhân loại xây đắp một Đại Đạo không phân biệt, rẽ chia, kỳ thị? Cũng
nên nhớ rằng người phương Tây thích câu nói này, mà họ cho là lời Đức Khổng Tử:
“Chớ càm ràm tuyết phủ mái nhà hàng xóm
khi thềm nhà của mình còn chưa sạch.”
Mặc dù Cao Đài Giáo
và Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ (Cuộc Phổ Độ Lần Thứ Ba Của Đại Đạo) đồng nghĩa, nhưng
từ tôn giáo Cao Đài đến Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ vẫn là một khoảng cách chưa được
thâu ngắn. Thế nên, trong một đàn cơ tại thánh thất Nam Thành ngày Thứ Hai
31-3-1969, Đức Đại Tiên Lê Văn Duyệt dạy: “Trải
qua bao lần vận động, mất bao tâm huyết, bao thời gian, Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ
ngày nay cũng chỉ ru rú trong khung cảnh tôn giáo xa xưa.”
Thế rồi Đức Lê Đại
Tiên dạy tiếp: “Phương tiện mới, mục đích
mới, sứ mạng mới, khả năng mới, nhìn lại trước sau, Đại Đạo vẫn bao gồm những
gì [của những ai] chưa chịu ngước mắt
nhìn lên bầu trời to rộng.”
Thấu hiểu như vậy để
lãnh hội vì sao mở đầu bài giảng đầu năm 1974, Đức Giáo Tông trước tiên liền
xác định ai là đối tượng của ý thức hệ Cao Đài.
5.2. Thánh
giáo
“Chư hiền đệ, hiền muội là những người chức sắc, chức
việc, tín đồ, đạo hữu trong các Hội Thánh, Giáo Hội, thánh thất, thánh tịnh,
đoàn thể trong Đại Đạo thì đã có ít nhiều liên hệ, hãy hiến thân để phục vụ
thánh thể của Đức Chí Tôn. Điều mà Bần Đạo muốn nói hôm nay là hình thể Đạo và
giáo thuyết hay ý thức hệ Cao Đài.”
* Suy Niệm 2: Một phẩm chất đòi hỏi
Mở đầu đoạn này, Đức
Lý xác định thêm lần nữa và chi tiết hơn, rằng đối tượng bài giảng của Ngài là “những người chức sắc, chức việc, tín đồ,
đạo hữu trong các Hội Thánh, Giáo Hội, thánh thất, thánh tịnh, đoàn thể trong
Đại Đạo”. Những người này được mời gọi “hiến
thân”.
Encyclopædia Britannica (như dẫn ở 2.3 trên đây) cho biết: “Có thể nói cả tôn giáo và ý thức hệ đều đòi hỏi sự hy hiến…” Do
đó, không lạ rằng Đức Lý mời gọi con người Cao Đài “hãy hiến thân để phục vụ thánh thể của Đức Chí Tôn”. Nói khác đi,
ai chưa sẵn sàng hiến thân, người ấy khó hiểu được ý thức hệ Cao Đài và không
thể thực thi ý thức hệ này.
“Hiến thân” không có nghĩa là rời khỏi gia đình để cư
trú bên trong các bức tường của bất kỳ một thánh sở Cao Đài nào. “Hiến thân”
mang ý nghĩa vật thể (vật chất) như thế chắc chắn không thể phục vụ cho ý thức
hệ Cao Đài. Vậy thì “hiến thân” thật sự mang ý nghĩa gì? Câu trả lời nêu ra bây
giờ e rằng hơi sớm.
5.3. Thánh giáo
“Hình thể Đạo là
thánh thể của Đức Chí Tôn tại thế. Đại Đạo khai minh qua bốn mươi chín mùa xuân
tô điểm. Những ngôi thánh đường đồ sộ
uy hùng vươn lên khắp nơi, khắp chốn. Dầu trải qua bao nhiêu biến chuyển
của cuộc đời nhưng hình bóng Đạo vẫn
theo thời gian mà xuất hiện. Duy có một điều mà chư đệ muội hầu hết ít
lưu tâm là nhân sự và hành chánh Đạo.”
* Suy Niệm 3: Hai vấn đề tương
liên chặt chẽ
Nói “bốn
mươi chín mùa xuân” là Đức Lý tính
từ mùa xuân 1926 tới mùa xuân 1974, lúc Ngài dạy về ý thức hệ Cao Đài.
Trải qua non nửa thế kỷ
ấy, lịch sử đạo Cao Đài là một phần của lịch sử Việt Nam − một lịch sử mà chiến tranh
nối tiếp chiến tranh, chết chóc chồng lên chết chóc... Bất kể vô số thăng trầm,
vượt qua những giai đoạn gay go nhất, đạo Cao Đài vẫn tồn sinh, để cho “[n]hững
ngôi thánh đường đồ sộ uy hùng vươn lên khắp nơi, khắp chốn”, và cho “hình
bóng Đạo vẫn theo thời gian mà xuất hiện”.
Không ngờ chi cả, đây là điểm mạnh
của Đạo, như lời xác định của Đức Giáo Tông Vô Vi.
Tuy nhiên, thực thể nào ở
thế giới nhị nguyên này mà không có mặt đối lập. Người đạo Cao Đài, như Đức
Giáo Tông chỉ rõ, lẽ ra cần lưu tâm nhiều hơn đến vấn đề “nhân sự và
hành chánh Đạo”.
Hành chánh Đạo là một hệ thống chức sắc, giáo phẩm
tinh vi, mang tính tổ chức vững chắc, từ Tòa Thánh xuống tới các họ đạo. Giáo Sư
Jayne Susan Werner nhận xét: “Hội Thánh Cao Đài cũng được tổ chức quy củ
(…). Mỗi cấp chức sắc Cao Đài đều có được một chức năng nhiệm vụ riêng biệt và
được quy định rõ ràng, mà từng phương diện của chức năng nhiệm vụ ấy đều có một
ý nghĩa biểu trưng.” (Peasant Politics and Religious Sectarianism:
Peasant and Priest in the Cao Dai in Viet Nam . Connecticut :
Monograph series No. 23, Yale University Southeast Asia Studies, 1981, p. 7.)
Tuy nhiên, để có đủ những người đạo xứng đáng ngõ hầu
bổ nhiệm vào các vị trí từ Tòa Thánh xuống tới các họ đạo thì quả thật không hề
đơn giản. Cho nên, khi Đức Lý nói “nhân sự và hành chánh Đạo”, thì
hai vấn đề này tương liên chặt chẽ; nói khác đi, tuy hai mà một.
5.4. Thánh giáo
“Này
chư hiền, Thượng Đế không ngự trị trên vật thể vô tri, mà trái lại Thượng Đế
ngự trong tâm tháp ngà của tâm hồn nhân loại. Hình thể Đạo chỉ mượn đó để thể
hiện thánh thể Chí Tôn tại thế.”
* Suy Niệm 4: Giá trị của bậc
chơn tu hành đạo
“[V]ật thể vô
tri” tức là các kiến trúc được dựng lên để thờ Đức Cao Đài. Sự phủ định “Thượng Đế không ngự trị trên vật thể vô
tri” có thể xem là để khẳng định giá trị của bậc chơn tu hành đạo. Một đền
điện dù nguy nga, tráng lệ đến đâu mà trong đó không có các bậc chơn tu hành
đạo thì chỉ là thể xác vô hồn; nơi đó không có Đức Cao Đài.
“Thượng Đế ngự trong tâm tháp ngà của
tâm hồn nhân loại.” Ở đây Đức Lý Giáo Tông không dùng hai chữ
“tháp ngà” theo nghĩa chúng ta quen hiểu xưa nay.
Thông thường, “tháp ngà” có nghĩa là một tình trạng
tách biệt khỏi những sự thực và thực tế của thế giới thật. Đây là ý nghĩa không
tích cực. Nói rằng một người trốn trong tháp ngà tức là chê bai họ. Trái lại, “tâm tháp ngà” theo lời Đức Lý mang ý nghĩa
tích cực.
Tháp hay đài là kiến trúc xây cao lên để làm nơi
thờ phượng các Đấng thiêng liêng. Tháp
ngà mang nghĩa bóng bảy là bửu
tháp rất quý báu, ví như dùng ngà làm vật liệu xây dựng. "Tâm tháp ngà” vì vậy là ẩn dụ, có nghĩa tâm thánh thiện, rất
quý báu, xứng đáng để Thượng Đế ngự vào.
“Thượng Đế ngự trong tâm tháp ngà của tâm hồn nhân loại.”
Chân
lý này luôn được nhắc nhở trong thánh ngôn, thánh giáo Cao Đài. Chẳng hạn, ngày
Thứ Bảy 13-02-1926, Đức Cao Đài dạy:
Bạch Ngọc từ xưa
đã ngự rồi,
Chẳng cần hạ giới
vọng cao ngôi.
Bần sang trối mặc tâm là quý,
Tâm ấy tòa sen của Lão ngồi.
Đức Lý Giáo Tông
dạy: “Hình thể Đạo chỉ mượn đó để thể
hiện thánh thể Chí Tôn tại thế.” Nói khác đi, nếu một thánh sở Cao Đài
thiếu các bậc chơn tu hành đạo, nơi ấy làm sao thể hiện được thánh thể Đức Chí
Tôn tại thế, và bởi vậy, có ai cần “mượn” nơi đó?
Thế nào là một hình
thể Đạo đúng nghĩa? Trong một đàn cơ tại Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý Cao Đài Giáo
Việt Nam ngày Thứ Năm 25-02-1971, Đức Quan Thánh Đế Quân dạy: "Chí Tôn dạy lập chùa
thất là một hữu hình trụ tướng để thể hiện quyền pháp của Trời. Đó là một phần
nhỏ. Còn phần trọng đại là làm nơi quy tụ nhơn sanh để hướng dẫn mọi sinh hoạt
đạo lý, phổ truyền giáo lý, thức tỉnh người đời. Nơi chùa thất là để chung cho
nhơn sanh đến đó nghe đạo, học đạo, để hành đạo.”
Ngài dạy tiếp: "Trong nếp sinh hoạt tại chùa thất gồm
có hai phần. Một phần tu tịnh, để tịnh dưỡng tu đơn, dùng điển lành hộ trợ cho
sự bằng an, sung túc của nơi đó. Một phần nữa là ngoại giáo công truyền, gồm có
giảng đạo, phước thiện xã hội, và hành chánh Đạo để cho hệ thống của guồng máy
hành chánh được lưu thông điều hòa. Nếu không vì những nhu cầu ấy, Chí Tôn đã
không dạy lập chùa thất.”
5.5. Thánh
giáo
“Thượng Đế không là một hình bóng của thần tượng, nhơn
tượng hay vật tượng. Chính biểu tượng Thiên Nhãn cũng chỉ là tạm mượn để gởi
gắm chơn lý trong một cụ thể chủ quan mà thôi. Chính vì vậy, kiến tạo hình thể
Đạo có được giá trị cùng chăng là phải có nhơn tâm làm chứng thị. Giá trị của
nhơn sanh giác ngộ sẽ định vị cho hình thể Đạo của từng địa phương.”
* Suy Niệm 5: Thượng Đế hữu ngã và Thượng Đế vô ngã [xem Phụ Lục 1]
Trong một đàn cơ tại thánh tịnh Ngọc Minh Đài (quận 4, Sài Gòn) ngày Thứ Tư
08-02-1967, Đức Cao Đài dạy: “Thầy là hư
vô chi khí...” Là khí hư vô thì Thượng Đế đâu có hình dạng cụ thể. Thượng
Đế còn là Đại Linh Quang (khối ánh sáng
lớn thiêng liêng). Là ánh sáng thì Thượng Đế đâu có hình thể. Bởi vậy, Đức Lý
Giáo Tông dạy: “Thượng Đế không là một
hình bóng của thần tượng, nhơn tượng hay vật tượng.”
Thời xưa, người Trung Hoa quan niệm Thượng Đế theo hình ảnh các ông vua của
họ, nên họ đắp tượng hay vẽ Ngọc Hoàng với áo mão một ông vua [xem Phụ Bản 3]. Các triết gia gọi
đấy là “thiên nhân đồng hình đồng tính luận” 天人同形同性論. Nhưng Thượng Đế đâu có quốc tịch, chủng tộc. Trong con
mắt các dân tộc khác trên thế giới, tất nhiên hình ảnh Ngọc Hoàng theo kiểu
Trung Hoa trông xa lạ. Một bằng chứng hiển nhiên là Michelangelo (1475-1564),
thiên tài người Ý, vẽ Đức Chúa Trời (Thượng Đế) theo hình ảnh một ông lão châu
Âu khỏe mạnh [xem Phụ Bản 4];
đây là tranh vẽ trên trần nhà nguyện Sistine ở thành phố Vatican.
Nhưng người đời vốn chuộng Thượng Đế hữu ngã hơn Thượng Đế vô ngã. Họ cần
một hình ảnh giống như họ mà siêu việt hơn họ để gởi gắm lòng tin. Đó là lý do
Đại Sư Vivekananda (1863-1902) bảo rằng nếu một con cá có thể quan niệm được
Thượng Đế thì Thượng Đế của nó chắc chắn là một con cá khác to khỏe và xinh đẹp
hơn nó rất nhiều (xem thêm: Tôn Giáo
Là Gì Theo Lời Nói Của Đại Sư Vivekananda. Sài Gòn: An Tiêm 1969,
Vương Gia Hớn dịch).
Con người cần có một hình ảnh hay biểu tượng không những kết hợp được
Thượng Đế hữu ngã với Thượng Đế vô ngã mà còn thể hiện chỗ đồng nhất của nhân
loại. Thiên Nhãn vì vậy là biểu tượng của Thượng Đế trong đạo Cao Đài, nhưng
Thiên Nhãn không phải là tuyệt đối thể. Lãnh hội được điều này thì hiểu vì sao
Đức Lý Giáo Tông dạy: “Chính biểu tượng
Thiên Nhãn cũng chỉ là tạm mượn để gởi gắm chơn lý trong một cụ thể chủ quan mà
thôi.”
Thượng Đế là tuyệt đối thể nên dù cho tình cảm con người đối với Thượng Đế
có như thế nào chăng nữa, Thượng Đế vẫn là Thượng Đế. Chân lý này được Đức Cao
Đài dạy trong một đàn cơ tại Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý Cao Đài Giáo Việt Nam
ngày Thứ Sáu 04-3-1977 như sau:
Con có thánh tâm sẽ có Thầy,
Thầy là Cha Cả của Đông Tây.
Tây Đông dầu biết hay không biết,
Thì đức háo sanh cũng thế này.
Trong Nhị Kỳ Phổ Độ, ở cuối Bài Giảng
Trên Núi (Mátthêu 5:45), Đức Giêsu Kitô dạy cùng một lý lẽ: “… Cha anh em, Đấng ngự trên trời. Người cho
mặt trời của Người mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt, và cho mưa xuống
trên người công chính cũng như kẻ bất chính.”
Một hình thể Đạo tuy
thể hiện thánh thể Đức Chí Tôn tại thế, nhưng bản thân hình thể ấy không là một
giá trị tuyệt đối. Một thánh sở Cao Đài đẹp đẽ và có vị trí thuận tiện ở chốn
thị thành sầm uất mà lại đìu hiu vắng vẻ là bởi vì sao? Người Việt nói: “Đất lành chim đậu.” Vậy, giá trị đích
thực của một hình thể Đạo thật sự không tùy thuộc vào những vật chất đã tạo nên
hình thể đó. Lãnh hội được điều này thì hiểu vì sao Đức Lý Giáo Tông dạy: “Chính vì vậy, kiến tạo hình thể Đạo có được
giá trị cùng chăng là phải có nhơn tâm làm chứng thị.”
Lời dạy “kiến tạo hình thể Đạo có được giá trị cùng
chăng là phải có nhơn tâm làm chứng thị” nghĩa là giá trị của hình thể Đạo
được minh chứng bằng hiệu quả cứu độ nhơn sanh của đạo Cao Đài. Chẳng hạn, nếu
một địa phương có thánh thất, thánh tịnh Cao Đài thì con người nơi đó có giác
ngộ hay đạo đức hơn không? Cuộc sống có an bình hơn không?
Giáo lý Cao Đài dạy
con người tu thân để chuyển từ phàm ra hiền thánh, nhưng giáo lý này có được
thường xuyên giảng dạy vào hai kỳ sóc vọng tại các thánh thất, thánh tịnh
không? Có giúp nhơn sanh giác ngộ không? Thế nên Đức Lý Giáo Tông dạy: “Giá trị của nhơn sanh giác ngộ sẽ định vị cho hình thể
Đạo của từng địa phương.”
5.6. Thánh
giáo
“Chư hiền thử nghĩ: Người nông phu nào cũng gieo
mầm lúa trên thửa ruộng màu mỡ mà không bao giờ gieo trên tấm thảm nhung tơ.
Dầu thảm đó có thêu được đẹp nổi muôn màu nhưng giá trị của tấm thảm vẫn là tấm
thảm để trang trí kiêu sa, chớ làm gì khơi động được mầm sinh sôi bất tận. Tấm
lòng của nhân loại mới chính là nơi chân lý cứu rỗi phát sinh, tạo thế an
bình cho nhân loại. Vì vậy nhơn tâm Đạo
phải phát khai, phải sum sê tàn lá. Thửa ruộng không được chăm sóc màu mỡ thì
bông lúa nào được nặng trĩu đua chen.”
* Suy Niệm 6: Tâm điền
Đoạn này Đức Lý Giáo Tông dạy về việc chăm sóc mảnh tâm điền (ruộng lòng).
Hai chữ tu thân tương đương với self-cultivating trong tiếng Anh, và từ
gốc cultivating có nghĩa là chăm sóc
mảnh đất để trồng trọt; ý nghĩa này vì thế rất gần gũi hai chữ tâm điền.
Trong Nhị Kỳ Phổ Độ, Đức Giêsu Kitô có lần dạy về tâm điền qua dụ ngôn sau:
“Một nhà nông đi ra gieo giống. Trong khi
ông ta vãi hạt giống, có hạt rơi dọc theo lối đi, chim chóc đến ăn hết. Có hạt
rơi trên sỏi đá, nơi không có nhiều đất. Hạt mọc nhanh vì đất cạn cợt. Nhưng
khi nắng lên, chúng bị khô cháy, và vì thiếu rễ nên héo tàn. Số hạt khác rơi
vào bụi gai, gai mọc lên làm chúng chết nghẹt, thành thử không sinh sôi được.
Tuy nhiên có số hạt khác rơi xuống đất tốt. Chúng mọc lên, sinh sôi nảy nở, hạt
thì được ba mươi, hạt thì được sáu mươi, hạt thì được một trăm lần.” (Máccô
4:3-8)
Trong Tam Kỳ Phổ Độ, Đức Cao Đài khuyên con cái trần gian chăm sóc tâm điền
như sau: “Trước kia miếng ruộng của con
vẫn trống sạch, nếu con không cấy lúa lên tức nhiên nó phải sanh cỏ. Khi sanh
cỏ rồi, con muốn nhổ cho tận gốc sạch trơn, rồi không cấy những giống lúa tốt
lên, lâu ngày cũng biến sanh cỏ nữa. Bởi vậy, tâm con kêu là tâm điền. Chẳng
những các con tránh điều dữ mà cần phải lo làm những điều lành.”
Thầy kết luận:
Tâm điền con trẻ ráng gieo trồng
Trồng những trái lành được trổ bông
Bông trái trúng mùa con hạnh hưởng
Một lòng từ
thiện được thành công.
(Thánh Huấn Hiệp Tuyển, quyển I. Bài Tâm Điền.)
Trở lại với thánh giáo Đức Lý Giáo Tông, tại sao trong đoạn này Ngài nói
đến việc chăm sóc mảnh tâm điền? Có liên hệ gì tới ý thức hệ chăng?
Ý thức hệ nhằm thay đổi xã hội, tức thay đổi cái tâm con người của xã hội
đó. Nhưng trước hết cái tâm của “những nhà ý thức hệ” phải phù hợp để họ theo
đuổi lý tưởng cao cả của mình. Thí dụ, những ai hay tán tụng Đại Đạo mà tâm địa
vẫn chỉ quẩn quanh trong ngõ cụt chật hẹp thì làm sao họ có thể thật lòng thực
thi lý tưởng Đại Đạo?
Một lái thuyền chỉ giỏi chèo chống chiếc thuyền con trên sông lạch thì đương
nhiên không thể đứng vào vị trí thuyền trưởng một con tàu tân tiến giữa đại
dương bao la. Tương tự, con người tôn giáo bất cập con người Đại Đạo trong ý
nghĩa Đại Đạo là siêu tôn giáo.
Nhưng con người Đại Đạo không thể từ trên trời rơi xuống. Thành thử cần
giáo dục để con người tôn giáo chuyển hóa thành con người Đại Đạo. Bởi thế, ý
thức hệ Cao Đài (cũng là ý thức hệ Đại Đạo) cần được giáo dục rộng rãi trong các
cộng đồng Cao Đài để đổi mới “khung cảnh
tôn giáo xa xưa” như lời của Đức Lê Đại Tiên.
Tuy nhiên, con người thường ít chịu đổi mới, hoặc không đổi mới đúng nghĩa.
Nói cách khác, con người tôn giáo không dễ thoát ra khỏi “khung cảnh tôn giáo xa xưa”. Thế nên, trong đàn cơ tại thánh thất
Nam Thành ngày Thứ Hai 31-3-1969, dường như để đối trị tâm lý (hay não trạng) ấy,
Đức Lê Đại Tiên dùng những lời lẽ mạnh mẽ như sau:
“Đừng xây ngôi nhà mới trên nền cũ, hãy gầy dựng
một nền móng mới trước khi xây nhà đúc cột. Trách nhiệm mới, sứ mạng mới, Đại
Đạo Tam Kỳ Phổ Độ phải tương đồng phối hợp mới. Trên con đường gay go giữa thời
buổi bão bùng, có người lữ khách nào lại dùng con ngựa già hay cỗ xe cũ.”
Giáo dục ý thức hệ Cao Đài cũng có nghĩa là giúp người đạo Cao Đài xây dựng
cho mình một văn hóa hành đạo. Thí dụ, sau khi đã dự nhiều lễ kỷ niệm và các
buổi thuyết đạo tổ chức tại một cộng đồng Cao Đài, rốt cuộc người ta không sao
nếm được tinh ba ngon ngọt của đạo Cao Đài bởi lẽ mọi nỗ lực của cộng đồng ấy
chỉ nhằm tô điểm cho một cá nhân nào đó; nếu thế thì văn hóa hành đạo ở nơi ấy
có lẽ là một vấn đề. Nhận thức được điều này chúng ta hiểu lời dạy của Đức Lý
Giáo Tông trong đoạn 5.13 dưới đây: “Cao
Đài (...) không là của người này hay kẻ kia...”
Khi nói văn hóa hành đạo, nên nhớ rằng trong tiếng Anh từ culture (văn hóa) có gốc Latin là cultura nghĩa là trồng trọt, canh tác,
cày cấy. Vậy thì văn hóa cũng liên quan tới việc chăm sóc tâm điền. Nhân tâm
phải là đối tượng chánh của tôn giáo. Đức Lý Giáo Tông dạy: “Tấm lòng của nhân loại mới chính là nơi
chân lý cứu rỗi phát sinh, tạo thế an
bình cho nhân loại. Vì vậy nhơn tâm Đạo
phải phát khai, phải sum sê tàn lá.”
5.7. Thánh
giáo
“Nền Đạo không được khai minh thì nhơn tâm Đạo quá
ư là ít ỏi. Người chèo thuyền bát nhã, kẻ phát độ cành dương là cần vớt cho hết
người chết đắm, cứu cho cùng khắp kẻ nạn tai, nào phải đợi người lụy dòng trèo
lên thuyền cứu độ hay kẻ bịnh ngặt đến hứng giọt cam lồ rồi đành bảo bởi vô
minh duyên nghiệp làm cho sóng dập kiếp phù sinh.”
* Suy Niệm 7: Bồ Tát Đạo
Đức Lý Giáo Tông
dạy: “Nền Đạo không được khai minh thì
nhơn tâm Đạo quá ư là ít ỏi.” Lời dạy này tỏ rõ rằng việc giáo dục hay thuyết
giảng cho tín đồ vẫn luôn là cốt lõi trong việc khai minh (làm sáng tỏ) đạo Cao
Đài để cho nhơn sanh thấu hiểu giá trị cứu độ đích thực của Cao Đài.
Đức Lý Giáo Tông dạy
tiếp: “Người chèo thuyền bát nhã, kẻ phát
độ cành dương là cần vớt cho hết người chết đắm, cứu cho cùng khắp kẻ nạn tai,
nào phải đợi người lụy dòng trèo lên thuyền cứu độ hay kẻ bịnh ngặt đến hứng
giọt cam lồ rồi đành bảo bởi vô minh duyên nghiệp làm cho sóng dập kiếp phù
sinh.” Ngài khuyên người đạo Cao Đài phải tích cực nhập thế thực hành Bồ
Tát Đạo.
Tinh thần Bồ Tát Đạo
còn thể hiện qua mục đích của đạo Cao Đài. Trong một đàn cơ tại Cơ Quan Phổ
Thông Giáo Lý Cao Đài Giáo Việt Nam ngày Thứ Tư 23-8-1972, Đức Giáo Tông Đại
Đạo Lý Thái Bạch dạy: “Mục đích Cao Đài trong
Tam Kỳ Phổ Độ không chủ trương đơn thuần cho các hàng tín hữu thành Phật, Tiên,
Thánh để an hưởng cõi thiêng liêng rồi quên nhiệm vụ hiện tại là xây đời thuần
lương thánh thiện trong tình thương, trong hòa đồng, trong đạo đức để tròn câu
hạnh phúc gia đình, hạnh phúc dân tộc quốc gia, và hạnh phúc cho nhân loại.”
Trong Nhị Kỳ Phổ Độ các bậc Bồ Tát nguyện: “Chúng sanh vô biên, thệ nguyện độ.”
Trong Tam Kỳ Phổ Độ, lập hạnh Bồ Tát, vị môn đồ đầu tiên của Đức Cao Đài là
ngài Ngô Văn Chiêu (1878-1932) nguyện:
Một là sanh chúng hằng hà,
Dốc lòng cứu vớt, lòng ta thề nguyền.
Khi mở đạo Cao Đài, Đức Thượng Đế lập đại nguyện:
Muôn kiếp các con chịu lạc đường
Thấy vầy Thầy luống động lòng thương
Nên đoan thệ với hàng Tiên Phật
Lập Đạo không thành chịu tội ương.
(Đại Thừa Chơn Giáo.
Hà Nội: Nxb
Tôn Giáo, 2016, tr. 34.)
Đó là đại hạnh của bậc Đại Bồ Tát, nên hồng danh của Thượng Đế trong Tam Kỳ
Phổ Độ là Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma
Ha Tát.
Tu theo Cao Đài là tu theo hạnh Bồ Tát. Hàng ngày lúc quỳ cúng tứ thời
trước Thiên Bàn, người tín hữu Cao Đài có bốn lượt lập đại nguyện làm Bồ Tát
bằng cách đọc câu nguyện thứ hai.
Thật vậy, trước khi kết thúc mỗi buổi cúng thời, tín đồ đọc Ngũ Nguyện;
trong đó, lời nguyện thứ hai là “Nhì
nguyện phổ độ chúng sanh”; mà muốn phổ độ chúng sanh thì phải “nhứt nguyện Đại Đạo hoằng khai”. Nói
khác đi, hai lời nguyện này liên quan qua lại.
5.8. Thánh giáo
“Có tập thể là phải có tổ chức. Hành chánh Đạo
không phải để phục vụ cho Thượng Đế. Thượng Đế nào có cần chi, nhưng thế sự chỉ
để phục vụ cho nhơn sanh tất cả. Mượn hành chánh Đạo là làm thế nào để thể hiện
được tương liên tương trợ dìu dắt lẫn nhau từ kẻ nhỏ nhít cùng trở về với Đại
Linh Quang trong buổi chót.”
* Suy Niệm 8: Hành chánh Đạo
Đức Lý Giáo Tông
dạy: “Có tập thể là phải có tổ chức.” Suy
Niệm 3 trên đây có nhắc tới nhận xét của Giáo
Sư Jayne Susan Werner: “Hội Thánh Cao Đài cũng được tổ chức quy củ (…).”
Hệ thống hành chánh tinh vi của đạo Cao Đài nhằm phục vụ ai? Đức Lý
minh định: “Hành chánh Đạo không phải để phục vụ cho Thượng Đế. Thượng Đế nào có cần
chi, nhưng thế sự chỉ để phục vụ cho nhơn sanh tất cả.”
Trong đàn cơ tại Cơ Quan Phổ
Thông Giáo Lý Cao Đài Giáo Việt Nam ngày Thứ Năm 07-3-1974, Chư Tiền Khai Đại
Đạo dạy: “Thượng Đế không kêu gọi con
người phụng sự cho Thượng Đế, mà con người hãy cải tạo để xây dựng thiên đàng
cho con người và thế giới ở trên đời.”
Do đó, hành chánh Đạo
được đặt ra với hệ thống chức sắc, chức việc kèm theo nhiệm vụ rõ ràng là để
phục vụ nhơn sanh. Chẳng hạn, Pháp Chánh
Truyền Chú Giải trình bày nhiệm vụ của Chánh Trị Sự như sau:
“Buộc [các] Phó Trị Sự phải thay phiên nhau đặng nạp cho
Chánh Trị Sự, mỗi tháng ba mươi người công quả, tức là mỗi ngày, phải có một
người hầu việc cho Chánh Trị Sự. Chánh Trị sự mới sai người đó đi khắp địa phận
mà thăm viếng tín đồ về sự bịnh hoạn, đói khó. Hễ
có một người trong địa phận bị tai nạn, thì biểu người công quả ấy ở tại đó mà
giúp đỡ, săn sóc, hoặc bịnh hoạn phải lo nuôi dưỡng, hoặc nghèo nàn phải chung
hiệp nhau mà gỡ khổ. Ấy là phận sự rất cao thượng của Chánh Trị Sự. Cái vẻ
riêng tốt đẹp của Đạo do tại nơi đó.”
Nhưng hành chánh Đạo
là phương tiện, không phải là mục đích. Phương tiện này không có tính tuyệt
đối, nên Đức Lý bảo là “mượn”.
Vậy, giá trị đích
thực của hành chánh Đạo tùy thuộc vào mục đích của hệ thống có đạt được hay
không. Mục đích ấy là chi? Đức Lý dạy:
“Mượn hành chánh Đạo là làm thế
nào để thể hiện được tương liên tương trợ dìu dắt lẫn nhau từ kẻ nhỏ nhít cùng
trở về với Đại Linh Quang trong buổi chót.”
Làm sao đạt được giá
trị đích thực ấy? Câu trả lời có sẵn trong đoạn kế tiếp.
5.9. Thánh
giáo
“Thế nên thiết lập một cơ cấu hình thể Đạo mà bảo tồn
không được cũng không khai sáng thêm hơn, thiệt là một điều thiếu sót và tội
lỗi lớn với chính mình. Đừng để cho một tâm hồn nào phải thương xót trước một
thánh thể của Chí Tôn. Đã tạo được thì phải cố
gắng khai minh và phát huy cho đúng với sự tạo dựng của mình hay của người đi
trước.”
* Suy Niệm 9: Tạo tự và tạo tăng
“Một cơ cấu hình thể Đạo” ở cấp nền tảng là thánh thất tại một họ đạo. Nếu nơi ấy “bảo tồn không được cũng không khai sáng
thêm hơn, thiệt là một điều thiếu sót và tội lỗi lớn” của người cai quản. Như thế, trách nhiệm của vị đầu họ rất
đỗi nặng nề. Người ấy cần có đức để giữ cho thánh thất dưới trên thuận thảo.
Người ấy nếu chưa đủ tài thì nhờ vào đức độ bản thân mà có thể quy tụ nhân tài
giúp cho thánh thất.
Ngược lại, nếu một thánh thất trở thành chốn xào xáo, giựt giành, thì nơi
ấy thật sự đâu còn là thánh thể của Chí Tôn tại thế. Người thật lòng muốn tu
hành làm sao dám bước vào đó. Chứng kiến cảnh suy bại của một thánh thất, người
có tâm ắt phải chạnh lòng thương cảm. Và Đức Giáo Tông khuyên: “Đừng để cho một tâm hồn nào phải thương xót
trước một thánh thể của Chí Tôn.”
Mà nếu việc này xảy ra, thì Đức Giáo Tông cảnh báo đó là “tội lỗi lớn”.
Trong một đàn cơ tại Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý Cao Đài Giáo Việt Nam ngày Thứ Hai 13-8-1973, Đức Lý Giáo Tông nhắc nhở: “[N]ên nhớ rằng tạo tự thì dễ, tạo tăng thì
khó.” Nói khác đi, thiết lập một cơ cấu hình thể Đạo để tượng trưng thánh
thể của Đức Chí Tôn tại thế gian thì dễ hơn là tuyển chọn được người xứng đáng
cai quản nơi ấy, nhất là một con người Đại Đạo chứ không phải một con người tôn
giáo (đã nói trong Suy Niệm 6).
5.10. Thánh
giáo
“Ngoài ra chư hiền cần nên lưu tâm về hình thức
vì hình thức cũng sẽ thể hiện là tạo nên sự nhứt trí của tâm hồn và uy lực của
thế đạo trong công cuộc xây dựng tâm linh và cứu độ nhơn sanh. Đừng bảo đó là
giả mà không lưu tâm. Có mấy ai chỉ mơ về bên kia bờ giác mà quên đóng con đò
để vượt qua chắc chắn an toàn. Không bát nhã thuyền nào chở đặng thân phàm xác
thịt sang khỏi sông mê.”
* Suy Niệm 10: Hình thức và nội dung
Đức Lý Giáo Tông dạy: “Ngoài ra chư
hiền cần nên lưu tâm về hình thức (...). Đừng bảo đó là giả mà không lưu tâm.”
Theo các nhà triết học, hình thức và nội dung ảnh hưởng lẫn nhau. Khi chưa
tách khỏi hoạt động phổ độ của các ngài Cao-Phạm, ngài Ngô Văn Chiêu hay dùng
tiền riêng giúp vài đạo hữu nghèo sắm y phục tươm tất. Ngài khuyên: “Ăn mặc
lèng xèng, đi nói đạo ai nghe.”
Nhiều người đạo Cao Đài không chú ý trau dồi tiếng Việt mà lại hay hăng hái
phổ biến các bài viết về đạo Cao Đài chứa đầy lỗi chánh tả, từ ngữ, ngữ pháp,
v.v... Hình thức văn bản kém cỏi ấy không thể gây ảnh hưởng tốt nơi người đọc.
Tệ hơn nữa, sử dụng tiếng Việt sai có thể diễn đạt sai ý nghĩa thánh ngôn,
thánh giáo.
Tương tự, một thánh sở Cao Đài trông luộm thuộm cũng không tạo được ấn
tượng tốt ở người ghé thăm.
Đức Lý Giáo Tông dạy: “Có mấy ai chỉ
mơ về bên kia bờ giác mà quên đóng con đò để vượt qua chắc chắn an toàn.” Như
thế, hình thức là cần thiết.
Tuy nhiên, Ngài dạy thêm: “Không bát
nhã thuyền nào chở đặng thân phàm xác thịt sang khỏi sông mê.” Hình thức
vẫn không là tuyệt đối. Người hành đạo cần biết khéo léo dung hòa hình thức và
nội dung.
Huệ Khải
► Quý đạo hữu gần xa muốn nhận các kinh sách do Chương
Trình Chung Tay Ấn Tống Kinh Sách Đại Đạo xuất bản, được gởi biếu qua bưu điện,
xin vui lòng gởi e-mail về: daidaovanuyen@gmail.com
Và xin quý đạo hữu hoan hỷ trả giúp cước phí cho bưu điện ngay khi nhận được sách biếu.
Và xin quý đạo hữu hoan hỷ trả giúp cước phí cho bưu điện ngay khi nhận được sách biếu.
Ban Ấn Tống trân trọng cảm ơn quý đạo hữu.