ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ
TU CỨU CỬU HUYỀN THẤT TỔ
Quyển 52-3
trong
Chương
Trình Chung Tay
Ấn Tống Kinh Sách Đại Đạo
Nhà xuất bản HỒNG
ĐỨC, Hà Nội 2017
Ấn tống
lần thứ ba, gồm hai ngàn quyển
do hiền tỷ THỦY NHƯ HƯƠNG
môn sanh Chiếu Minh LONG
VÂN ĐÀN, Mỹ Tho
công quả 9.500.000 đồng
(trích đợt 88, đợt 90).
Kỉnh
thành hồi hướng cửu huyền thất tổ,
cầu nguyện quốc thái dân
an,
đạo pháp trường lưu,
chánh giáo hoằng dương,
Đại Đạo Cao Đài quy
nguyên thống nhứt,
vạn linh
thức tỉnh hồi đầu, đồng đăng bỉ ngạn.
ĐÔI LỜI THA THIẾT
Quý vị vui lòng KHÔNG photocopy, KHÔNG mua bán bất kỳ kinh sách nào do Chương
Trình Chung Tay
Ấn Tống Kinh Sách Đại Đạo thực hiện. Kính mời quý vị liên hệ các điểm phát
hành của
chúng tôi tại các tỉnh, thành, quận, huyện để thỉnh các ấn phẩm chánh thức
(kính biếu).
Kinh sách được ấn tống để kính biếu rộng rãi là nhờ
có biết bao tấm lòng vàng của hàng hàng lớp lớp đạo tâm gần xa gởi gắm. Để
không phụ lòng các bậc Mạnh Thường Quân ấy, xin quý vị trân trọng giữ gìn kinh
sách để truyền trao cho đúng người thật tâm tìm tu, học đạo. Chúng tôi chân
thành biết ơn sự thấu hiểu, đồng cảm, và hợp tác chặt chẽ của quý vị. (Ban Ấn Tống)
GIAO CẢM
Ngày Thiên Quan Tứ Phước năm Nhâm Thìn
(Thứ Hai 06-02-2012), trò chuyện với quý đạo hữu ba thánh tịnh Bồng Lai, Ngọc
Chiếu Đàn, và Như Ý Linh Thần Đài tại tỉnh Bình Dương (thuộc Hội Thánh Cao Đài
Tiên Thiên), tôi có dịp chia sẻ một vài nghĩ suy về chủ đề Tu Cứu Cửu Huyền Thất Tổ. Sau đó, theo mỹ ý nhiều đạo hữu, tôi chỉnh
đốn lại bài nói chuyện để có thể gởi đến đông đảo con cái Thầy Mẹ thông qua
Chương Trình Chung Tay Ấn Tống Kinh Sách Đại Đạo.
Soạn tập sách mỏng này, tôi có cân nhắc khi trích dẫn ít nhiều đoạn
thánh giáo dạy riêng gia nội một số vị trong nhà Đạo. Nghĩ cho cùng, không phải
ai ai cũng được hồng phúc đón nhận các lời dạy vô giá ấy của Thiêng Liêng. Hơn
thế nữa, những trường hợp người thật việc thật trong đạo Cao Đài như được thuật
lại trong các trang sau đây, quả thật là những tấm gương có tác dụng giáo huấn,
khuyến tu rất thuyết phục để giúp bổn đạo chúng ta cùng suy gẫm, học và hành
theo đúng lời bảo ban của các Đấng từ xưa. Xin quý vị niệm tình, hoan hỷ lượng
thứ việc trích dẫn. Đây cũng là công quả rất lớn mà gia nội quý vị góp phần vào
việc hoằng giáo độ nhân. Tôi xin chân thành kỉnh tạ quý vị.
HUỆ KHẢI
TU CỨU CỬU HUYỀN THẤT TỔ
1. TU CỨU CỬU HUYỀN THẤT TỔ TRONG
TÔN GIÁO BẠN
Không
riêng đạo Cao Đài, các tôn giáo bạn xưa nay cũng dạy tín đồ rằng những người
chí thành tu hành, hết lòng lập đức cho dày đều có thể trông cậy vào chánh pháp
siêu đẳng nhiệm mầu để cứu độ cửu huyền thất tổ của mình được thoát khỏi địa ngục,
linh hồn được giải thoát về cõi trời (cõi thiêng liêng hằng sống). Nói cách
khác, tu cứu cửu huyền thất tổ là một chân lý trong nhiều tôn giáo.
Theo cư
sĩ Chánh Nguyên, cửu huyền thất tổ 九玄七祖 là thuật ngữ
đã có trong kinh đạo Lão Trung Quốc từ xưa. Cư sĩ cho hai dẫn chứng:
- Trong
quyển Thái Thượng Tam Nguyên Tứ Phước Diên Sinh Bảo Mệnh Chân Kinh ([1])
có đoạn nói rằng ba vị Tam Nguyên Thiên Tôn ([2])
sẽ cứu giúp các cô hồn, quỷ đói cùng cửu huyền thất tổ được siêu thoát…
- Trong
quyển Chính Nhất Kinh 正一經 của phái Chính Nhất (đạo Lão) có
đoạn nói rằng con cháu có thể làm lễ cầu xin Đức Đông Cực Vô Tôn 東极無尊 cứu độ vong linh cửu huyền thất tổ được siêu thăng…
Tuy
nhiên, cho tới nay, các tác giả người Hoa và Việt Nam vẫn chưa nhất trí, chưa đồng
thuận với nhau về ý nghĩa bốn chữ cửu huyền
thất tổ.([3])
Do đó, trong bài viết này chúng ta tạm hiểu khái quát rằng cửu huyền thất tổ
bao gồm tổ tiên, tứ thân phụ mẫu,([4]) và con cháu thuộc hai bên nội ngoại của mỗi người.
Tại Việt Nam , chân lý tu cứu cửu huyền thất tổ rất phổ biến
trong giới tu hành. Chân lý này đồng thời cũng xác định rằng tu hành là cách
báo hiếu tốt nhất. Lược kể như sau:
1.1. Thời
xưa, vào đời Hậu Lê, nước ta có thiền sư Hương Hải (1631-1718), thế danh Tổ Cầu,
người làng Áng Độ, huyện Chân Phúc (sau là huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An). Lúc đầu
ông làm tri phủ Triệu Phong (nay là tỉnh Quảng Trị), rồi tu thiền ở cù lao Chàm
(tỉnh Quảng Nam ).
Đạo hiệu của sư là Huyền Cơ Thiện Giác, pháp tự là Minh Châu Hương Hải.([5])
Trong bài
Lý Sự Dung Thông, thiền sư Hương Hải
viết:
Thích độ nhân miễn tam đồ khổ ([6])
Thoát cửu huyền thất tổ siêu phương.
Thích tức là Thích Ca
Mâu Ni (Sākyamuni). Đại ý hai câu thơ này nói rằng đạo Phật cứu con người (độ nhân) khỏi sa vào ba đường khổ và giải
thoát cửu huyền thất tổ của họ được siêu thăng, khỏi bị trừng phạt ở cõi địa ngục.
1.2. Trong bộ Sấm Giảng Thi Văn của Phật Giáo Hòa Hảo, quyển thứ năm nhan đề Khuyến Thiện, gồm 756 câu, do Đức Huỳnh
Giáo Chủ viết năm 1941 tại Chợ Quán (Sài Gòn). Đức Thầy dạy:
Tu cầu
yên nước lợi nhà
Cửu huyền thất tổ Diêm La
thoát hình.
Như thế, Phật
Giáo Hòa Hảo cũng đồng quan điểm rằng người tu ngoài việc cầu nguyện cho đất nước
an bình, thịnh trị còn có thể cứu giúp cửu huyền thất tổ của mình thoát khỏi những
hình phạt trừng trị linh hồn tội lỗi nơi cõi địa ngục (Diêm La).
1.3. Trong nghi thức tụng
niệm cúng cửu huyền thất tổ của Phật Giáo Khất Sĩ có
bài Cúng Cửu Huyền Thất Tổ gồm 14 khổ thơ song thất lục bát (56 câu, 392 từ). Qua đó,
chân lý tu cứu cửu huyền thất tổ được Phật Giáo Khất Sĩ nói rõ như sau:
Noi theo hạnh từ
bi của Phật
Bỏ dứt đi những tật
xấu xa
Trau giồi đức hạnh
thuần hòa
Đạo thành cứu độ
mẹ cha, cửu huyền
. . .
Ai muốn đáp công thầy dạy dỗ
Hay đền ơn thất tổ
cửu huyền
Chúng sinh tất cả
các miền
Thì nên phát đại
lời nguyền độ tha
Trước xuất thế
lìa xa cõi tục
Sau diệt tiêu
lòng dục, tánh phàm
Chẳng còn ưa chuộng,
muốn ham
Tu chứng đắc bồ đề
Phật quả
Độ chúng sanh tất
cả siêu thăng
Là phương trả
nghĩa đáp bằng công lao
Ai hiếu tử mau mau ghi nhớ
Muốn đáp đền mối nợ từ xưa
Cần nên tu niệm sớm trưa
2. TU CỨU CỬU HUYỀN THẤT TỔ TRONG ĐẠO CAO ĐÀI
Thánh giáo Cao Đài dạy rất nhiều
về chân lý tu cứu cửu
huyền thất tổ.
Qua nhiều thánh giáo từ thời Khai
Đạo (1926) cho tới những năm 1970, chúng ta thấy rất rõ rằng Ơn Trên trong
nhiều thời điểm khác nhau, tại nhiều nơi khác nhau, đã giáng cơ rất nhiều lần,
từ bi nhắc nhở, không tiếc lời văn tiếng thơ khuyến dạy môn sanh Cao Đài phải
ráng tu hành, trước là tự cứu bản thân, sau là đem công đức tu hành của mình
báo hiếu cửu huyền
thất tổ,
giúp cửu huyền thất tổ chẳng những được
thoát khỏi luân trầm nơi địa ngục, mà còn được Thiên Đình ân phong phẩm vị Thần,
Thánh, Tiên nơi cõi thiêng liêng hằng sống. Lược kể một số trường hợp trong
thánh giáo như sau:
2.1. Mỗi người tu
đều có thể cứu độ cửu huyền thất tổ
* Thứ
Tư 06-01-1926 (22-11 Ất Sửu), tại Vĩnh Nguyên Tự
(nay ở xã Long An, huyện Cần Giuộc, tỉnh
Long An), Đức Như Ý Đạo Thoàn
Chơn Nhơn giáng cơ dạy:
“Tu giả hà vi? Tu giả độ nhơn. Độ nhơn độ kỷ. Độ kỷ độ cửu
huyền thất tổ, thị chi hiếu dã.” 修者何為? 修者度人.度人度己.度己度九玄七祖,是之孝也.
Dịch nghĩa: Người
tu làm sao? Người tu độ kẻ khác. Độ kẻ khác là độ mình. Độ mình là độ cửu huyền thất tổ, ấy là hiếu vậy.
* Thứ Ba 22-4-1930 (24-3 Canh Ngọ), tại Cao Thiên Đàn (thánh thất Kiên Giang, Rạch Giá), Đức
Ngọc Hoàng Thượng Đế ban cho kinh Tu Chơn
Thiệp Quyết, gồm 64 khổ thơ song
thất lục bát. Đức Chí Tôn dạy (khổ 44):
Tu là cứu cửu huyền
thất tổ
Tu là cầu phổ
độ chúng sanh
Cầu cho cải dữ
về lành
Cầu cho đất nước thái bình muôn năm.
* Thứ Hai 10-12-1934 (04-11 Giáp Tuất),
Đức Ngọc Thiên Tiên Nương được Đức Cao Đài ban ơn cho giáng đàn. Ngài nguyên là
một nữ môn sanh Chiếu Minh Tam Thanh Vô Vi tu hành đắc đạo. Hôm ấy, Đức Tiên
Nương ban cho bài thơ khuyên mọi người ráng tu theo chánh pháp Cao Đài để tự cứu
mình và đồng thời cứu luôn cửu huyền
thất tổ
của mình. Đức Tiên Nương dạy:
Nay
gặp hội Cao Đài truyền giáo
Lòng tỉnh ngộ tầm
sư học đạo
Nhờ công phu đạo
pháp vận hành
Căn duyên mãn đắc
thành quả vị.
Hầu tầm tu siêu
rỗi cửu huyền
* Năm 1936 (Bính Tý), thánh tịnh Ngọc Minh
Đài (nay ở số 22 Nguyễn Khoái, phường 2, quận 4, TpHCM) được ban ơn lập đàn
tiếp nhận quyển Thánh Đức Chơn Kinh. Trong
kinh, nơi bài 8 (nhan đề Đời Đạo Tương
Đối), Đức Thái Thượng Đạo Tổ dạy:
Đạo
Thầy như bóng với hình
Đạo cao vi diệu
thâm tình quy nguyên
Đạo Thầy cứu cửu
huyền thất tổ…
* Thứ Năm 03-5-1956 (23-3 Bính Thân),
tại Trung Hưng Bửu Tòa (Hội Thánh Truyền Giáo Cao Đài, Đà Nẵng), Đức Ngọc Hoàng
Thượng Đế giáng cơ dạy:
Công khó nhọc được
tiêu tai ách
Công con cứu được cửu huyền
*
Chủ Nhật 20-4-1958 (02-3 Mậu Tuất), tại tỉnh đạo Thừa Thiên (Hội Thánh Truyền Giáo Cao
Đài), Đức Phục Ma Đại Đế giáng cơ dạy:
“Ngày nay Chí Tôn
giáng thế, chánh pháp phục hưng, khai tam thập lục thiên cho Phật Thánh Tiên Thần
hạ giới, mở cơ tận độ dẫn lối quy nguyên, hầu dìu dắt nguyên nhân đồng đăng bỉ
ngạn.([16])
(…)
Nhờ hồng ân chí đại, sống dưới lằn quang điển mầu vi, chúng ta ráng tu. Lo tu
để thân ta được cứu, hồn ta được siêu, cửu huyền được thăng, thất tổ chứng vị.”
* Thứ
Năm 01-4-1965 (30-02 Ất Tỵ), tại Thiên Lý Đàn (Hòa Hưng, quận 10, Sài Gòn) Đức Đông Phương Chưởng
Quản dạy tiền bối Hoàng Ngọc Tạo như sau:
Hoàng Ngọc Tạo
đường lành đã rõ
Dắt
dìu nhau lớn nhỏ đồng thuyền
Đủ
đầy công quả phước duyên
May
ra cứu độ cửu huyền siêu sinh.
Tiền bối Hoàng Ngọc Tạo bấy
giờ mới vào tu tại Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý Cao Đài Giáo Việt Nam (nay là Cơ
Quan Phổ Thông Giáo Lý Đại Đạo, ở số 171B Cống Quỳnh, quận 1, TpHCM); Thiêng
Liêng ban ơn cho tiền bối chức vụ Minh Tra. Về sau, tiền bối được Ơn Trên ban
thánh danh Hồng Phước.
Trong
bài thơ trên, Đức Đông Phương Lão Tổ khen tiền bối đã hiểu rõ đường lành nẻo
thiện, tức là bản thân tiền bối đã tu hành. Đức Lão Tổ khuyến khích tiền bối
nên hướng dẫn cho các thành viên trong gia đình cùng nhau tu học (đồng hội
đồng thuyền) để chung sức cứu độ cửu huyền thất tổ được siêu thoát.
* Thứ Sáu 06-8-1965
(10
rạng 11-7 Ất Tỵ), tại Minh Đức Đàn, Đức
Nhứt Trấn Oai Nghiêm Trường Canh Thái Bạch giáng cơ dạy:
“Nhứt nhơn hành đạo
cửu huyền thăng.(17) Bởi
thế, sự hành đạo của chư hiền nam nữ ảnh hưởng đến cửu huyền thất tổ. Nếu biết thi hành
trọn vẹn thủy chung thì cửu huyền thất tổ sẽ được siêu thăng thoát hóa.” ([17])
* Thứ Ba 30-8-1966 (15-7 Bính Ngọ), tại thánh tịnh Ngọc Minh Đài, Đức Đại Tiên Lê Văn
Duyệt nhắc lại:
“Tu cứu cửu huyền
thất tổ, hay nhứt nhơn hành đạo cửu huyền thăng.”
* Thứ Ba 23-5-1967 (15-4 Đinh Mùi),tại
thánh tịnh Ngọc Minh Đài, Đức Vô Cực Từ
Tôn Diêu Trì Kim Mẫu dạy nữ môn sanh Vũ Thị Oanh hãy ráng tu để cứu cửu
huyền thất tổ. Đức Mẹ dạy như sau:
Để
nhờ ơn đức cả hộ trì
Cho qua lúc túng hồi nguy
Cửu huyền nhờ đức tu trì cháu con.
* Thứ Bảy 16-11-1968 (26-9 Mậu Thân), tại Minh Lý Thánh Hội (nay ở số 82 Cao Thắng, phường
4, quận 3, TpHCM), Đức Đông Phương Chưởng Quản nhắc nhở: “Tu là để cứu cửu huyền thất tổ.”
* Chủ Nhật 03-8-1969 (21-6 Kỷ Dậu), tại Vĩnh Nguyên Tự, Đức Như Ý Đạo Thoàn Chơn Nhơn giáng cơ dạy các cháu của
Ngài như sau:
“Các cháu phải cố gắng tu bồi công quả hành đạo để có
nhiều âm chất, trước là cứu độ gia quyến thoát khỏi nạn tai trong hồi loạn lạc,
kế đó là cứu độ cửu huyền thất tổ và cũng là phương tiện giúp cho chơn linh
mình được siêu thoát sau ngày rũ bỏ phần nhục thể.”
* Thứ Năm 30-10-1969 (20-9 Kỷ Dậu), tại Thiên Lý
Đàn, Đức Giáo Tông Đại Đạo Thái Bạch Kim Tinh dạy:
Thế gian nay đổi mai
dời
Thạnh suy bĩ thới ai người khéo khôn
Tu sao cứu rỗi linh hồn
Cửu huyền thất tổ,
tử tôn nhiều đời.
* Thứ Sáu 06-4-1973 (04-3 Quý Sửu), tại Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý Cao Đài Giáo Việt Nam, Đức Giáo Tông Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ giáng cơ dạy:
“Chư hiền đệ muội, có câu ‘Tu là cứu cửu huyền thất
tổ.’ (…) Một khi chư hiền nào đã nhập môn lập thệ, hoặc thọ pháp rồi, đều đã
góp phần khởi thủy cho việc cứu cửu huyền thất tổ rồi đó.”
* Thứ Hai 13-8-1973 (15-7 Quý Sửu): tại
Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý Cao Đài Giáo Việt Nam, Đức Đông Phương Chưởng Quản giáng cơ dạy:
“Bần Đạo khuyên
chư hiền đệ, hiền muội ráng chuyên cần tu học công quả, công phu để tạo đủ điều
kiện giải thoát luân hồi và cứu cửu huyền thất tổ.”
* Thứ Ba 15-10-1974
(01-9 Giáp Dần), tại Vĩnh Nguyên Tự, Đức
Ngọc
Lịch Nguyệt giáng cơ dạy một
người cháu là Bạch Lương Ngọc:
“Phần Bạch Lương Ngọc,([19]) từ đây đến cuối đông, sau khóa tịnh Đông Chí
sẽ làm lễ nhập tự xuất gia. Cháu hãy sắp xếp lại gia đình giao cho con cả để tự
cứu bổn thân và siêu độ cửu huyền thất tổ, tạo âm chất đạo đức tương lai cho hậu
tấn.”
* Chủ Nhật 10-11-1974 (27-9 Giáp Dần),
tại thánh tịnh Chiếu Minh Ẩn Giáo (Ô
Môn, Cần Thơ), Đức Hồng Đức Chơn Tiên ([20]) giáng đàn dạy một
người cháu:
“Sứ, cháu nghe Bác dạy.
Gần chùa ráng tập việc tu hành
Công
quả đền ơn nghĩa dưỡng sanh
Cứu
độ cửu huyền cùng thất tổ
Kiếp người khỏi uổng cái thân danh.
2.2. Con tu có thể cứu độ cha mẹ
* Tại Sài Gòn, các tiền khai Cao Quỳnh Cư, Cao Hoài Sang, Phạm
Công Tắc mới bắt đầu được học đạo với Đức Chí Tôn. Bên cạnh
ba vị có bà Cao Quỳnh Cư, nhũ danh Nguyễn Thị Hương (1887-1971), cũng gọi là Hiếu,([21]) thánh danh Hương
Hiếu, về sau là Nữ Đầu Sư tại Hội Thánh Cao Đài Tây Ninh.
Thứ Hai 04-01-1926 (20-11 Bính Dần), ngẫm thân mình được học
đạo với Đức Chí Tôn mà mẹ không được diễm phúc này, tiền bối Hương Hiếu bạch với
Thầy: “Má con mắc ở xa làm sao con đi độ được?” Nhân đó, Đức Chí Tôn dạy:
“Hiếu, con biết một lòng tu niệm. Đạo đức của
con đủ cứu cửu huyền thất tổ rồi, huống là mẹ con. Để Thầy định đoạt, con đừng
lo buồn.”
* Một người khét tiếng trong giới giang hồ là
Nguyễn Phát Trước (quy thiên năm 1929), thường gọi Tư Mắt. Sau khi nhập môn tại
đàn Cầu Kho, vị này được Thầy phong làm Lễ Sanh phái Thái, chữ Mắt được đổi ra
chữ Nho là Mục 目, nên
thánh danh của tiền bối là Thái Mục Thanh.
Thứ Ba 09-3-1926 (25-01 Bính Dần), Đức Chí Tôn giáng cơ dạy tiền bối như sau:
“Mắt, nghe dạy! (…) Ngươi muốn biết
đặng cha ngươi thế nào, hỏi nơi ngươi.([22]) Hễ tu thì cứu đặng cửu huyền thất
tổ. Ngươi là hiếu hạnh,
chẳng lẽ để cha mẹ chịu đọa A Tỳ. Nghe mà ăn năn sám hối (…). Tâm thành của
ngươi mới [cứu cha] đặng mà thôi. Ngươi muốn vậy, làm lành lánh dữ. Ngày nào đặng
vậy, Ta sẽ cho cha ngươi về nói lại cho ngươi biết.”
Như thế, Đức Chí Tôn dạy rằng tùy theo tâm thành tu
hành của tiền bối Tư Mắt, khi
nào Đức Chí Tôn xét thấy xứng đáng công tu thì Thầy sẽ cho hồn thân phụ tiền bối về đàn cơ gặp con. Nói khác
đi, sự siêu thoát của vong hồn người cha tùy vào người con ráng tu hành để báo
hiếu.
* Thứ Bảy 01-01-1972
(15-11
Tân Hợi), tại Vĩnh Nguyên Tự, Đức Ngọc Lịch Nguyệt giáng cơ dạy:
“Đây, Ta dạy cháu
Lê Hoàng Cầu và hiền muội Ngô Thị Các. Trong cảnh mẹ góa con
côi, gần đường đạo đức, hiền muội hãy cố gắng ngày đêm tu niệm để cứu linh hồn
trong buổi trời chiều xế bóng, dầu lao thân tiêu tứ ([23]) rồi cũng chẳng có chi. Cháu Cầu và các cháu
biết thương mẹ, biết vì hiếu đạo, hãy cố gắng bước lên đường đạo để giúp cho mẹ
các cháu thoát cảnh đọa lạc luân hồi, còn hơn là các cháu may áo gấm, dâng miếng
ngon cho thể xác. Ta dặn như vậy, các cháu lưu ý.”
3. MỘT SỐ BẰNG CHỨNG
VỀ VIỆC TU CỨU CỬU HUYỀN THẤT TỔ
QUA THÁNH GIÁO MINH LÝ ĐẠO VÀ CAO ĐÀI
Tam Kỳ Phổ Độ là thời đại ân xá, nên Ơn Trên thường
dùng cơ bút vén mở bức màn bí mật huyền vi, hé lộ những chuyện siêu phàm để
giúp người đời có đức tin, ráng lo tu hành chơn chánh. Nói khác đi, những đàn
cơ “ly kỳ” trong đạo Minh Lý và Cao Đài đều do lòng từ bi của Trời Phật, muốn
giúp người đời vững đức tin vào chân lý tu cứu cửu huyền thất tổ.
3.1. Bằng chứng về
việc con tu cứu độ cha mẹ
* Tiền bối Minh
Thiện (tu ở Tam Tông Miếu, Minh Lý Thánh Hội) sinh ngày 23-7 Đinh Dậu (Thứ Sáu 20-8-1897)
trong một gia đình đạo đức tại làng Lợi Bình Nhơn, tổng
Hưng Long, tỉnh Tân An (nay thuộc thị xã Tân An, tỉnh Long An). Thân phụ
tiền bối là Tôn Văn Thi, một nhà Nho tu theo đạo Minh Sư.([24]) Tiền bối họ tên
là Tôn Văn Khuê, nhưng khi đi học, ra làng làm giấy khai sanh trễ, thì lấy họ
tên là Nguyễn Văn Miết.
Thân mẫu tiền bối Minh Thiện là bà Lâm Thị Chợ. Bà là
chị thứ bảy của tiền bối Lâm Xương Quang (thầy tu Minh Sư, tục gọi ông Lão Tám
Lâm Đạo Nguơn), nổi tiếng trong giới tu Tiên ở Nam Kỳ qua các bản dịch Thất Chơn Nhơn Quả, Ngọc Lộ Kim Bàn, v.v...
Vào đời vua Khải Định, năm Quý Hợi (1923) môn sanh
Minh Sư ấn tống quyển kinh chữ Hán nhan đề Văn
Xương Đế Quân Cứu Kiếp Bảo Sanh Kinh 文昌帝君救刧保生經 (kinh giữ gìn mạng sống, giải cứu tai họa của Đức Văn Xương Đế Quân).([25]) Quyển kinh này
do bà Chợ ấn tống để cầu giải bệnh. Trên bìa, ở bên trái nhan đề có in dòng chữ
nhỏ: Tân An Lâm Thị Chợ trùng san (khan)
kỳ bệnh dũ (Lâm Thị Chợ ở Tân An tái bản để cầu khỏi bệnh).
Thứ Sáu 29-5-1925 (08-4 Ất Sửu), Đức Thái Ất Thiên Tôn cho
phép hồn thân mẫu tiền bối Minh Thiện về đàn, và bà Lâm Thị Chợ giáng cơ báo
tin như sau:
Siêu thăng về tỏ một lời nầy
Kinh Tiên linh hiển rèn lòng tụng
Thất tổ cửu huyền đặng xá ngay.
Đại ý bài thơ cho biết linh hồn bà Chợ phải chịu hình
phạt nơi địa ngục (cõi U Minh) rất thảm thiết, khổ sở. Nay bà được siêu thăng
nhờ con trai biết tu hành nên cứu được cửu huyền thất tổ (trong đó có thân mẫu).
Thứ Sáu 06-8-1926 (28-6 Bính Dần), Thần Lục
Đinh vưng lịnh Đức Đạo Tổ giáng cơ báo tin vui cho tiền bối Minh Thiện như sau:
“Thiện, ta mừng
giùm cho ngươi. Nay mẹ ngươi đặng phong Thánh đi phổ độ nhơn gian, là nhờ công
ngươi siêng lo tu, giữ Đạo một lòng và có công tìm kiếm dịch kinh sách đặng phụ
giúp mà khuyên người ta mau tỉnh ngộ… Mẹ ngươi
sẽ đi khắp thế giới coi ai có lòng mộ đạo thì Người độ, ngày sau ngươi sẽ có
tin mừng.” ([27])
Lời dạy trên đây cho thấy thân mẫu tiền bối Minh Thiện
chẳng những được siêu thoát khỏi địa ngục thảm khổ, mà lại còn cao thăng lên quả
Thánh, được đi hành đạo cứu đời trong cõi vô vi (siêu hình).
Bà Lâm Thị Chợ có được kết quả rất tốt lành như thế
chính là nhờ con trai (tiền bối Minh Thiện) xả thân tu hành và làm pháp thí (dịch
kinh, soạn sách dạy đạo, ấn tống kinh sách…), tạo công đức lớn.
* Thứ
Tư 26-01-1966 (06-01 Bính Ngọ), tại thánh thất Tân Định (nay ở số 53/112 Trần Khánh Dư, phường Tân Định, quận
1, TpHCM), Đức Tiên Cô Nguyệt Điện
giáng cơ ban cho bốn câu thánh thi như sau:
Nhờ ơn hiếu tử lắm gia công
Hành đạo bao năm chẳng ngại lòng
Mới biết cửu huyền cùng thất tổ
Đức Tiên Cô nói rõ
rằng nhờ con trai có hiếu, biết tu hành nên Ngài được cao thăng phẩm vị. Vị hiếu
tử của Đức Tiên Cô chính là tiền bối Bảo Pháp Chơn Quân Huỳnh Chơn (thế danh Tạ
Đăng Khoa).([29])
* Thứ Hai 26-12-1966 (15-11 Bính Ngọ), tại thánh tịnh Ngọc
Minh Đài, Đức Đông Phương Chưởng Quản giáng cơ dạy:
“Sau đây, Bần Đạo báo một
tin lành cho các hiền đệ, hiền muội Tham
Lý, Diệu Long, Đạt Minh, Chí Tín được tường:
Tam Giáo Tòa và Tam Trấn Oai Nghiêm Đại Đạo
Tam Kỳ Phổ Độ đã chứng minh lòng thành tu công bồi đức của các đệ muội và đã ân
phê sắc tứ Tiếp Dẫn Tiểu Đồng dẫn chơn hồn Hồng Phước và Lê Văn Còn về
tạm trú nơi Cung Thái Ất để chờ ngày phán xét và ban thưởng.
Các ái nữ của Hoàng Ngọc [Tạo]
là Hoàng Thị hãy vững đức tin, tăng tiến việc tu công bồi đức để hộ điển cho
chơn hồn Hồng Phước trong thời kỳ đợi chờ phán xét.”
Tiếp theo đó,
cũng trong đàn cơ ấy, Đức Vân Hương Thánh Mẫu giáng
và dạy thêm như sau:
“Đây
Chị chỉ minh chứng sự thực là hai chơn hồn [Hồng Phước và Lê Văn Còn] vừa thoát hóa,
xét lại đường tu chưa mấy, công quả chẳng là bao, nhưng lại được tránh nơi đọa
lạc, lên cõi Thiên Đàng chờ ngày phán xét (...).
Nhưng
trong sự thành đạo có từng giai đoạn, từng cấp bậc,
hoặc thưởng nhiều hoặc thưởng ít, hoặc đắc vị hoặc tái kiếp nơi hồng trần, đều
được dành trong ân huệ Kỳ Ba của Thượng Đế tất cả. Trong phần ấy cũng nhờ có sự
công quả của quyến thuộc thân nhân, vì có câu ‘Tu cứu cửu huyền thất tổ’. (…)
Nên
Chị khuyên các em hãy nghĩ: Ngoài cá nhân mình, còn bao nhiêu trách nhiệm khác
cùng liên quan tới cá nhân nữa.”
Chúng ta biết tiền bối Tham Lý tức là Tham Lý Minh Đạo
kiêm Tổng Thơ Ký Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý Cao Đài Giáo Việt Nam , thánh danh
Minh Lý (thế danh Đỗ Vạn Lý),([30]) là con rể tiền bối
Hồng Phước Hoàng Ngọc Tạo (giữ chức Minh
Tra tại Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý). Diệu Long là thánh danh vợ tiền bối
Hoàng Ngọc Tạo. Sau khi quy thiên
(1966), quả vị của tiền bối Hồng Phước là Đô Thống Quản Địa Thần.
Chúng ta cũng biết rằng tiền bối Lê Văn Còn
là
thân phụ hai vị tiền bối hành đạo tại Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý là Đạt Minh (Lê
Văn Non, 1913-1985, quả vị Quang Minh Huệ Tiên), và Chí Tín (Lê Văn Bá,
1918-2008). Tiền bối Lê Văn Còn sinh tiền là Giáo Sư phái Thượng (Hội Thánh Cao
Đài Ban Chỉnh Đạo), làm Đầu Họ Đạo thánh thất Bình Hòa (tỉnh Gia Định, nay thuộc
quận Bình Thạnh). Sau khi quy thiên, tiền
bối Giáo Sư Thượng Còn Thanh đắc quả vị Minh Đức Đạo Nhơn.
* Chủ Nhật 20-8-1967 (15-7 Đinh Mùi),
tại thánh tịnh Ngọc Minh Đài, Đức
Hồng Y Tiên Nữ vâng lịnh Đức
Diêu Trì Kim Mẫu Vô Cực Từ Tôn, dẫn hồn bà Nguyễn Thị Hồ (mẹ của tiền bối Ngọc
Kiều, nhạc mẫu của tiền bối Thiện Bảo) về đàn cơ. Bà tự giới thiệu: “Tôi, nhũ danh nơi hồng trần là Nguyễn Thị Hồ, thân mẫu của phần nhục
thể Ngọc Kiều.” Sau đó, bà tâm sự cùng con gái:
“Ngọc Kiều con!
(…) Nhờ công đức của con và các con tu niệm, nên kỳ ân xá trung
nguơn năm rồi,([31]) mẹ được Diệu Hạnh Tiên Cô.([32]) đến
dẫn hồn về cho tu học tại Phổ Đà Sơn. Tuy khỏi phải chuyển kiếp đầu thai sanh lại
chốn hồng trần sắc giới, chớ mẹ cũng chưa được ban phong một chức vị nào nơi miền
Tiên cảnh, là vì lúc sinh thời tại thế chưa biết tu hành chay lạt gì. Nếu không nhờ đại ân xá và
chẳng được công đức của con, không biết giờ này mẹ phải ra sao.
Nhơn kỳ trung nguơn ân xá này, mẹ thỉnh nguyện được về
thăm con cháu cùng gởi nhắn đôi lời:
Gởi con cháu ở hồng trần
Mau
mau thức tỉnh lập thân tu hành.
.
. .
Mong con cùng cháu nữ nam
Cả
nhà lớn nhỏ chung tâm đường lành
Mẹ
nay mà được siêu sanh
Nhờ
con Kiều nữ tu hành quả công.
* Thứ Tư 17-6-1970 (14-5 Canh Tuất), tại Văn Phòng Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý,([33]) nhân lễ kỷ niệm Đức An
Hòa Thánh Nữ,([34]) Đức Diệu Hạnh Tiên Cô giáng cơ dạy:
“Giờ này Bần Nữ đến
đây để chung vui ngày kỷ niệm Thánh Nữ An Hòa, cũng để giúp cho một chơn linh vừa
đắc vị đến gặp lại cảnh cũ người xưa cho biết việc luân hồi
chuyển kiếp hay tu để cứu cửu huyền thất tổ là một sự hiển nhiên, không phải việc
mơ hồ.”
Chơn linh này là bà Nguyễn Thị Hồ, đắc quả Bảo Ân Thần Nữ. Trong đàn cơ ấy, Đức
Thần Nữ dạy:
“Mẹ cám ơn nhục nữ
Ngọc Kiều, Thanh Liên,([35]) và nhục tế Thiện Bảo. Nhờ các con mà mẹ được thoát
chốn luân hồi.”
* Thứ Hai 30-9-1974
(15-8 Giáp Dần), trong đàn cơ tại Diêu
Trì Bửu Điện (thánh thất Bình Hòa, nay ở số 174/30A Chu Văn An, phường 12, quận
Bình Thạnh, TpHCM, thuộc Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo), Đức Diêu Trì Kim Mẫu
dạy vợ chồng hai môn sanh Huệ Chơn (Nguyễn Thành Lũy, tức Nguyễn Huệ Chơn) và
Thanh Vân (Nguyễn Thị Vân) như sau:
“Huệ
Chơn, Thanh Vân! Từ thuở
nhỏ, hai con đã có tâm mộ đạo tu hành và hành đạo giúp người không nệ khổ nhọc,
không cầu vụ lợi. Cho đến ngày nay độ dẫn được con cháu, và nhờ Từ Quang Tiên Nữ
nguyện cầu, nên Mẹ ban hồng ân cho Phạm Thị Nhị là thân mẫu con được siêu thoát
hồng trần vào cõi thanh tịnh lập thêm công đức để giác linh minh thánh, chứng
quả vô sanh. Các con thành tâm thọ sắc:
- Thừa Ngọc Hư Cung sắc ban
ngọc chỉ ân tứ Phạm Thị Nhị sanh tiền thiện
tâm thủ đạo, vô tác ác nghiệp, tự hậu tử tôn tu trì bồi công lập đức.
- Chiếu thử ân phong Bảo Hiền Thần Nữ, trấn tại
thôn Nhơn Nghĩa tam niên, độ dân tế chúng hồi đầu hướng thiện.”
Đức Bảo Ân Thần Nữ sau bảy năm
hành đạo, và Đức Bảo Hiền Thần Nữ sau bốn năm hành đạo, đều sẽ được cao thăng
lên Thánh vị. Ngày Thứ Hai 26-9-1977 (14-8 Đinh Tỵ), tại
Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý Cao Đài Giáo Việt Nam, Đức Vân Hương Thánh Mẫu báo
tin vui và dạy thêm rằng hai quả Thánh ấy có phần góp công đức của hai người
con là tiền bối Ngọc Kiều và đạo trưởng Huệ Chơn. Đức Thánh Mẫu dạy:
“Nhân đây Chị báo
tin mừng cho hiền muội Ngọc Kiều và
hiền đệ Huệ Chơn là nhị vị
Thần Nữ – Bảo Hiền Thần Nữ và Bảo Ân Thần Nữ – đã dày công quả nên được Đức Mẹ
cho về Tiên cảnh tu luyện, chơn linh sẽ được siêu xuất phẩm vị Thánh. Đó là đặc
ân vô cùng, nhờ hiền muội và hiền đệ đã hết lòng hành đạo, trọn lòng tin nơi
Thượng Đế. Chị mừng cho đó.”
3.2. Bằng chứng về việc con rể tu cứu độ
cha vợ
* Thứ Hai 02-7-1951 (28-5
Tân Mão), tại thánh tịnh Thanh Tịnh Đàn (nay ở ấp Ngãi Thuận, xã Thân Cửu
Nghĩa, huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang), vào giờ Ngọ, Đức Đông Nhạc Đại Đế dẫn
hồn tiền bối Lý Vạn Dũ (1877-1949)
nhập cơ sau ba năm (ba mươi sáu tháng) tạ thế. Lý tiền bối tường thuật như sau:
Ba sáu tháng xa nhà cách trẻ
Hai tám này vui vẻ Ngọ nay
Bấy lâu dật dựa tuyền đài
Tiền bối cho biết vì sao hồn linh phải chịu
khổ não nơi tuyền đài: Lúc còn tại thế, vì mải lo tạo dựng sự nghiệp vật chất hầu
bảo dưỡng thê nhi nên vô tình gây tạo tội lỗi.
Phải đảo điên
Tại vì tiền
Mất tâm thiền
Mất tâm thiền tại thiên gia thất
Lo bảo toàn vất vả lao tâm
Khổ lòng đau nhức chích châm
Mấy mươi năm chịu lạc lầm không tu.
Lòng không tu
Bị lờ lu
Mất tánh nhu
Mất
tánh nhu, cần cù lo liệu
Sợ
thiếu dùng lịu địu trẻ thơ
Cho
nên tội lỗi bất ngờ
Nhưng nhờ con gái tiền bối là đạo tỷ Lý Thị Mỹ
(1908-1971), thánh danh Thanh Lan (đắc quả Thanh Lan Tiên Nữ, về sau thăng lên
Thanh Lan Tiên Nương), và cũng nhờ con rể là đạo trưởng
Trương Truyền Chánh (1907-1988), thánh danh Kiến Minh,([38]) biết siêng năng tu
hành, làm công quả và cầu nguyện nên tiền bối Lý Vạn Dũ được hưởng ân đại xá,
thoát cảnh khổ sầu nơi địa ngục và được Đức Chí Tôn ban ơn cho chơn linh tiền bối
trở về cõi trần hàn huyên cùng con cái qua ngọn linh cơ như sau:
Con tu
cha đặng ngao du
Nhờ con chí khí tu
hành
Ra công phổ cứu cầu
danh cha về.
(...) Nhờ
lòng tu đức của các con nên cha mới đặng linh hồn thong thả hầu nương cửa thiền
ôn dưỡng tâm linh chờ ngày lãnh bảng Tiên bang.([40]) Nhờ con cùng rể giúp cha, ấy gọi đền ơn dưỡng dục đó
vậy. Nay cha mới biết là con tu cứu cửu huyền thất tổ đặng tiêu diêu. Ấy cũng
nhờ Kỳ Ba đại xá.”
Tiền bối Lý Vạn Dũ về
sau chẳng những lìa khỏi u đồ địa ngục mà còn thoát cảnh luân hồi sanh tử nơi
thế gian và đắc quả vị Phước Đức Chơn
Thánh. Ấy nhờ con gái và con rể của Lý tiền bối đều biết tu hành, lập công
bồi đức.([41])
3.3. Bằng chứng về việc con dâu tu
cứu độ mẹ chồng
* Thứ Ba 30-8-1966 (15-7 Bính Ngọ), tại thánh tịnh Tam
Thanh Bửu Điện (nay ở ấp Dinh, xã Khánh Hậu, thị xã Tân An, tỉnh Long An), một
nữ môn sanh Cao Đài là Trần Thị Tiến đắc
quả vị Hồi Tâm Phục Thánh. Khi được Đức Chí Tôn cho phép trở về trần gian, Ngài
thổ lộ trên ngọn linh cơ:
“Tôi giờ nầy
đặng sắc ân ban lai đàn phục chỉ, đắc vị Hồi Tâm Phục Thánh về nguyên, nhờ lòng đạo đức con dâu tôi lập công.”
Sau đó, Đức Hồi Tâm Phục Thánh
ban cho thánh thi:
Nay mẹ đặng chứng
ngôi vị Thánh
Nhờ
các con gánh vác quả công
Dâu
hiền đáng phận quần hồng
Điểm
tô công quả sắc phong lãnh rồi.
3.4. Bằng chứng về việc cha tu cứu
độ con cái
* Anh Trương Thành Thiện sinh năm 1945 trong một gia
đình có truyền thống tu hành theo tân pháp Cao Đài. Cha là Trương Truyền Chánh
(thánh danh Kiến Minh, quả vị Đắc Tâm Chơn Thánh), mẹ là Lý Thị Mỹ (thánh danh
Thanh Lan, quả vị Thanh Lan Tiên Nữ, về sau thăng lên Thanh Lan Tiên Nương).
Anh
Thiện tạ thế năm 1972, mới hai mươi tám tuổi, trong lúc đang trên đường thi
hành công vụ của người trai thời chinh chiến. Mặc dù lúc sống chưa lập được
công trạng với Đạo nhưng nhờ ân phước của tổ tiên ([42]) và cha mẹ đã dày công đức tu hành nên anh
Thiện không bị luân hồi chuyển kiếp mà được Đức Nguyệt Đức Kim Tiên ([43]) rước về cõi trời tu học ngay khi hồn anh vừa lìa khỏi
xác.
Trong thời gian cầu siêu tám mươi mốt
ngày (cửu cửu) theo bí tích Cao Đài,
chơn linh anh Thiện còn được đưa về Huờn Cung Đàn tại Tam Giáo Điện Minh Tân (ở
số 221 Bến Vân Đồn, quận 4, Sài Gòn) vào giờ Ngọ ngày Thứ Hai 10-7-1972
(30-5 Nhâm Tý) để tường thuật sự tình lúc hy sinh ngoài chiến trường và những
việc xảy ra sau đó.
Anh Thiện được đặc ân hy hữu trở về hàn
huyên cùng gia đình như thế là nhờ hưởng công quả của cha. Nguyên do, trong lúc
tang gia bối rối, tiền bối Kiến Minh Trương Truyền Chánh nhận được thánh sắc Ngọc
Hư Cung dạy đi hành đạo tại đồng bằng sông Cửu Long. Mặc dù cõi lòng đang tan
nát vì con trai vừa mất, chưa an táng, tiền bối Kiến Minh vẫn tuân hành thánh lệnh,
dốc tâm lo tròn việc đạo.
Khi về đàn cơ, chơn linh anh Thiện nhắc lại tâm trạng lúc ấy
của cha hiền, và xác nhận anh được hưởng ơn huệ nơi cõi trời cũng nhờ vào công
quả đó của cha:
Thọ lịnh sắc cõi lòng tan nát
Nhưng vững vàng phú thác ân Thiên
Nhờ đây ân huệ hưởng liền
Qua thánh giáo Cao Đài và các trường hợp điển hình lược kể trên đây,
chúng ta xác tín hai điều này:
- Con cái (kể cả con dâu, con rể) thật tâm tu hành thì cha mẹ,
ông bà được hưởng nhờ công đức.
- Cha mẹ, ông bà thật tâm tu hành thì con cháu cũng được hưởng nhờ công đức.
Tuy đó là chân lý được dạy
trong kinh sách nhiều tôn giáo, nhưng mỗi người không nên ỷ lại vào điều này.
Trong đàn cơ tại Văn Phòng
Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý Cao Đài Giáo Việt Nam, ngày Thứ Bảy 28-6-1969 (14-5 Kỷ Dậu),
để giúp người đời khỏi ngộ nhận (hiểu sai), Đức Diệu Hạnh Tiên Cô từ bi dạy:
“Trong giới tu hành có câu ‘Tu là cứu bản
thân và cũng cứu cửu huyền thất tổ.’ Vấn đề này cần phân
tách cho rõ ràng hơn để người đời không ngộ nhận.”
Thật vậy, ai ăn mới biết
no. Điều tốt lành hơn cả là mỗi người phải
tự mình tu hành để chính mình cứu độ bản thân và ảnh hưởng tới quyến thuộc,
thân thích.
Nếu trong một gia tộc, có
nhiều người cùng thật tâm tu hành, thì mỗi người giống như một “điện đài” phát
sóng; cả gia đình hay gia tộc là tập hợp của nhiều điện đài cùng lúc phát sóng.
Tất cả sẽ đan kết chặt chẽ với nhau dệt thành mạng lưới sóng điển lành mạnh mẽ che
phủ rộng khắp, bảo hộ cho nhau rộng khắp. Như thế chẳng phải là lợi ích càng
thêm to tát hay sao?
Để khỏi nghĩ lầm rằng bản
thân mình không cần tu hành, vì có thể ỷ lại, hưởng nhờ vào công đức tu hành của
người khác trong thân tộc, chúng ta nên ghi nhớ lời Đức An Hòa Thánh Nữ dạy
con cháu vào ngày Thứ Tư 21-6-1967
(14-5 Đinh Mùi), tại Văn Phòng Phổ
Thông Giáo Lý:
“Ch. Đ., Ch. Ph.! Hai con hãy xét mình mà cố gắng noi theo gương đạo đức của cha mẹ.
Sự tu hành và công đức của cha mẹ tuy có ảnh hưởng tốt đẹp đến con cái trong gia
đình, nhưng điều cần yếu là chính mỗi con phải tự tạo cho mình một nếp sống đạo
đức để nhờ cái nhân lành đem đến quả tốt cho đời mình sau nầy.
(…)
K., Th., L.! Các con cũng vẫn được tình thương chan rưới của bà và cha mẹ
trong tình đồng đều chia sẻ, nhưng sự rủi may và tội phước
của cả một đời mình còn phải do chính mình gây tạo nữa kìa.”
Tóm lại, khi ý thức rằng bản
thân mỗi người phải tự tu, tự học, tự hành thì chúng ta sẽ dứt bỏ được sự ỷ lại
“ăn ké” vào công đức tu hành của người khác. Đừng nghĩ rằng mình cứ mặc tình
bôn ba, bươn chải tranh cạnh ngoài đời để làm giàu, rồi đem tiền của ra làm “đại
thí chủ” tài trợ, bảo bọc cho một ai đó tu hành, với thâm ý rằng mai sau người
đó đắc đạo, mình sẽ hưởng nhờ phần nào. Nói khác đi, ta nên dứt bỏ ý đồ và hành
vi “mướn” người khác tu giùm mình.
Hơn nữa, trước khi nghĩ tới lý tưởng độ tha (cứu rỗi người khác, cứu độ cửu huyền thất tổ), chúng
ta hãy thành tâm xét kỹ xem chính mình đã thật sự tu hành đúng đắn hay chưa. Nếu
mình chỉ tu giả dối, tu bề ngoài, tu áo mão, tu quyền lực, mượn danh đạo tạo
danh đời, v.v… thì e rằng bản thân mình còn phải đọa trầm để trả nợ tội lỗi,
làm sao còn dám mơ ước cứu độ ai khác?!
Chúng ta phải biết sợ hãi khi bước vào đường tu hành. Thật vậy, dù đang tu tại gia hay
xuất gia, ta đều phải biết sợ mắc nợ người thân và bá tánh:
- Khi tu tại gia, trước tiên ta mắc nợ thân nhân
trong gia đình đã hy sinh bảo dưỡng cho ta hết năm này sang năm khác, để ta rảnh
rang, thanh thản tu hành.
- Khi làm chức việc, chức sắc, hiến thân vào Hội
Thánh, Giáo Hội để tu, thì ta mắc nợ tập thể tín đồ đã góp công quả nuôi dưỡng
cho ta ổn định cuộc sống để yên tâm tu hành.
Như thế ta mắc nợ bá tánh quá
lớn. Nếu tu không xong, không trọn vẹn bổn phận và trách nhiệm một chức việc, chức sắc
thì theo luật Tạo Hóa công bằng, đương nhiên ta sẽ phải trả nợ lại cho bá tánh,
cả vốn lẫn lãi. Con đường đọa lạc luân trầm ắt hẳn khó tránh khỏi. Chính vì lẽ
đó, lúc còn tại thế, Đức Phật Thích Ca dạy các môn đồ khi ôm bình bát xin cơm hàng
ngày hãy nhớ rằng một hột cơm bá tánh cúng dường còn lớn nặng hơn núi Tu Di. Tâm
niệm như thế để biết sợ mà ráng lo tu.
Đối với chức việc, chức sắc, Đức Thần Nữ Nguyễn Thị
Ngại ([45]) dạy rằng đã nhận
lãnh phận sự trong Đạo nhưng không tròn trách nhiệm thì chẳng những bản thân chức
việc, chức sắc mà cả cửu huyền thất tổ của người ấy cũng phải liên lụy, chung
chịu tội tình. Trong đàn cơ ngày Chủ Nhật 26-4-1964 (15-3 Giáp Thìn) tại thánh
thất Trung Thành ở Đà Nẵng (thuộc Hội Thánh Truyền Giáo Cao Đài), Đức Thần Nữ dạy:
Kẻ gánh việc phải
xong phận sự
Phải hết lòng
chăn giữ đàn chiên
Hễ làm nắm lấy
pháp quyền
Không tròn trách
nhiệm tiền khiên tội tình.
Không chỉ những
thân mình chịu khổ
Mà cửu huyền thất
tổ chịu lây
Lỗi lầm khuyên chớ
chuốc gây
Chuốc gây tội lỗi,
Mẹ Thầy khó thương.
Việc liên đới chịu trách nhiệm giữa người
tu và cửu huyền thất tổ như thánh huấn của Đức Thần Nữ cảnh giới là lẽ dễ hiểu.
Ta tu tốt thì cửu huyền thất tổ được hưởng công đức; ngược lại, ta tu không
xong thì cửu huyền thất tổ ắt phải chịu lây quả xấu. Đó là lẽ công bằng theo
Thiên luật. Bởi vậy, tại Minh Đức Đàn ngày Thứ Sáu 06-8-1965 (10 rạng 11-7 Ất Tỵ),
Đức
Nhứt Trấn Oai Nghiêm Trường Canh Thái Bạch giáng cơ, từ bi nhắc nhở người tu:
“… sự hành đạo của
chư hiền nam nữ ảnh hưởng đến cửu huyền thất tổ.”
Nói cách khác, đừng nghĩ sai rằng bản
thân mình trót tu hành không xong thì chỉ riêng cá nhân mình lãnh hậu quả. Thật
ra, mình tu không xong thì còn tác hại dây chuyền đến nhiều người khác, trong
đó có cửu huyền thất tổ của mình nữa. Tại Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý Cao Đài Giáo
Việt Nam
ngày Thứ Năm 24-3-1972 (10-02 Nhâm Tý), Đức Minh Đức Đạo Nhơn giáng cơ dạy:
“Đừng
ai tưởng rằng mình hành đạo là để tu thân mà thôi, nếu tu được thì tốt riêng
cho mình, không tu được thì cũng chẳng làm hại chi ai. Nếu tưởng vậy là sai lầm.”
5. THAY LỜI KẾT
Tóm lại, trước khi nghĩ rằng
mình tu để cứu cửu huyền thất tổ, mỗi người hãy biết từ bi với chính mình. Tức là hãy lo tu hành
chân chánh để có thể tự cứu lấy bản thân trước đã.
Trên những
chuyến bay, các ông bố, bà mẹ có con nhỏ đi kèm luôn luôn được nhắc nhở rằng nếu
xảy ra sự cố, cha mẹ hãy tự đeo mặt nạ dưỡng khí (oxygen masks) cho cha
mẹ trước tiên để tự cứu, rồi sau đó mới lo cứu con cái. Đây không phải là ích kỷ,
vì mình có cứu được mình rồi mới mong cứu được người khác. Thế nên, tại Cơ Quan
Phổ Thông Giáo Lý Cao Đài Giáo Việt Nam ngày Thứ Hai 26-9-1977 (14-8 Bính Thìn),
Đức Vô
Cực Từ Tôn Diêu Trì Kim Mẫu giáng cơ khuyên dạy con cái:
“Thương
thân con ráng lo tu.”
Bà Chiểu, 05-4-2012
HUỆ KHẢI
([2]) Tam Nguyên Thiên Tôn 三元天尊 tức là Thiên
Quan, Địa Quan, và Thủy Quan Đại Đế 天官, 地官, 水官大帝. Về ba vị này, xem thêm bài Ngày Thiên Quan Tứ Phước Trong Đạo Cao Đài, in trong: Huệ Khải, Một
Góc Nhìn Văn Hóa Cao Đài. Hà Nội:
Nxb Tôn Giáo, 2011, tr. 127-129. (Quyển 47-1 trong Chương Trình Chung Tay Ấn Tống Kinh Sách Đại Đạo.)
([30]) Tiền bối Đỗ Vạn Lý
sinh ngày Thứ Ba 03-5-1910 tại quận Lai Vung, tỉnh Sa Đéc; quy thiên ngày Thứ Sáu
11-4-2008 tại Chatsworth, Los Angeles, California, Hoa Kỳ. Tiền bối học trung
học tại Pháp, rồi tốt nghiệp khoa luật ở Viện Đại Học Sorbonne (Paris), sau đó
lấy bằng Master ngành khoa học chính trị (political science) tại Viện Đại Học
Columbia University (thành phố New York, bang New York). Vào giữa thập niên
1950, tiền bối làm tổng lãnh sự tại Jakarta (Nam Dương, tức Indonesia) và New
Delhi (Ấn Độ). Tháng 9-1963 tiền bối làm đại sứ tại Hoa Kỳ, nhưng bị triệu hồi
sau cuộc đảo chánh ngày 01-11-1963. Sau khi thôi giữ chức Tham Lý Minh Đạo kiêm
Tổng Thơ Ký tại Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý Cao Đài Giáo Việt Nam (nay là Cơ Quan
Phổ Thông Giáo Lý Đại Đạo), tiền bối làm đại sứ tại Nhật hai năm (cho tới tháng
4-1975). Tiền bối là trưởng nam của cụ Đỗ Thuần Hậu (1883-1967, quả vị Huyền
Pháp Đạo Nhơn).
([33]) Nhà riêng tiền bối
Thiện Bảo Ngô Chí Bình (1906-1987, quả vị Bảo Tịnh
Chơn Thánh) và tiền bối Ngọc Kiều Lê Thanh Kiều (1922-1987, quả vị Hồng Quang Thánh Nương), đặt trên lầu 1 số
nhà 165E Cống Quỳnh, quận 1, Sài Gòn. Đây là Văn Phòng Phổ Thông Giáo Lý, tiền thân của Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý Cao Đài Giáo Việt Nam (do Đức Chí Tôn
thành lập năm 1965).
([45]) Tiền bối Nguyễn Thị
Ngại sinh năm 1906 tại xã An Khê (nay là phường An Khê, quận Thanh Khê, thành
phố Đà Nẵng). Song thân là ông Nguyễn Hữu Thêm và bà Huỳnh Thị Mùi. Sau khi nhập
môn tại thánh thất Trung Thành năm Đinh Sửu (l937), tiền bối xin mẹ cho xuất
gia, vào ở hẳn trong thánh thất để chuyên tâm tu học. Ngày Thứ Tư 27-11-1946,
quân Pháp tái chiếm Đà Nẵng. Tất cả đạo hữu đều tản cư lên Sở Nông của Cơ Quan
Truyền Giáo Cao Đài Trung Việt ở Tý Sé (huyện Quế Sơn). Riêng tiền bối Nguyễn
Thị Ngại nhất quyết trụ lại để gìn giữ thánh thất. Thế rồi giữa một cuộc giao
tranh khốc liệt, tiền bối đã bỏ mình khi thánh thất Trung Thành trúng đạn pháo
sụp đổ tan nát.
Chủ Nhật 26-4-1964
(15-3 Giáp Thìn), Ơn Trên cho tiền bối về cơ với quả vị là Thần Nữ, thọ lệnh
Diêu Trì Cung âm phò mặc trợ cho phái nữ thánh thất Trung Thành trên đường tu
học. Xem thêm tiểu sử Đức Thần Nữ trong Đại
Đạo Văn Uyển, tập Hanh, quý II năm 2012 (Hà Nội: Nxb Tôn Giáo).
► Quý đạo hữu gần xa muốn nhận các kinh sách do Chương
Trình Chung Tay Ấn Tống Kinh Sách Đại Đạo xuất bản, được gởi biếu qua bưu điện,
xin vui lòng gởi e-mail về: daidaovanuyen@gmail.com
Và xin quý đạo hữu hoan hỷ trả giúp cước phí cho bưu điện ngay khi nhận được sách biếu.
Ban Ấn Tống trân trọng cảm ơn quý đạo hữu.Và xin quý đạo hữu hoan hỷ trả giúp cước phí cho bưu điện ngay khi nhận được sách biếu.