Thứ Tư, 8 tháng 2, 2017

3. LƯỢC SỬ ĐẠO CAO ĐÀI: THỜI TIỀM ẨN 1920-1926


MỞ ĐẦU
Vào những năm 20 của thế kỷ 20, một nền đạo mới đã xuất hiện ở Việt Nam với danh xưng Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, gọi tắt là đạo Cao Đài, và nêu tôn chỉ Tam Giáo quy Nguyên, Ngũ Chi phục Nhứt.([1])
Tam Giáo bao gồm Nho Giáo (Khổng Giáo), Đạo Giáo (Lão Giáo, Tiên Giáo) và Phật Giáo (Thích Giáo).
Ngũ Chi là năm con đường tu hành của nhân loại, gồm Nhơn Đạo, Thần Đạo, Thánh Đạo, Tiên Đạo, và Phật Đạo.
Ngoài phần bản sắc của Cao Đài, tôn giáo mới này chủ trương tổng hợp tinh hoa các nền đạo lý theo phương châm Kết tinh kim cổ, dung hòa Đông Tây. Đó là lý do các học giả phương Tây thường có xu hướng coi Cao Đài như một tôn giáo tổng hợp (syncretistic).
Thuật ngữ Tam Kỳ ngụ ý chia lịch sử triết giáo của nhân loại ra ba thời kỳ lớn (tam nguơn, tam nguyên):
- Nhứt Kỳ Phổ Độ kéo dài từ thời thượng cổ (tiền sử hay khuyết sử) cho tới khoảng giữa thế kỷ 7 trước Công Nguyên (TCN), tức khoảng năm 650 TCN.
- Nhị Kỳ Phổ Độ diễn ra từ khoảng giữa thế kỷ 7 TCN cho tới khoảng giữa thế kỷ 19 (khoảng năm 650 TCN tới khoảng năm 1850).([2])
- Tam Kỳ Phổ Độ khởi đầu vào khoảng giữa thế kỷ 19.
NHỨT KỲ PHỔ ĐỘ có một số đặc trưng triết giáo như sau:
Tại Trung Quốc, từ tám quẻ đơn (bát quái) phát triển thành sáu mươi bốn quẻ kép (trùng quái), mỗi quẻ sáu hào, tổng cộng ba trăm tám mươi bốn hào, mỗi hào có thể là một vạch liền  hay vạch đứt . Chu Văn Vương (1152-1056 TCN, trị vì 1099-1050 TCN) viết Thoán Từ giải thích sáu mươi bốn quẻ. Chu Công (con Chu Văn Vương) viết Hào Từ giải thích ba trăm tám mươi bốn hào. Như thế, Kinh Dịch đã hình thành được nền tảng ban đầu.
Tại Ấn Độ, đạo Bà La Môn xuất hiện. Tư tưởng Ấn Độ trong Kỳ Nhứt gồm hai thời đại quan trọng:
- Thời đại các kinh Veda (khoảng 1500-600 TCN).
- Thời đại Anh Hùng Ca hay Sử Thi (1000-600 TCN). Các bộ kinh Upanishad được kết tập (khoảng 800-600 TCN).
Đạo Cao Đài xem Bà La Môn Giáo thuộc về Phật Đạo thời Nhứt Kỳ Phổ Độ. Các vị Phật của thời kỳ nảy là Nhiên Đăng Cổ Phật, Brahma Phật, Shiva Phật, và Krishna Phật…
Song hành với đạo Bà La Môn ở Ấn Độ thời cổ còn có một hệ tư tưởng khác truyền được hai mươi ba đời tổ sư. Đến đời tổ thứ hai mươi bốn và cũng là đời tổ sau cùng (nhằm Nhị Kỳ Phổ Độ), hệ tư tưởng này được canh tân và trở thành Kỳ Na Giáo (Jainism).
Tại Palestine, hình thành Do Thái Giáo. Căn cứ từ lúc Thánh Moses được Đức Thượng Đế truyền thụ Mười Điều Răn trên núi Sinai thì tín ngưỡng cổ xưa của người Do Thái bắt đầu vào khoảng năm 1300 TCN.
NHỊ KỲ PHỔ ĐỘ có một số đặc trưng triết giáo như sau:
Tại Trung Quốc, vào thế kỷ 6 TCN hình thành Khổng Giáo và Lão Giáo.
Tại Ấn Độ, đạo Bà La Môn vẫn tiếp tục. Thế kỷ 6 TCN có thêm Thích Ca Giáo, đồng thời Vardhamana (599-527 TCN, hiệu là Mahavira) canh tân một tôn giáo cổ truyền của Ấn Độ thành Kỳ Na Giáo (Jainism). Thế kỷ 15, Nanak (1469-1539) thành lập Xích Giáo (Sikhism).
Tại Palestine, Do Thái Giáo vẫn tiếp tục. Chúa Jesus Christ ra đời, và rồi Kitô Giáo hình thành.
Tại Ả Rập, thế kỷ 7, nhà tiên tri Muhammad sáng lập Islam Giáo.
Tại Ba Tư (Iran ngày nay), Zoroaster (hay Zarathustra) sáng lập Bái Hỏa Giáo, còn gọi Ba Tư Giáo, khoảng trước thế kỷ 6 TCN.
Triết học Hy Lạp ra đời vào thế kỷ 6 TCN và tiếp tục phát triển. Đạo Cao Đài xem Pythagore Giáo thuộc về Phật Đạo thời Nhị Kỳ Phổ Độ.
TAM KỲ PHỔ ĐỘ có một số đặc trưng triết giáo như sau:
Trong hai kỳ trước, các nền tư tưởng triết giáo tiêu biểu nói trên còn bị giới hạn trong điều kiện không gian địa lý ngăn cách. Sang Kỳ Ba, thế giới ngày một gần lại, con người đã chinh phục được khoảng cách thiên nhiên. Phương tiện giao thông, truyền thông đa phương tiện và công nghệ thông tin ngày càng phát triển đã góp phần đưa các nền tư tưởng gần lại, và giúp con người khám phá ra sự tương đồng trong đa dạng. Kỳ Ba vì vậy có một đặc sắc riêng là xu thế dung hòa và tổng hợp tư tưởng Đông Tây kim cổ.
Ngoài sự thành lập đạo Cao Đài ở Việt Nam năm 1926, sau đây là liệt kê một số các sự kiện phản ánh xu thế nói trên của Tam Kỳ Phổ Độ:
Năm 1863, tại Iran (xưa là Ba Tư), Baháu’lláh (1817-1892) sáng lập đạo Baha’i, xác định rằng các tôn giáo trên thế giới đều có chỗ đại đồng vì cùng sinh ra từ một Đấng Thượng Đế duy nhất.
Năm 1875 bà Blavatsky (người Ukraine, 1831-1891) và nhiều người khác cùng lập Hội Thông Thiên Học (the Theosophical Society) ở thành phố New York (Hoa Kỳ). Năm 1879 trụ sở của Hội dời về thành phố Adyar (Ấn Độ). Nêu tiêu ngữ Không tôn giáo nào cao hơn chân lý, Thông Thiên Học đề cao chân lý đại đồng, và hướng con người thoát ra khỏi vỏ ốc tôn giáo để tới được Đại Đạo.
Các triết gia, học giả đã khởi xướng một phong trào đối chiếu và tổng hợp tư tưởng triết giáo nhằm nỗ lực đưa con người gần lại nhau trong tinh thần đại đồng. Cuối thế kỷ 19 có hai sự kiện đáng kể:
- Năm 1893, Đại Hội Tôn Giáo Thế Giới (the World’s Parliament of Religions) được tổ chức lần đầu tại thành phố Chicago (bang Illinois, Hoa Kỳ). Ở tuổi ba mươi, Đại Sư Vivekananda (người Ấn, 1863-1902) lần đầu tiên qua Mỹ với tư cách đại biểu đạo Hindu (Ấn Giáo) dự Đại Hội này.


- Năm 1900, Hội Nghị Quốc Tế Lần Thứ Nhất Về Lịch Sử Tôn Giáo (the First International Congress for the History of Religions) được tổ chức tại Paris (Pháp) dưới quyền chủ tọa của Giáo Sư Albert Réville (nhà thần học Tin Lành người Pháp, 1826-1906).([3])
Hai sự kiện này đã mở đường cho những hoạt động trong các thập niên kế tiếp nhằm cổ vũ cho một lý tưởng hòa đồng tôn giáo. Chẳng hạn:
- Năm 1904, Hội Nghị Quốc Tế Lần Thứ Hai Về Lịch Sử Tôn Giáo (the Second International Congress for the History of Religions) được tổ chức tại Basel (Thụy Sĩ) dưới quyền chủ tọa của Giáo Sư Conrad C. von Orelli.
- Năm 1908, Hội Nghị Quốc Tế Lần Thứ Ba Về Lịch Sử Tôn Giáo (the Third International Congress for the History of Religions) được tổ chức tại Viện Đại Học Oxford (Anh).
- Năm 1939, Radhakrishnan (người Ấn, 1888-1975) bắt đầu dạy Tôn Giáo Đối Chiếu tại Viện Đại Học Oxford.
- Năm 1955, Hội Nghị Các Nhà Tôn Giáo Thế Giới (The Conference of World Religionists) tổ chức tại Tokyo (Đông Kinh, thủ đô Nhật Bản) từ ngày 01 đến 05 tháng 8. Hội Thánh Cao Đài Tây Ninh và Cơ Quan Truyền Giáo Cao Đài ở Đà Nẵng (sau này là Hội Thánh Truyền Giáo Cao Đài) đều cử chức sắc cấp cao tham dự.([4])


- Năm 1959, Viện Văn Hóa Pháp và Viện Đại Học Paris hợp tác mở Khoa Tôn Giáo Đối Chiếu.
- Năm 1960, Hội Nghị Quốc Tế Lần Thứ Mười Về Lịch Sử Tôn Giáo (the Tenth International Congress for the History of Religions) được tổ chức tại Viện Đại Học Marburg (Đức).
- Năm 1961, Viện Đại Học Chicago và Viện Đại Học Yale (Hoa Kỳ) xuất bản các tập san định kỳ làm diễn đàn nghiên cứu, đối chiếu, và tổng hợp triết giáo.
- Năm 1963, Viện Đại Học Sorbonne (Pháp) mở khoa Triết Lý Đối Chiếu.
- Quan trọng hơn cả, Công Đồng Vatican II (do Giáo Hoàng Gioan XXIII khai mạc ngày 11-10-1962 và Giáo Hoàng Phaolô VI bế mạc ngày 08-12-1965) đã mời gọi đối thoại liên tôn giữa Công Giáo và các tôn giáo khác trên thế giới.([5])
Vào Chủ Nhật 17-5-1964, ngày lễ Hiện Xuống, Giáo Hoàng Phaolô VI đã thiết lập một cơ quan đặc biệt của giáo triều Rôma, nhằm phụ trách về các mối quan hệ với tín đồ thuộc các tôn giáo khác. Thoạt đầu cơ quan này có tên là Văn Phòng Về Những Người Không Phải Kitô Hữu (the Secretariat for Non-Christians); từ năm 1988 đến nay, mang tên Hội Đồng Tòa Thánh Về Đối Thoại Liên Tôn (PCID: the Pontifical Council for Interreligious Dialogue).
Tại Vatican ngày 28-10-1965, Giáo Hoàng Phaolô VI công bố Nostra Aetate (Trong thời đại chúng ta), còn được gọi là Tuyên Ngôn về những quan hệ của Giáo Hội với các Tôn Giáo không phải Kitô Giáo (The Second Vatican Council’s Declaration on the Relations of the Church with Non-Christian Religions).
- Từ cuối thế kỷ 20 sang đầu thế kỷ 21, còn có thể kể thêm nhiều sự kiện đối thoại liên tôn tương tự, dù ở tầm kích quốc tế hoặc ở quy mô đa quốc gia. Để kết thúc bản liệt kê này, cũng nên nhắc tới hai sự kiện nữa:
* Hội Nghị lần thứ ba mươi tư các Tôn Giáo Thế Giới (the 34th World Religions Conference) tổ chức ngày 28-9-2014 tại thành phố Guelph, tây nam tỉnh Ontario, nước Canada. Các học giả và lãnh đạo thuộc nhiều truyền thống triết lý và tín ngưỡng tôn giáo khác nhau hội ngộ trong tinh thần bao dung, hòa bình, hợp tác và hiểu biết để cùng khám phá Con Đường Đưa Tới Hòa Bình (the Pathway to Peace), chủ đề của Hội Nghị này.
* Trên đây đã nhắc tới Đại Hội Tôn Giáo Thế Giới (the World’s Parliament of Religions) tổ chức lần đầu tại thành phố Chicago (bang Illinois, Hoa Kỳ) vào năm 1893. Sau đó, Đại Hội này được tái tục nhiều lần: 1993 tại Chicago lần nữa; 1999 tại Cape Town (Nam Phi); 2004 tại Barcelona (Tây Ban Nha); 2009 tại Melbourne (Úc); 2015 tại thành phố Salt Lake (bang Utah, Hoa Kỳ)…
Rất nhiều sách vở cũng đã ấn hành vì một mục đích tương tự. Một trong các tác giả đáng chú ý là Giáo Sư Archie John Bahm (1907-1996),([6]) dạy triết và tôn giáo đối chiếu tại Viện Đại Học New Mexico, tác giả quyển Các Tôn Giáo Hiện Tồn Trên Thế Giới (The World’s Living Religions. New York: Dell Pub., 1964).
Ý kiến của Giáo Sư Bahm cho thấy sự chuyển biến quan trọng nhất của tư tưởng nhân loại là con người trong Kỳ Ba nhận thức được rằng:
- Ngày nay thế giới càng lúc càng nối gần lại các biên cương; trao đổi văn hóa ngày càng phổ biến, thuận tiện và tự nhiên. Con người của Kỳ Ba không còn như ngày xưa vốn chỉ sống cô lập với một nền văn minh bản địa. P.T. Raju, nguyên Trưởng khoa Triết Viện Đại Học Rajasthan, phát biểu rằng “ngày nay chúng ta sống trong một thế giới, chứ không phải chỉ trong một quốc gia hay một nền văn minh, và chúng ta cần hiểu chính ta như là các công dân của thế giới”.([7]) Raju còn xác định là “mặc dù có dị biệt, các tôn giáo đều có cái chung, đó là con người”.([8])
- Bahm nhận thấy “mỗi tôn giáo đều tự nhiên tìm cách trở nên phổ quát và (...) các tôn giáo trên thế giới sẽ có xu thế hướng về một nền tôn giáo thế giới”. ([9])
- Bahm viết: “Tuy nhiên nhân loại đang thiếu một nền tôn giáo thế giới theo ý nghĩa rằng thực chất nền tôn giáo đó là nền đạo duy nhất và theo ý nghĩa rằng tôn giáo đó vượt lên hẳn các tôn giáo khác chỉ vì bản thân tôn giáo đó chứa đựng tinh hoa của tất cả các tôn giáo khác.” ([10])
“Chúng ta chưa sẵn sàng để phát triển một ‘tôn giáo thế giới’ phối hợp tinh hoa của tất cả những tôn giáo của nhân loại. Nhưng chắc chắn đã đến lúc chúng ta phải hiểu biết nhiều hơn về vấn đề này như là một vấn đề.” ([11])
- Ngoài vấn đề tôn giáo thế giới cho toàn nhân loại, còn có vấn đề hiện đại hóa tôn giáo. Bahm viết: “Các hình tướng, giáo lý và thiết chế đặc biệt mà qua đó các nhu cầu, và kinh nghiệm tu hành của một số người đã được phô diễn thì chúng có thể hóa ra lỗi thời, mà sự tiếp tục duy trì chúng thường trở nên có hại cho tín ngưỡng tôn giáo lành mạnh.” ([12])
Theo Bahm, sống trong xã hội toàn cầu (cosmopolitan society) con người cần có tôn giáo khác hơn thời trước, phù hợp với đà văn minh khoa học hiện đại của thế giới.([13])
Nhận thức về tôn giáo đang chuyển biến. Những phát biểu về một tôn giáo hiện đại và toàn cầu cho thấy loài người khao khát một nền đạo đại đồng vượt mọi biên cương, chủng tộc.
Trong thế kỷ 20, ở nhiều nước có nhiều hoạt động phục vụ lý tưởng ấy. Mỗi hoạt động như thế có thể xem là một mắt xích trong toàn chuỗi xích của phong trào tìm kiếm cho nhân loại một Đại Đạo. Các sự kiện rộng khắp thế giới (từ 1893 đến 2015) như liệt kê ở trên là những bằng chứng hiển nhiên.
Riêng tại Việt Nam trong những năm 1920-1926, Đức Thượng Đế tá danh Cao Đài đã lần lượt quy tụ những con người sứ mạng để xây đắp nền móng đầu tiên của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ (công cuộc phổ độ lần thứ ba của Đại Đạo), tức đạo Cao Đài nói tắt.
Thuật ngữ Đại Đạo hàm ngụ ý nghĩa vượt lên khỏi mọi hình thức tôn giáo cố hữu mà nhân loại đã quen thuộc. Nói cách khác, Đại Đạo là siêu tôn giáo (above and beyond religion).
Thuật ngữ Phổ Độ (Universalism) ngụ ý rằng đối tượng cứu rỗi là toàn thể chúng sanh.
Mặc dù Đại Đạo là siêu tôn giáo, nhưng khởi đầu xây dựng cơ sở hạ tầng không thể không mượn hình thức tôn giáo (religion). Cũng vậy, cho dù Phổ Độ vốn vượt biên cương và chủng tộc, nhưng khởi sự xây đắp nền móng đầu tiên không thể không mượn một đất nước, một dân tộc để làm cái nôi cho mọi phát triển trong tương lai.
Khởi đầu cho buổi ban sơ của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, Đức Thượng Đế chọn Việt Nam mở đạo Cao Đài chứ không ở nơi nào khác. Vì vậy, nói theo ngôn ngữ của Archimedes,([14]) có thể xem Việt Nam là điểm tựa của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ.
Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ đã khởi đầu với hình thức tôn giáo Cao Đài tại Việt Nam, vốn là đất nước nằm tại ngã tư giao thoa tư tưởng của Đông Tây kim cổ, và cũng đã có quá trình thấm nhuần tinh thần Tam Giáo đồng nguyên trong khoảng mười chín thế kỷ trước khi đạo Cao Đài ra đời.
Việt Nam còn là nơi các đặc trưng của văn hóa Ấn, Hoa và phương Tây đều hiện diện. Archie John Bahm đánh giá: “Ba nền văn minh lớn nhất của nhân loại là Ấn Độ, Trung Hoa, và châu Âu hay phương Tây.” ([15])
Do đó, Việt Nam có nhiều tiền đề thuận lợi để tiếp thu chân lý đại đồng từ Đức Thượng Đế tá danh Cao Đài. Có thể nói rằng tôn giáo Cao Đài và cái nôi Việt Nam chính là phương tiện để qua đó đạt tới mục đích sau cùng của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ.
Nói cách khác, trong bước đầu của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ tại Việt Nam, nếu đã có màu sắc tôn giáo thì đó cũng là điều tự nhiên và hợp lý khi xét tới mối quan hệ giữa phương tiện và cứu cánh.
Có nhiều lý do giải thích vì sao Đức Thượng Đế chọn Việt Nam mở đạo Cao Đài. Quyển sách song ngữ của tôi nhan đề Tam Giáo Việt Nam – Tiền Đề Tư Tưởng Mở Đạo Cao Đài ([16]) có thể xem là một nỗ lực ban đầu để lý giải vấn đề về phương diện ý thức hệ (ideology).
Ngoài ra, nếu quan tâm tới khía cạnh địa lý và văn hóa của vấn đề, quyển sách song ngữ thứ hai của tôi nhan đề Đất Nam Kỳ – Tiền Đề Văn Hóa Mở Đạo Cao Đài ([17]) có thể cung cấp một số thông tin cần thiết để xem xét khách quan.
Cái nôi của đạo Cao Đài chính xác là Nam Kỳ. Tại sao không là Bắc Kỳ hay Trung Kỳ? Để gợi ý một câu trả lời thỏa đáng cả về phương diện lịch sử lẫn pháp lý, một quyển tam ngữ nho nhỏ của tôi nhan đề Đất Nam KỳTiền Đề Pháp Lý Mở Đạo Cao Đài ([18]) có lẽ phù hợp cho việc tham khảo.
Đạo Cao Đài ra đời ở Nam Kỳ dưới ách thống trị của thực dân Pháp. Để hiểu một tôn giáo thuở ấy như đạo Cao Đài và tâm lý các tín đồ đầu tiên của nền đạo, một lược khảo về bối cảnh lịch sử và chính trị xã hội của Nam Kỳ quả là cần thiết. Quyển sách nhỏ tam ngữ nói trên vì vậy dành ra hơn hai mươi trang cho một khảo sát như thế, và khảo sát đó không được nhắc lại trong quyển sách này.
Lịch sử đạo Cao Đài trải qua thời tiềm ẩn dài sáu năm (1920-1926) để chuẩn bị nhân sự khai Đạo và mọi điều kiện cần yếu khác cho cơ cấu một tôn giáo có quy củ. Thời tiềm ẩn khởi đầu vào năm 1920, là khi tiền khai Ngô Văn Chiêu (1878-1932) lần đầu tiên được nghe hồng danh Cao Đài trong một đàn cơ ở tỉnh Tân An (nay là Long An). Tuy nhiên, chương sách tiếp theo đây không thuật lại đầy đủ hành trạng hay hành trình tâm linh tìm đến đạo Cao Đài của Ngô tiền khai. Có thể tìm thấy các chi tiết về nhân vật lịch sử này trong một quyển song ngữ khác của tôi nhan đề Ngô Văn ChiêuNgười Môn Đệ Cao Đài Đầu Tiên.([19])
HUỆ KHẢI




([1]) Tam Giáo quy Nguyên 三教歸源: Ba đạo Nho, Lão, Phật trở về Nguồn của mình. Ngũ Chi phục Nhứt 五枝復一: Năm nhánh Nhơn Đạo, Thần Đạo, Thánh Đạo, Tiên Đạo, Phật Đạo trở lại Một. Nguyên và Nhứt có nghĩa là Đạo , cội nguồn sâu xa của mọi tôn giáo.
([2]) Triết gia Đức Karl Jaspers (1883-1969) tạo ra thuật ngữ Achsenzeit (linh mục Lê Tôn Nghiêm dịch là Thời Trục) phần nào khá tương đồng với quan niệm Nhị Kỳ Phổ Độ của đạo Cao Đài.
([3]) Xem Phụ bản 1, Phụ bản 2.
([4]) Xem Phụ bản 3.
([5]) Giáo Hoàng Gioan XXIII được phong Thánh ngày 27-4-2014 và Giáo Hoàng Phaolô VI được phong Chân Phước ngày 19-10-2014.
([6]) Xem Phụ bản 1.
([7]) [Archie J. Bahm 1964: 358-359].
Cước chú này cho biết đoạn trích dẫn trên đây mượn trong một quyển sách của Archie J. Bahm xuất bản năm 1964, trang 358-359. Về chi tiết của nguồn tài liệu, xem Thư Tịch cuối sách này (trang 193).
([8]) [Archie J. Bahm 1964: 359]
([9]) [Archie J. Bahm 1964: 354]
([10]) [Archie J. Bahm 1964: 353]
([11]) [Archie J. Bahm 1964: 33]
([12]) [Archie J. Bahm 1964: 14]
([13]) [Archie J. Bahm 1964: 14]
([14]) Archimedes (người Hy Lạp, khoảng 287-212 trước Công Nguyên) nói: “Hãy cho tôi cây đòn đủ dài và một điểm tựa để đặt cây đòn ấy, tôi sẽ bẩy trái đất này đi.”
([15]) [Archie J. Bahm 1964: 32]
([16]) [Huệ Khải 2010]
([17]) [Huệ Khải 2008b]
([18]) [Huệ Khải 2008a]
([19]) [Huệ Khải 2008c]