MỞ ĐẦU
Vào những năm 20 của thế kỷ 20,
một nền đạo mới đã xuất hiện ở Việt Nam với danh xưng Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ,
gọi tắt là đạo Cao Đài, và nêu tôn chỉ Tam
Giáo quy Nguyên, Ngũ Chi phục Nhứt.([1])
Tam Giáo bao gồm Nho Giáo (Khổng Giáo), Đạo Giáo (Lão Giáo, Tiên Giáo)
và Phật Giáo (Thích Giáo).
Ngũ Chi là năm con đường tu hành của nhân loại, gồm Nhơn Đạo, Thần Đạo,
Thánh Đạo, Tiên Đạo, và Phật Đạo.
Ngoài phần bản sắc của Cao Đài, tôn giáo mới này chủ trương tổng hợp
tinh hoa các nền đạo lý theo phương châm Kết
tinh kim cổ, dung hòa Đông Tây. Đó là lý do các học giả phương Tây thường
có xu hướng coi Cao Đài như một tôn giáo tổng hợp (syncretistic).
Thuật ngữ Tam Kỳ ngụ ý chia
lịch sử triết giáo của nhân loại ra ba thời kỳ lớn (tam nguơn, tam nguyên):
- Nhứt Kỳ Phổ Độ kéo dài từ
thời thượng cổ (tiền sử hay khuyết sử) cho tới khoảng giữa thế kỷ 7 trước Công
Nguyên (TCN), tức khoảng năm 650 TCN.
- Nhị Kỳ Phổ Độ diễn ra từ
khoảng giữa thế kỷ 7 TCN cho tới khoảng giữa thế kỷ 19 (khoảng năm 650 TCN tới
khoảng năm 1850).([2])
- Tam Kỳ Phổ Độ khởi đầu vào
khoảng giữa thế kỷ 19.
NHỨT KỲ PHỔ ĐỘ có một số đặc trưng triết giáo như
sau:
Tại Trung Quốc, từ tám quẻ đơn
(bát quái) phát triển thành sáu mươi bốn quẻ kép (trùng quái), mỗi quẻ sáu hào,
tổng cộng ba trăm tám mươi bốn hào, mỗi hào có thể là một vạch liền hay vạch đứt . Chu Văn Vương (1152-1056 TCN, trị vì
1099-1050 TCN) viết Thoán Từ giải
thích sáu mươi bốn quẻ. Chu Công (con Chu Văn Vương) viết Hào Từ giải thích ba trăm tám mươi bốn hào. Như thế, Kinh Dịch đã hình thành được nền tảng
ban đầu.
Tại Ấn Độ, đạo Bà La Môn xuất
hiện. Tư tưởng Ấn Độ trong Kỳ Nhứt gồm hai thời đại quan trọng:
- Thời đại các kinh Veda
(khoảng 1500-600 TCN).
- Thời đại Anh Hùng Ca hay Sử
Thi (1000-600 TCN). Các bộ kinh Upanishad được kết tập (khoảng 800-600
TCN).
Đạo Cao Đài xem Bà La Môn Giáo
thuộc về Phật Đạo thời Nhứt Kỳ Phổ Độ. Các vị Phật của thời kỳ nảy là Nhiên
Đăng Cổ Phật, Brahma Phật, Shiva Phật, và Krishna Phật…
Song hành với đạo Bà La Môn ở
Ấn Độ thời cổ còn có một hệ tư tưởng khác truyền được hai mươi ba đời tổ sư.
Đến đời tổ thứ hai mươi bốn và cũng là đời tổ sau cùng (nhằm Nhị Kỳ Phổ Độ), hệ
tư tưởng này được canh tân và trở thành Kỳ Na Giáo (Jainism).
Tại Palestine, hình thành Do
Thái Giáo. Căn cứ từ lúc Thánh Moses được Đức Thượng Đế truyền thụ Mười Điều Răn trên núi Sinai thì tín
ngưỡng cổ xưa của người Do Thái bắt đầu vào khoảng năm 1300 TCN.
NHỊ KỲ PHỔ ĐỘ có một số đặc trưng triết giáo như sau:
Tại Trung Quốc, vào thế kỷ 6
TCN hình thành Khổng Giáo và Lão Giáo.
Tại Ấn Độ, đạo Bà La Môn vẫn
tiếp tục. Thế kỷ 6 TCN có thêm Thích Ca Giáo, đồng thời Vardhamana (599-527 TCN, hiệu là Mahavira) canh tân một tôn giáo cổ truyền
của Ấn Độ thành Kỳ Na Giáo (Jainism). Thế kỷ 15, Nanak (1469-1539) thành lập Xích Giáo (Sikhism).
Tại Palestine, Do Thái Giáo vẫn tiếp tục. Chúa Jesus
Christ ra đời, và rồi Kitô Giáo hình thành.
Tại Ả Rập, thế kỷ 7, nhà tiên
tri Muhammad sáng lập Islam Giáo.
Tại Ba Tư (Iran ngày nay),
Zoroaster (hay Zarathustra) sáng lập Bái Hỏa Giáo, còn gọi Ba Tư Giáo, khoảng trước
thế kỷ 6 TCN.
Triết học Hy Lạp ra đời vào thế
kỷ 6 TCN và tiếp tục phát triển. Đạo Cao Đài xem Pythagore Giáo thuộc về Phật
Đạo thời Nhị Kỳ Phổ Độ.
TAM KỲ PHỔ ĐỘ có một số đặc trưng triết giáo như
sau:
Trong hai kỳ trước, các nền tư
tưởng triết giáo tiêu biểu nói trên còn bị giới hạn trong điều kiện không gian
địa lý ngăn cách. Sang Kỳ Ba, thế giới ngày một gần lại, con người đã chinh
phục được khoảng cách thiên nhiên. Phương tiện giao thông, truyền thông đa
phương tiện và công nghệ thông tin ngày càng phát triển đã góp phần đưa các nền
tư tưởng gần lại, và giúp con người khám phá ra sự tương đồng trong đa dạng. Kỳ
Ba vì vậy có một đặc sắc riêng là xu thế dung hòa và tổng hợp tư tưởng Đông Tây
kim cổ.
Ngoài sự thành lập đạo Cao Đài
ở Việt Nam
năm 1926, sau đây là liệt kê một số các sự kiện phản ánh xu thế nói trên của
Tam Kỳ Phổ Độ:
Năm 1863, tại Iran (xưa là Ba
Tư), Bahá’u’lláh
(1817-1892) sáng lập đạo Baha’i, xác
định rằng các tôn giáo trên thế giới đều có chỗ đại đồng vì cùng sinh ra từ một
Đấng Thượng Đế duy nhất.
Năm 1875 bà Blavatsky (người Ukraine , 1831-1891) và nhiều người khác cùng lập
Hội Thông Thiên Học (the Theosophical
Society) ở thành phố New York
(Hoa Kỳ). Năm 1879 trụ sở của Hội dời về thành phố Adyar (Ấn Độ). Nêu tiêu ngữ Không tôn giáo nào cao hơn chân lý,
Thông Thiên Học đề cao chân lý đại đồng, và hướng con người thoát ra khỏi vỏ ốc
tôn giáo để tới được Đại Đạo.
Các triết gia, học giả đã khởi
xướng một phong trào đối chiếu và tổng hợp tư tưởng triết giáo nhằm nỗ lực đưa
con người gần lại nhau trong tinh thần đại đồng. Cuối thế kỷ 19 có hai sự kiện
đáng kể:
- Năm 1893, Đại Hội Tôn Giáo
Thế Giới (the World’s Parliament of
Religions) được tổ chức lần đầu tại thành phố Chicago
(bang Illinois ,
Hoa Kỳ). Ở tuổi ba mươi, Đại Sư Vivekananda (người Ấn, 1863-1902) lần đầu
tiên qua Mỹ với tư cách đại biểu đạo Hindu (Ấn Giáo) dự Đại Hội này.
- Năm 1900, Hội Nghị Quốc Tế
Lần Thứ Nhất Về Lịch Sử Tôn Giáo (the
First International Congress for the History of Religions) được tổ chức tại Paris (Pháp) dưới quyền
chủ tọa của Giáo Sư Albert Réville (nhà thần học Tin Lành người Pháp,
1826-1906).([3])
Hai sự kiện này đã mở đường cho
những hoạt động trong các thập niên kế tiếp nhằm cổ vũ cho một lý tưởng hòa
đồng tôn giáo. Chẳng hạn:
- Năm 1904, Hội Nghị Quốc Tế
Lần Thứ Hai Về Lịch Sử Tôn Giáo (the
Second International Congress for the History of Religions) được tổ chức tại Basel (Thụy Sĩ) dưới
quyền chủ tọa của Giáo Sư Conrad C. von Orelli.
- Năm 1908, Hội Nghị Quốc Tế
Lần Thứ Ba Về Lịch Sử Tôn Giáo (the Third
International Congress for the History of Religions) được tổ chức tại Viện Đại Học Oxford (Anh).
- Năm 1939, Radhakrishnan
(người Ấn, 1888-1975) bắt đầu dạy Tôn Giáo
Đối Chiếu tại Viện Đại Học Oxford.
- Năm 1955, Hội Nghị Các Nhà
Tôn Giáo Thế Giới (The Conference
of World Religionists) tổ chức tại Tokyo (Đông Kinh, thủ đô Nhật
Bản) từ ngày 01 đến 05 tháng 8. Hội Thánh Cao Đài Tây Ninh và Cơ Quan Truyền
Giáo Cao Đài ở Đà Nẵng (sau này là Hội Thánh Truyền Giáo Cao Đài) đều cử chức
sắc cấp cao tham dự.([4])
- Năm 1959, Viện Văn Hóa Pháp
và Viện Đại Học Paris
hợp tác mở Khoa Tôn Giáo Đối Chiếu.
- Năm 1960, Hội Nghị Quốc Tế
Lần Thứ Mười Về Lịch Sử Tôn Giáo (the
Tenth International Congress for the History of Religions) được tổ chức tại Viện Đại Học Marburg
(Đức).
- Năm 1961, Viện Đại Học
Chicago và Viện Đại Học Yale (Hoa Kỳ) xuất bản các tập san định kỳ làm diễn đàn
nghiên cứu, đối chiếu, và tổng hợp triết giáo.
- Năm 1963, Viện Đại Học
Sorbonne (Pháp) mở khoa Triết Lý Đối Chiếu.
- Quan trọng hơn cả, Công Đồng
Vatican II (do Giáo Hoàng Gioan XXIII khai mạc ngày 11-10-1962 và Giáo Hoàng
Phaolô VI bế mạc ngày 08-12-1965) đã mời gọi đối thoại liên tôn giữa Công Giáo
và các tôn giáo khác trên thế giới.([5])
Vào Chủ Nhật 17-5-1964, ngày lễ
Hiện Xuống, Giáo Hoàng Phaolô VI đã thiết lập một cơ quan đặc biệt của giáo
triều Rôma, nhằm phụ trách về các mối quan hệ với tín đồ thuộc các tôn giáo
khác. Thoạt đầu cơ quan này có tên là Văn Phòng Về Những Người Không Phải Kitô
Hữu (the Secretariat for Non-Christians);
từ năm 1988 đến nay, mang tên Hội Đồng Tòa Thánh Về Đối Thoại Liên Tôn (PCID: the Pontifical Council for Interreligious Dialogue).
Tại Vatican
ngày 28-10-1965, Giáo Hoàng Phaolô VI công bố Nostra Aetate (Trong thời đại chúng ta), còn được gọi là Tuyên Ngôn
về những quan hệ của Giáo Hội với các Tôn Giáo không phải Kitô Giáo (The Second Vatican Council’s Declaration on
the Relations of the Church with Non-Christian Religions).
- Từ cuối thế kỷ 20 sang đầu
thế kỷ 21, còn có thể kể thêm nhiều sự kiện đối thoại liên tôn tương tự, dù ở
tầm kích quốc tế hoặc ở quy mô đa quốc gia. Để kết thúc bản liệt kê này, cũng
nên nhắc tới hai sự kiện nữa:
* Hội Nghị lần thứ ba mươi tư
các Tôn Giáo Thế Giới (the 34th World
Religions Conference) tổ chức ngày 28-9-2014 tại thành phố Guelph ,
tây nam tỉnh Ontario , nước Canada . Các học
giả và lãnh đạo thuộc nhiều truyền thống triết lý và tín ngưỡng tôn giáo khác
nhau hội ngộ trong tinh thần bao dung, hòa bình, hợp tác và hiểu biết để cùng
khám phá Con Đường Đưa Tới Hòa Bình (the
Pathway to Peace), chủ đề của Hội Nghị này.
* Trên đây đã nhắc tới Đại Hội
Tôn Giáo Thế Giới (the World’s
Parliament of Religions) tổ chức lần đầu tại thành phố Chicago (bang Illinois ,
Hoa Kỳ) vào năm 1893. Sau đó, Đại Hội này được tái tục nhiều lần: 1993 tại
Chicago lần nữa; 1999 tại Cape Town (Nam Phi); 2004 tại Barcelona (Tây Ban
Nha); 2009 tại Melbourne (Úc); 2015 tại thành phố Salt Lake (bang Utah, Hoa Kỳ)…
Rất nhiều sách vở cũng đã ấn
hành vì một mục đích tương tự. Một trong các tác giả đáng chú ý là Giáo Sư
Archie John Bahm (1907-1996),([6]) dạy triết
và tôn giáo đối chiếu tại Viện Đại Học New
Mexico , tác giả quyển Các Tôn Giáo Hiện Tồn Trên Thế Giới (The World’s Living Religions. New York : Dell Pub., 1964).
Ý kiến của Giáo Sư Bahm cho
thấy sự chuyển biến quan trọng nhất của tư tưởng nhân loại là con người trong
Kỳ Ba nhận thức được rằng:
- Ngày nay thế giới càng lúc
càng nối gần lại các biên cương; trao đổi văn hóa ngày càng phổ biến, thuận
tiện và tự nhiên. Con người của Kỳ Ba không còn như ngày xưa vốn chỉ sống cô
lập với một nền văn minh bản địa. P.T. Raju, nguyên Trưởng khoa Triết Viện Đại
Học Rajasthan, phát biểu rằng “ngày nay
chúng ta sống trong một thế giới, chứ không phải chỉ trong một quốc gia hay một
nền văn minh, và chúng ta cần hiểu chính ta như là các công dân của thế giới”.([7]) Raju còn xác định là “mặc dù có dị biệt, các tôn giáo đều có cái chung, đó là con người”.([8])
- Bahm nhận thấy “mỗi tôn giáo đều tự
nhiên tìm cách trở nên phổ quát và (...) các tôn giáo trên thế giới sẽ có xu
thế hướng về một nền tôn giáo thế giới”. ([9])
- Bahm viết: “Tuy nhiên nhân loại
đang thiếu một nền tôn giáo thế giới theo ý nghĩa rằng thực chất nền tôn giáo
đó là nền đạo duy nhất và theo ý nghĩa rằng tôn giáo đó vượt lên hẳn các tôn
giáo khác chỉ vì bản thân tôn giáo đó chứa đựng tinh hoa của tất cả các tôn
giáo khác.” ([10])
“Chúng ta chưa sẵn sàng để phát triển một
‘tôn giáo thế giới’ phối hợp tinh hoa của tất cả những tôn giáo của nhân loại. Nhưng chắc chắn đã đến lúc
chúng ta phải hiểu biết nhiều hơn về vấn đề này như là một vấn đề.” ([11])
- Ngoài vấn đề tôn giáo thế giới cho toàn nhân loại, còn có vấn đề hiện đại
hóa tôn giáo. Bahm viết: “Các hình tướng,
giáo lý và thiết chế đặc biệt mà qua đó các nhu cầu, và kinh nghiệm tu hành của
một số người đã được phô diễn thì chúng có thể hóa ra lỗi thời, mà sự tiếp tục
duy trì chúng thường trở nên có hại cho tín ngưỡng tôn giáo lành mạnh.” ([12])
Theo Bahm, sống trong xã hội toàn cầu (cosmopolitan
society) con người cần có tôn giáo khác hơn thời trước, phù hợp với đà văn
minh khoa học hiện đại của thế giới.([13])
Nhận thức về tôn giáo đang
chuyển biến. Những phát biểu về một tôn giáo hiện đại và toàn cầu cho thấy loài
người khao khát một nền đạo đại đồng vượt
mọi biên cương, chủng tộc.
Trong thế kỷ 20, ở nhiều nước có nhiều hoạt động phục vụ
lý tưởng ấy. Mỗi hoạt động như thế có thể xem là một mắt xích trong toàn chuỗi
xích của phong trào tìm kiếm cho nhân loại một Đại Đạo. Các sự kiện rộng khắp
thế giới (từ 1893 đến 2015) như liệt kê ở trên là những bằng chứng hiển nhiên.
Riêng tại Việt Nam trong những
năm 1920-1926, Đức Thượng Đế tá danh Cao Đài đã lần lượt quy tụ những con người
sứ mạng để xây đắp nền móng đầu tiên của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ (công cuộc phổ độ
lần thứ ba của Đại Đạo), tức đạo Cao Đài nói tắt.
Thuật ngữ Đại Đạo hàm ngụ ý nghĩa vượt lên khỏi mọi hình thức tôn giáo cố hữu
mà nhân loại đã quen thuộc. Nói cách khác, Đại Đạo là siêu tôn giáo (above and beyond religion).
Thuật ngữ Phổ Độ (Universalism) ngụ
ý rằng đối tượng cứu rỗi là toàn thể chúng sanh.
Mặc dù Đại Đạo là siêu tôn
giáo, nhưng khởi đầu xây dựng cơ sở hạ tầng không thể không mượn hình thức tôn
giáo (religion). Cũng vậy, cho dù Phổ
Độ vốn vượt biên cương và chủng tộc, nhưng khởi sự xây đắp nền móng đầu tiên
không thể không mượn một đất nước, một dân tộc để làm cái nôi cho mọi phát
triển trong tương lai.
Khởi đầu cho buổi ban sơ của
Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, Đức Thượng Đế chọn Việt Nam mở đạo Cao Đài chứ không ở nơi
nào khác. Vì vậy, nói theo ngôn ngữ của Archimedes,([14]) có thể xem Việt Nam
là điểm tựa của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ.
Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ đã khởi
đầu với hình thức tôn giáo Cao Đài tại Việt Nam, vốn là đất nước nằm tại ngã tư
giao thoa tư tưởng của Đông Tây kim cổ, và cũng đã có quá trình thấm nhuần tinh
thần Tam Giáo đồng nguyên trong khoảng mười chín thế kỷ trước khi đạo Cao Đài ra
đời.
Việt Nam còn là nơi các đặc trưng của
văn hóa Ấn, Hoa và phương Tây đều hiện diện. Archie John Bahm đánh giá: “Ba nền văn minh lớn nhất của nhân loại là
Ấn Độ, Trung Hoa, và châu Âu hay phương Tây.” ([15])
Do đó, Việt Nam có nhiều tiền đề
thuận lợi để tiếp thu chân lý đại đồng từ Đức Thượng Đế tá danh Cao Đài. Có thể nói rằng tôn giáo Cao Đài và cái nôi Việt Nam chính là
phương tiện để qua đó đạt tới mục đích sau cùng của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ.
Nói cách khác, trong bước đầu
của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ tại Việt Nam, nếu đã có màu sắc tôn giáo thì đó cũng
là điều tự nhiên và hợp lý khi xét tới mối quan hệ giữa phương tiện và cứu
cánh.
Có nhiều lý do giải thích vì
sao Đức Thượng Đế chọn Việt Nam
mở đạo Cao Đài. Quyển sách song ngữ của tôi nhan đề Tam Giáo Việt Nam
– Tiền Đề Tư Tưởng Mở Đạo Cao Đài ([16]) có thể xem là một nỗ lực ban đầu để lý giải vấn đề về phương diện
ý thức hệ (ideology).
Ngoài ra, nếu quan tâm tới khía
cạnh địa lý và văn hóa của vấn đề, quyển sách song ngữ thứ hai của tôi nhan đề Đất Nam Kỳ – Tiền Đề Văn Hóa Mở Đạo Cao Đài ([17]) có thể cung cấp một số thông tin cần thiết để xem xét khách quan.
Cái nôi của đạo Cao Đài chính
xác là Nam Kỳ. Tại sao không là Bắc Kỳ hay Trung Kỳ? Để gợi ý một câu trả lời
thỏa đáng cả về phương diện lịch sử lẫn pháp lý, một quyển tam ngữ nho nhỏ của
tôi nhan đề Đất Nam
Kỳ – Tiền Đề Pháp Lý
Mở Đạo Cao Đài ([18])
có lẽ phù hợp cho việc tham khảo.
Đạo Cao Đài ra đời ở Nam Kỳ
dưới ách thống trị của thực dân Pháp. Để hiểu một tôn giáo thuở ấy như đạo Cao
Đài và tâm lý các tín đồ đầu tiên của nền đạo, một lược khảo về bối cảnh lịch
sử và chính trị xã hội của Nam Kỳ quả là cần thiết. Quyển sách nhỏ tam ngữ nói
trên vì vậy dành ra hơn hai mươi trang cho một khảo sát như thế, và khảo sát đó
không được nhắc lại trong quyển sách này.
Lịch sử đạo Cao Đài trải qua
thời tiềm ẩn dài sáu năm (1920-1926) để chuẩn bị nhân sự khai Đạo và mọi điều
kiện cần yếu khác cho cơ cấu một tôn giáo có quy củ. Thời tiềm ẩn khởi đầu vào
năm 1920, là khi tiền khai Ngô Văn Chiêu (1878-1932) lần đầu tiên được nghe
hồng danh Cao Đài trong một đàn cơ ở tỉnh Tân An (nay là Long An). Tuy nhiên, chương sách tiếp
theo đây không thuật lại đầy đủ hành trạng hay hành trình tâm linh tìm đến đạo
Cao Đài của Ngô tiền khai. Có thể tìm thấy các chi tiết về nhân vật lịch sử này
trong một quyển song ngữ khác của tôi nhan đề Ngô Văn Chiêu – Người Môn Đệ Cao
Đài Đầu Tiên.([19])
HUỆ
KHẢI
Cước chú này cho biết đoạn trích dẫn trên đây mượn trong một quyển sách của
Archie J. Bahm xuất bản năm 1964, trang 358-359. Về chi tiết của nguồn tài
liệu, xem Thư Tịch cuối sách này
(trang 193).