Chương IV
KHAI TỊCH ĐẠO
I. CUỘC HỌP KHAI TỊCH ĐẠO
Đêm Thứ Tư 29-9-1926 (23-8 Bính Dần),
lúc 8 giờ, tại nhà tiền khai Nguyễn Văn Tường số 237 bis, trong một con hẻm
trên đại lộ Galliéni, quận 1 (nay là số 208 đường Cô Bắc),([1]) có cuộc họp đông đảo để chuẩn bị lập tư
cách pháp nhân của đạo Cao Đài.
Theo một thánh giáo Cao Đài tiếp nhận
vào giờ Tý ngày Thứ Tư 23-9-1970, sự kiện lịch sử này lần đầu tiên được mệnh
danh là Khai Tịch Đạo.([2]) Ngoài ra, cũng theo thánh
giáo ấy, đại lễ tấn tôn các chức sắc đầu tiên của Hội Thánh Cao Đài sơ khai tại
làng Long Thành (tỉnh Tây Ninh) vào đêm Thứ Năm 18 rạng sáng Thứ Sáu 19-11-1926
(14 rạng sáng 15-10 Bính Dần) lần đầu tiên được mệnh danh là Khai Minh Đại Đạo.([3])
Ngay trước cuộc họp, một cơn mưa như
trút kéo dài nhiều giờ làm ngập nhiều nơi chung quanh. Cuộc họp nhờ thế được cô
lập khỏi sự tò mò của người ngoài cuộc, nhất là cảnh sát thuộc địa. Thời ấy, họp từ hai mươi người trở lên phải được nhà cầm
quyền thực dân cho phép.
Dưới sự
đồng chủ tọa của ba vị tiền khai Lê Văn Trung (Đầu Sư Thượng Trung Nhựt), Lê
Văn Lịch (Đầu Sư Ngọc Lịch Nguyệt), và Cao Quỳnh Cư (Thượng Phẩm), cuộc họp lịch
sử này quy tụ hơn hai trăm chức sắc và tín đồ đầu tiên của đạo Cao Đài.
Kết quả là có được mười một trang danh
sách gồm họ tên hai trăm bốn mươi lăm vị, kèm chữ ký, để đính theo hồ sơ lập tư
cách pháp nhân; trong đó văn bản tiếng Pháp gồm hơn năm trăm từ, ghi ngày
07-10-1926, có hai mươi tám môn đệ đứng tên (do Đức Cao Đài chọn). Tất cả hồ sơ
được tiền khai Lê Văn Trung đích thân mang đến Phủ Thống Đốc Nam Kỳ gởi cho
Quyền Thống Đốc Nam Kỳ Le Fol vào Thứ Năm 07-10-1926,([4]) đúng theo lời Đức Cao Đài dạy: “Thầy dặn con, Trung! Nội Thứ Năm tuần tới
phải đến Le Fol mà khai cho kịp nghe!” ([5])
II. TỜ KHAI TỊCH ĐẠO
Tờ Khai Tịch Đạo viết bằng tiếng Pháp
như sau:
Saigon,
le 7 Octobre 1926
Monsieur
le Gouverneur,
Les
soussignés,
Ont
l’honneur de venir respectueusement vous faire connaître ce qui suit:
Il
existait en Indochine trois Religions (Bouddhisme, Taoïsme, Confucianisme). Nos
ancêtres pratiquaient religieusement ces trois doctrines et vivaient heureux en
suivant strictement les beaux préceptes dictés par les Créateurs de ces
religions.
On
était, pendant cet ancien temps, tellement insoucieux qu’on pouvait dormir sans
fermer les portes et qu’on dédaignait même de ramasser les objets tombés dans
la rue (Gia vô bế hộ, lộ bất thập di [家無閉户, 路不拾遺], tel est
l’adage inscrit dans nos annales).
Hélas!
Ce beau temps n’existe plus pour les raisons suivantes:
1. Les
pratiquants de ces religions ont cherché à se diviser tandis que le but de
toutes les religions est le même: faire le bien et éviter le mal, adorer
pieusement le Créateur.
2. Ils
ont dénaturé complètement la signification de ces saintes et précieuses
doctrines.
3. La
course au confort, à l’honneur, l’ambition des gens, sont aussi des causes
principales des divergences d’opinions actuelles. Les Annamites de nos jours
ont complètement abandonné les bonnes mœurs et traditions de l’ancien temps.
Écœurés
de cet état de choses, un groupe d’Annamites, fervents traditionalistes et
religieux, ont étudié la refonte de toutes ces religions, pour n’en former
qu’une seule et unique appelée CAODAÏSME ou ĐẠI ĐẠO.
Le nom
“ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ”, qui signifie la troisième Amnistie générale, est donné
par l’Esprit Suprême qui est venu aider les soussignés à fonder cette nouvelle
religion.
L’Esprit
Suprême est venu sous le nom de NGỌC HOÀNG THƯỢNG ĐẾ dit CAO ĐÀI ou “LE TRÈS
HAUT, DIEU TOUT PUISSANT”.
Par
l’intermédiaire de médiums écrivants, NGỌC HOÀNG THƯỢNG ĐẾ transmet aux
soussignés des enseignements divins ayant pour but de concentrer et d’enseigner
les beaux préceptes de ces trois anciennes Religions.
La
Nouvelle Doctrine enseignera aux peuples:
1. la
haute morale de Confucius;
2. les
vertus dictées dans les religions bouddhique et taoïque, ces vertus consistant
à faire le bien et éviter le mal, aimer l’humanité, pratiquer la concorde,
éviter totalement la dissension et la guerre.
Les
soussignés ont l’honneur de vous soumettre:
1.
quelques extraits du recueil des “Saintes paroles’ de NGỌC HOÀNG THƯỢNG ĐẾ,
paroles estimées plus précieuses que tout ce qui existe ici-bas.
2. la
traduction de quelques passages du livre de prières que NGỌC HOÀNG THƯỢNG ĐẾ
nous a enseignées.
Le but
poursuivi par les soussignés est de ramener les peuples à l’ancien temps de
paix et de concorde. On sera ainsi dirigé vers une époque nouvelle tellement
heureuse qu’il est difficile de la décrire.
Au nom de très nombreux Annamites qui ont entièrement approuvé ces études
et dont la liste est ci-jointe, les soussignés ont l’honneur de venir
respectueusement vous déclarer qu’ils vont propager à l’humanité entière cette
Sainte Doctrine.
Persuadés
d’avance que cette nouvelle religion apportera à nous tous la paix et la
concorde, les soussignés vous prient de recevoir officiellement leur
déclaration.
Les
soussignés vous prient d’agréer, Monsieur le Gouverneur, l’assurance de leurs
sentiments respectueux et dévoués.” ([6])
Bản dịch
Tờ Khai Tịch Đạo:
Sài Gòn, ngày 07 tháng 10 năm 1926
Thưa ông
Thống Đốc,
Những
người ký tên dưới đây hân hạnh kính báo cho ông biết những điều sau:
Từ xưa
đến nay ở Đông Dương đã có Tam Giáo (Phật, Lão, Khổng). Tổ tiên chúng tôi đã tu
hành theo giáo lý Tam Giáo và sống hạnh phúc nhờ tuân thủ nghiêm nhặt những lời
dạy tốt lành của Tam Giáo Đạo Tổ.
Thời
xưa, dân chúng sống vô ưu lự đến độ có thể ngủ không cần đóng cửa, và chẳng ai màng
nhặt của rơi ngoài đường. (Gia vô bế hộ, lộ bất thập di 家無閉户, 路不拾遺 là câu nói đã được sử sách chúng tôi ghi lại.)
Than ôi!
Thời đại tốt đẹp đó không còn nữa vì những lý do sau đây:
1. Tín
đồ các tôn giáo ấy tìm cách chia rẽ nhau trong khi mục đích vạn giáo đều đồng
nhất: Làm lành lánh dữ, chí thành thờ kính đấng Tạo Hóa.
2. Họ đã
làm sai lạc hoàn toàn ý nghĩa các giáo lý thiêng liêng và quý báu này.
3. Sự
đua chen theo bả vinh hoa, mồi phú quý, lòng tham vọng của con người, tất cả
những cái đó cũng là các nguyên nhân chính của những bất đồng tư tưởng hiện
nay. Người Việt Nam bây giờ đã từ bỏ hoàn toàn những mỹ tục và truyền thống của
thời xa xưa.
Đau lòng
trước những trạng huống này, một nhóm người Việt Nam, gồm những người có nhiệt
tâm với truyền thống và việc tu hành, đã nghiên cứu canh tân tất cả các tôn
giáo này, để hiệp nhất thành đạo Cao Đài hay Đại Đạo.
Danh xưng
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ có nghĩa là kỳ Ba đại ân xá,([7]) danh xưng này đã do Đức Chí Linh ban
cho và Ngài đã lâm trần phù trợ cho những người ký tên dưới đây thành lập nền
tôn giáo mới này.
Đức Chí
Linh đã đến với danh xưng NGỌC HOÀNG THƯỢNG ĐẾ, tức CAO ĐÀI hay là ĐẤNG TỐI
CAO, THƯỢNG ĐẾ TOÀN NĂNG.
Thông
qua ngưòi đồng tử phò cơ, Đức NGỌC HOÀNG THƯỢNG ĐẾ truyền cho những người ký
tên dưới đây các thánh giáo nhằm mục đích kết tinh và giảng dạy các giáo huấn
tốt đẹp của Tam Giáo ngày xưa.
Nền giáo
lý mới sẽ dạy cho dân chúng các điều sau đây:
1. Luân lý cao siêu của Đức Khổng Tử.
2. Những
đức tính được dạy trong Phật và Lão Giáo. Những đức tính này gồm có làm lành
lánh dữ, yêu thương nhân loại, sống hòa hiệp, tránh hoàn toàn sự chia rẽ và
chiến tranh.
Những người ký tên dưới đây hân hạnh gởi kèm theo cho ông:
1. Một
vài đoạn trích lục từ tập “Thánh ngôn” của Đức NGỌC HOÀNG THƯỢNG ĐẾ, những lời
dạy được đánh giá là quý báu hơn hết thảy mọi hiện hữu ở thế gian này.
2. Bản
dịch một vài đoạn trong quyển kinh cầu nguyện mà Đức NGỌC HOÀNG THƯỢNG ĐẾ đã
dạy chúng tôi.
Mục đích
những người ký tên dưới đây theo đuổi là đưa nhân loại trở lại cái thời xưa hòa
bình và hòa hiệp. Như vậy con người sẽ hướng về một thời đại mới hạnh phúc khôn
tả.
Nhân
danh đông đảo những người Việt Nam đã hoàn toàn tán thành những điều nghiên cứu
này và có danh sách kèm theo, những người ký tên dưới đây hân hạnh tuyên bố cho
ông biết là chúng tôi sẽ truyền bá cho toàn thể nhân loại giáo lý thiêng liêng
này.
Tin
tưởng rằng nền tôn giáo mới này sẽ mang đến cho tất cả chúng ta hòa bình và hòa
hiệp, những người ký tên dưới đây yêu cầu ông hãy chánh thức tiếp nhận tờ khai
của chúng tôi.
Thưa ông
Thống Đốc, những người ký tên dưới đây xin ông ghi nhận những tình cảm trân
trọng và chân thành của chúng tôi.([8])
III. HAI MƯƠI TÁM VỊ TIỀN KHAI ĐỨNG TÊN KHAI TỊCH ĐẠO
Sau khi có mười một trang bao gồm họ tên
hai trăm bốn mươi lăm môn đệ cùng với chữ ký,([9]) các tiền khai lập đàn. Đức Cao Đài
truyền lịnh tiền khai Cao Quỳnh Diêu xướng tên từng môn đệ theo thứ tự. Mỗi khi
Đức Cao Đài gõ ngọn cơ xuống sau tên ai, vị đó được chọn đứng tên trong Tờ Khai
Tịch Đạo.([10])
1. Bà Lâm Ngọc Thanh, nghiệp chủ, Vũng Liêm. / 2. Ông Lê Văn Trung, cựu Thượng Nghị Viện, ngũ
đẳng bửu tinh [Bắc Đẩu Bội Tinh hạng năm], Chợ Lớn. / 3. Ông Lê Văn Lịch, thầy tu, làng Long An, Chợ
Lớn. / 4. Ông Trần Đạo Quang, thầy
tu, làng Hanh Thông Tây, Gia Định. / 5. Ông Nguyễn
Ngọc Tương, tri phủ, chủ quận Cần Giuộc. / 6. Ông Nguyễn Ngọc Thơ, nghiệp chủ, Sài Gòn. / 7. Ông Lê Bá Trang, đốc phủ sứ, Chợ Lớn. / 8. Ông Vương Quan Kỳ, tri phủ, Sở Thuế Thân, Sài Gòn. / 9. Ông Nguyễn Văn Kinh, thầy tu, Bình Lý thôn,
Gia Định. / 10. Ông Ngô Tường Vân,
thông phán, Sở Tạo Tác, Sài Gòn. / 11. Ông Nguyễn
Phát Đạt,([12]) nghiệp chủ, Sài Gòn. / 12. Ông Ngô Văn Kim, điền chủ, đại hương cả, Cần
Giuộc. / 13. Ông Đoàn Văn Bản, đốc
học trường Cầu Kho, Sài Gòn. / 14. Ông Lê
Văn Giảng, thơ ký kế toán hãng Hippolito, Sài Gòn. / 15. Ông Huỳnh Văn Giỏi, thông phán, Sở Tân Đáo, Sài
Gòn. / 16. Ông Nguyễn Văn Tường,
thông ngôn, Sở Tuần Cảnh, Sài Gòn. / 17. Ông Cao Quỳnh Cư, thơ ký, Sở Hỏa Xa, Sài Gòn. / 18. Ông Phạm Công Tắc, thơ ký, Sở Thương Chánh,
Sài Gòn. / 19. Ông Cao Hoài Sang, thơ
ký, Sở Thương Chánh, Sài Gòn. / 20. Ông Nguyễn
Trung Hậu, đốc học, trường tư thục Đa Kao, Sài Gòn. / 21. Ông Trương Hữu Đức, thơ ký, Sở Hỏa Xa, Sài
Gòn. / 22. Ông Huỳnh Trung Tuất,
nghiệp chủ, Chợ Đũi, Sài Gòn. / 23. Ông Nguyễn
Văn Chức, cai tổng, Chợ Lớn. / 24. Ông Lại
Văn Hành, hương cả, Chợ Lớn. / 25. Ông Nguyễn
Văn Trò, giáo viên, Sài Gòn. / 26. Ông Nguyễn
Văn Hương, giáo viên, Đa Kao. / 27. Ông Võ
Văn Kỉnh, giáo tập, Cần Giuộc. / 28. Ông Phạm Văn Tỉ, giáo tập, Cần Giuộc.
Sau đây là đôi nét thân thế một số vị
tiền khai kể trên:
1. Tiền khai Huỳnh Trung Tuất
(1873-1947)
Tiền khai Huỳnh Trung Tuất nhập môn Cao Đài khoảng cuối tháng 3
hay đầu tháng 4-1926 (tháng 2 Bính Dần). Người phối ngẫu của tiền khai là bà Nguyễn
Thị Hòa (1872-1963), sanh được ba người con.([13])
2. Tiền khai Huỳnh Văn Giỏi (1880-1954)
Tiền khai Huỳnh Văn Giỏi người làng Giồng Luông (nay thuộc xã Đại Điền,
huyện Thạnh Phú, tỉnh Bến Tre), là con ông Huỳnh Văn Ngôn và bà Nguyễn Thị
Được. Kết hôn với cô Phạm Thị Thêu (1881-1953), tiền khai có tám người con.
Tiền khai làm thông phán tại Sở Tân Đáo, và cư ngụ trên đường Bourdais, sát bên
nhà tiền khai Cao Quỳnh Cư.([14])
3. Tiền khai Lại Văn Hành (1878-1939)
Lúc đang làm hương cả, tiền khai Lại Văn Hành nhập môn Cao Đài ngày Thứ
Ba 05-10-1926 (29-8 Bính Dần) tại đàn Tân Kim (làng Tân Kim, quận Cần Giuộc,
tỉnh Chợ Lớn). Người phối ngẫu của tiền khai là bà Trần Thị Chốt (1885-1968).([15])
4. Tiền khai Lê Bá Trang (1878-1936)
Sanh ngày Thứ Hai 18-02-1878 (17-01 Mậu Dần) tại làng Tân Quy Đông (sau
này thuộc xã Tân Vĩnh Hòa, quận Châu Thành, tỉnh Sa Đéc), tiền khai Lê Bá Trang
là con ông Lê Văn Lâu và bà Trần Thị Nga. Kết hôn với cô Trần Thị Ngoạn
(1878-1926), tiền khai có một con gái là Lê Thị Mạnh (1900-1966). Sau khi vợ
mất, tiền khai tục huyền với cô Huỳnh Thị An, người tỉnh Sa Đéc, nhưng cả hai
không con. Sau khi tốt nghiệp collège Chasseloup-Laubat (Sài Gòn), tiền khai
thi đậu và làm thơ ký tại Phủ Toàn Quyền Đông Dương (Gouvernement général de l’Indochine) đặt ở Sài Gòn. Được thăng lên
ngạch tri huyện, tiền khai thuyên chuyển về Tòa Bố tỉnh Bến Tre. Khi làm chủ
quận Thủ Đức (tỉnh Gia Định), tiền khai được thăng lên ngạch tri phủ hạng nhất.
Năm 1925, tiền khai làm chủ quận Châu Thành (tỉnh Chợ Lớn), rồi được thăng lên
ngạch đốc phủ sứ. Tháng 3-1927, tiền khai làm chủ quận Vũng Tàu, sau khi nhập
môn Cao Đài vào tháng 5-1926.([16])
5. Tiền khai Lê Văn Giảng (1883-1932)
Tiền khai Lê Văn Giảng người làng Phong Thới, quận Vũng Liêm, tỉnh Vĩnh
Long. Song thân là ông Lê Văn Thoại và bà Võ Thị Lương. Tiền khai kết hôn với
cô Huỳnh Thị Chính (1886-1973) và có bảy người con. Ngày họp khai tịch Đạo vợ
chồng tiền khai và vài người con đều có mặt. Bấy giờ tiền khai cư ngụ tại số 85
đường Lagrandière, và đang làm thơ ký kế toán cho hãng buôn Hippolito ở Sài
Gòn.([17])
6. Tiền khai Ngô Văn Kim (1868-1940)
Tiền khai Ngô Văn Kim là điền chủ, đại hương cả, người làng Trường Bình,
quận Cần Giuộc (nay thuộc tỉnh Long An); người phối ngẫu là bà Chung Thị Tạo
(1868-1925). Tiền khai được Đức Cao Đài thâu nhận làm đệ tử ngày Thứ Ba
02-02-1926 tại quận Cần Giuộc.([18])
7. Tiền khai Nguyễn Phát Đạt (1881-1942)
Tiền khai tên thật là Trần Phát Đạt, con ông Trần Đăng Khoa và bà Võ Thị
Phú. Tiền khai làm việc tại Sở Thương Chánh trước khi trông coi vườn cao su của
gia đình.([19])
8. Tiền khai Nguyễn Văn Chức (1873-1956)
Năm 1926, tiền khai Nguyễn Văn Chức nhập môn Cao Đài lúc đang làm cai
tổng Phước Điền Trung (tỉnh Chợ Lớn). Người phối ngẫu của tiền khai là bà Trần
Thị Trầm (1871-1947).([20])
9. Tiền khai Nguyễn Văn Kinh (1890-1945)
Tiền khai Nguyễn Văn Kinh là con ông Nguyễn Văn Khá và bà Thái Thị Ban.
Tiền khai tu theo Minh Sư (1902), giỏi chữ Nho, thường hốt thuốc trị bệnh tại
nhà ở làng Bình Lý, tổng Bình Thạnh
Trung, tỉnh Gia Định (nay thuộc xã Bình Mỹ, huyện Củ Chi, TpHCM).([21])
10. Tiền khai Nguyễn Văn Trò (1886-1949)
Tiền khai Nguyễn Văn Trò là con ông Nguyễn Văn Lừa (1846-1914) và bà
Nguyễn Thị Lộc (1847-1942). Kết hôn với cô Dương Thị Ngại (1885-1965), tiền
khai có được một con gái. Tiền khai nhập môn Cao Đài khi đang dạy học ở Sài
Gòn.([22])
11. Tiền khai Nguyễn Văn Tường (1887-1939)
Tiền khai Nguyễn Văn Tường sanh tại làng Lương Hòa Lạc (sau này thuộc về
quận Chợ Gạo, tỉnh Mỹ Tho). Song thân là ông Nguyễn Văn Tịnh và bà Võ Thị Quyên
(1867-1934). Tiền khai mồ côi cha trước khi chào đời một tháng. Tiền khai được
mẹ gởi lên Sài Gòn sống với người cậu làm công chức, và được cậu cho đi học.
Tiền khai làm thông ngôn (phiên dịch) tại một bót cảnh sát ở quận 1, Sài Gòn.
Kết hôn với cô Đặng Thị Kế (1888-1943), tiền khai có một trai là Nguyễn Văn Tri
(1910-1984) và một gái là Nguyễn Thị Phẩm (1912-1947). Khoảng năm 1921, mua
được miếng đất rộng 1.474m2 trong một hẻm ở đại lộ Galliéni (nay là
Trần Hưng Đạo), tiền khai cất ngôi nhà lớn, đánh số 237 bis. Tiền khai nhập môn
Cao Đài ngày Thứ Tư 23-6-1926 (14-5 Bính Dần).([23]) Hơn ba tháng sau, ngôi nhà của tiền
khai được mượn làm nơi họp chuẩn bị khai tịch Đạo.
12. Tiền khai Phạm Văn Tỉ (1887-1949)
Tiền khai Phạm Văn Tỉ làm giáo tập tại quận Cần Giuộc, được Ơn Trên hóa
độ trong một đàn cơ ngày Thứ Bảy 20-3-1926 tại làng Tân Kim, quận Cần Giuộc
(nay thuộc tỉnh Long An). Bào đệ của tiền khai là Phạm Văn Tươi về sau là một
chức sắc Hiệp Thiên Đài, phẩm Hiến Đạo, tại Tòa Thánh Tây Ninh.([24])
13. Tiền khai Võ Văn Kỉnh (1880-1946)
Tiền khai Võ Văn Kỉnh là giáo tập, Phật tử, người làng Thanh Hà (nay
thuộc xã Tân Kim, quận Cần Giuộc, tỉnh Long An), con bà Lê Thị Liên. Kết hôn
với cô Lê Thị Ngưu, tiền khai có bốn người con. Tiền khai nhập môn Cao Đài ngày
Thứ Sáu 05-3-1926.([25])
IV. CƠ SỞ PHÁP LÝ ĐỂ LẬP PHÁP NHÂN
ĐẠO CAO ĐÀI
Để hoạt động hợp pháp, trước tiên tôn giáo Cao Đài phải có tư cách
pháp nhân. Vì vậy ngày Thứ Năm 07-10-1926 tiền khai Lê Văn Trung đích thân nộp
cho Quyền Thống Đốc Nam Kỳ Le Fol các văn bản cần thiết đúng theo quy định của
luật pháp thời ấy.
Vì là thuộc địa của Pháp ,
Nam Kỳ đã sớm chịu
sự chi phối của luật lệ nước Pháp. Chỉ hơn hai năm sau khi chiếm xong ba tỉnh
miền Đông Nam Kỳ (Gia Định, Định Tường, Biên Hòa) và đảo Côn Lôn, không chờ đến
lúc chiếm thêm ba tỉnh miền Tây (Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên), thực dân Pháp bắt
đầu áp dụng luật lệ nước Pháp tại lãnh thổ đã cướp được. Thật vậy, ngày Thứ
Tư 21-12-1864, Thống Đốc Nam Kỳ, Chuẩn Đô Đốc Pierre-Paul de La Grandière ban hành luật lệ
nước Pháp ở ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ.([26])
Vào đầu thế kỷ 20, tiền khai Lê Văn
Trung và không ít vị tiền khai khác vốn là công chức ngạch cao trong Phủ Thống
Đốc Nam Kỳ, hoặc là các chủ quận. Do đó các tiền khai Cao Đài đương nhiên am
tường thủ tục hành chánh và luật lệ Pháp áp dụng tại thuộc địa Nam Kỳ.
Khi khai tịch Đạo, các tiền khai đã
theo Luật Hiệp Hội 01-7-1901 của Pháp,([27]) do Thủ Tướng Waldeck-Rousseau (1846-1904) ban hành. Toàn văn
Luật Hiệp Hội
01-7-1901 được đăng trên Công Báo nước Pháp ngày 02-7-1901. Ngày nay, một số
điều của luật này có thể tìm thấy trên mạng quốc tế (Internet).([28])
Trích dịch Luật
Hiệp Hội 01-7-1901
Điều 2.
Các hiệp hội có thể được tự do
thành lập không cần cho phép hay khai báo trước, nhưng chỉ được hưởng năng lực
pháp lý nếu phù hợp với những quy định ở Điều 5.
Điều
5. (Trích)
Mọi hiệp hội muốn có năng lực pháp lý dự kiến trong Điều 6 phải được
những người sáng lập công bố.
Việc khai báo trước được thực hiện
ở cơ quan của tỉnh hay của quận nơi hiệp hội đóng trụ sở. Hiệp hội thông
báo tên và mục đích của mình, trụ sở các cơ quan và tên, nghề nghiệp, nơi ở và
quốc tịch của những người trong ban quản trị hay ban lãnh đạo hiệp hội với chức
danh của họ. Hai bản điều lệ đính kèm tờ khai. Biên nhận
tờ khai sẽ được cấp trong vòng
năm ngày.
Điều
21 bis.
Luật này được áp dụng ở các lãnh
thổ hải ngoại (…).([29])
Căn cứ theo Điều 5 dẫn trên, tiền khai Lê Văn Trung đã nộp
một hồ sơ gồm có:
a. Một văn bản tiếng Pháp dài hơn năm trăm từ để trình bày tên gọi và mục
đích của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ.
b. Vài đoạn trích lục thánh giáo và vài đoạn tiếng Pháp dịch kinh cúng.
c. Danh sách các tín đồ.
Liền sau khi hoàn tất thủ tục như thế,
các tiền khai Cao Đài nhiệt thành truyền đạo khắp cả Nam Kỳ mà không cần bất kỳ
một giấy phép nào hết, bởi vì Điều 2 dẫn trên hàm ngụ rằng không cần nhà cầm
quyền cho phép trước.
V. PHẢN ỨNG CỦA NGƯỜI PHÁP
Mặc dù Điều 5 của Luật Hiệp Hội quy định
“Biên nhận tờ khai sẽ được cấp trong vòng năm ngày”, hơn
ba tháng sau tiền khai Lê Văn Trung vẫn không nhận được biên nhận nào. Bởi thế,
ngày Thứ Tư 13-10-1926 (07-9 Bính Dần), Đức Cao Đài dạy tiền khai Lê Văn Trung:
“Con, Trung! Con phải nói với Le Fol cho
con giấy chứng khai Đạo. Mai con lên nó, có Thầy.” ([30])
Thứ Sáu 09-4-1926 Aristide Eugène le Fol, ngạch tham biện hạng nhất (administrateur de 1er classe), được bổ
làm Quyền Thống Đốc Nam Kỳ,([31]) và ông đảm nhiệm chức vụ này trong hơn tám
tháng (từ 19-4-1926 đến 30-12-1926) trong lúc chờ một thống đốc chính thức từ
Pháp bổ sang (là Paul Marie Alexis Joseph Blanchard de la Brosse).
Gustave Meillon, tác giả một khảo luận
nhan đề Le Caodaïsme, cho biết thái
độ của Le Fol đối với việc khai tịch
Đạo ngày 07-10-1926 như sau: “Thận trọng,
ông bằng lòng tiếp nhận văn kiện, nhưng không hứa chính thức công nhận mối Đạo.”
([32])
Như vậy, trái với Luật Hiệp Hội 1901, Le
Fol lờ đi việc cấp “giấy chứng khai Đạo”
(tức biên nhận); phải chăng là do “thận trọng”? Chẳng những thế, hơn một tháng
sau, ông còn tiến xa thêm một bước. Trong một báo cáo ngày 01-01-1932, Thanh
Tra Lalaurette viết: “Tuy nhiên bằng mật
điện số 146-C ngày 14-11-1926, Thống Đốc đã cảnh báo các tham biện, chủ tỉnh về
hoạt động tôn giáo mà Lê Văn Trung cùng nhóm truyền giáo của ông ta khởi xướng,
và ra lịnh cho các tham biện, chủ tỉnh phải bí mật theo dõi việc truyền đạo này
và báo cáo cho Thống Đốc bằng công văn mật.” ([33])
Cũng
theo báo cáo ấy của Lalaurette, bốn tháng sau mật điện của Le Fol, Thống Đốc Blanchard de la Brosse còn nhắc tới nó trong thông tri số
52-C ngày 07-3-1927: “Người tiền nhiệm của
tôi, bằng Thông Tri số 146-C, đã yêu cầu các ông chú ý theo dõi sự phát triển của
đạo Cao Đài.” ([34])
Như được phản ánh trong hai trích dẫn
nêu trên từ báo cáo của Lalaurette,
phản ứng của người Pháp là bằng chứng xác thực cho thấy nếu bất kỳ ai đó
bảo rằng “Pháp ký giấy phép cho đạo Cao Đài hoạt động”, hoặc nói rằng “đạo Cao
Đài do Pháp lập ra”, thì rõ ràng họ không chân thực.
VI. Ý NGHĨA KHAI TỊCH ĐẠO
Luật Hiệp Hội 1901 được áp dụng tại
thuộc địa Nam Kỳ, và điều này giúp chúng ta hiểu vì sao tôn giáo Cao Đài có thể
lập được tư cách pháp nhân một cách dễ dàng, suôn sẻ ở Sài Gòn vào mùa thu năm
1926. Điều này cũng góp phần giải thích vì sao xuất phát điểm của đạo Cao Đài
không thể là Bắc Kỳ hay Trung Kỳ,([35]) mà phải là Nam Kỳ.
Thoạt đầu, ngày 23-8 Bính Dần (Thứ Tư
29-9-1926) được chọn để tín đồ Cao Đài hội họp chuẩn bị khai tịch Đạo. Về sau,
ngày này trở nên một ngày kỷ niệm của cộng đồng Cao Đài, và được gọi là ngày kỷ
niệm Khai Tịch Đạo để phân biệt với ngày kỷ niệm Khai Minh Đại Đạo (rằm tháng
Mười).
Khi tiền khai Nguyễn Văn Tường còn tại
thế, lễ kỷ niệm được tổ chức tại tư gia của tiền khai trong một hẻm trên đại lộ
Galliéni, nơi đã được chọn để tổ chức cuộc họp lịch sử.
Sau khi tiền khai Tường quy thiên, lễ kỷ
niệm này được tổ chức ở thánh thất Cầu Kho (nhà riêng của tiền khai Đoàn Văn
Bản), và lúc thánh thất Cầu Kho không còn thì lễ kỷ niệm này được duy trì hằng
năm ở thánh thất Nam Thành.([36])
Tuy nhiên, không nên nghĩ rằng ngày kỷ niệm Khai Tịch Đạo mang ý nghĩa quan
trọng nhiều hơn ngày kỷ niệm Khai Minh Đại Đạo, hay ngược lại. Thật ra, như đã trích
dẫn ở cuối Chương II (trang 63), ngày
mùng 1 tháng Giêng Bính Dần đáng lẽ cần được chú trọng nhiều hơn nữa, bởi
vì Đức Cao Đài từng xác định đấy chính là ngày “Thầy lập Đạo…” Và, chính Đức Thượng Đế Chí Tôn lập Đạo, nên nào có
phải “xin phép” ai đâu.
HUỆ KHẢI
([32]) “Prudent, il se contente d’en prendre acte, sans toutefois s’engager
formellement à le reconnaître.”
(http://antruong.free.fr/Lecaodaisme.html,
truy cập 04-01-2017.)
([33]) Néanmoins par télégramme confidentiel No. 146-C du 14 novembre 1926, le
Gouverneur avisait les administrateurs, chefs de Province, du mouvement
religieux que préparait Lê Văn Trung et son groupe de missionaires, et les
invitait, “à suivre discrètement cette propagande et à le tenir au courant sous
le timbre ‘Sûreté’.” [Lalaurette 1932: 15]
([35]) Trung Kỳ quả nhiên không phải là đất hứa cho
việc truyền đạo Cao Đài. Một cuốn sách nhỏ song ngữ của tôi nhan đề Cấm Đạo Cao Đài Ở Trung Kỳ 1928-1950 /
Caodaism under Persecution in Central Vietnam 1928-1950 (Hà Nội: Nxb Tôn
Giáo 2012) cung cấp một ghi chép biên niên các biện pháp bách hại đạo Cao Đài
do thực dân Pháp và triều đình Huế liên tiếp thi hành.