Chương II
ĐỨC CAO ĐÀI HÓA ĐỘ
CÁC TIỀN KHAI CAO-PHẠM
Tại Sài Gòn năm 1925 (Ất Sửu), ba vị công chức Cao Quỳnh Cư, Cao Hoài
Sang, và Phạm Công Tắc là người đồng hương (cùng tỉnh Tây Ninh), đồng thanh khí
vì cùng sính thơ văn, yêu âm nhạc dân tộc.([1]) Bên cạnh ba vị là bà Cao Quỳnh Cư
(Nguyễn Thị Hương, cũng gọi Hiếu, tức tiền khai Hương Hiếu).([2])
1. Tiền
khai Cao Quỳnh Cư (1888-1929) và Hương Hiếu (1887-1971)
Tiền khai Cao Quỳnh Cư tự Bội Ngọc, sinh năm 1888 (Mậu Tý) tại làng Hiệp
Ninh, tổng Hàm Ninh Thượng, tỉnh Tây Ninh. Song thân là ông Cao Quỳnh Tuân
(1844-1896) và bà Trịnh Thị Huệ (1853-1946). Năm 1925 (Ất Sửu), tiền khai Cư
làm thơ ký cho Sở Hỏa Xa Sài Gòn, thuê nhà ở số 134 đường Bourdais, quận 1 (nay
là đường Calmette).
Tiền khai Cư lập gia đình năm 1907 (Đinh Mùi). Bà Cư nhũ danh Nguyễn Thị
Hương, cũng gọi Hiếu, sinh tại Đa Kao (Sài Gòn). Song thân là ông Nguyễn Văn
Niệm (người tỉnh Cần Thơ) và bà Trần Thị Huệ (người tỉnh Gia Định, tạ thế năm
1929, Kỷ Tỵ).
Năm 1893 (Quý Tỵ) tiền khai Hương học trường Nhà Trắng,([3])
một trường nội trú dành cho nữ sinh do các nữ tu người Pháp dòng Saint Paul de
Chartres (SPC) trông coi. Năm 1903 (Quý Mão), tiền khai học nữ công. Nhờ căn
bản giáo dục như vậy, tiền khai có công may phẩm phục cho các chức sắc đầu tiên
của Hội Thánh, và quan trọng nhất là làm điển ký, ghi chép tỉ mỉ các buổi lập
đàn của các tiền khai Cao-Phạm.
2. Tiền khai Cao Hoài Sang (1901-1971)
Thứ Tư 11-9-1901 (29-7 Tân Sửu), tiền khai Cao Hoài Sang tự Thanh Thủy
chào đời tại làng Thái Bình, tỉnh Tây Ninh. Thân phụ là ông Cao Hoài Ân
(1878-1909), làm việc ở tòa án, tạ thế ở Sài Gòn. Thân mẫu là bà Hồ Thị Lự
(1878-1972), sau là chức sắc ở Tòa Thánh Tây Ninh. Tiền khai là con út, chị là bà
Cao Thị Cường (1898-1973), sau làm giám đốc cô nhi viện ở Tòa Thánh Tây Ninh.
Anh cả là tiền khai Cao Đức Trọng (1897-1958), có công truyền đạo Cao Đài ở Cam
Bốt năm 1927 (Đinh Mão), về sau là Tiếp Đạo Hiệp Thiên Đài Hội Thánh Cao Đài
Tây Ninh.
Học collège Chasseloup-Laubat (Sài Gòn), đậu bằng thành chung (diplôme d’études primaires supérieures),
tiền khai làm thơ ký cho Sở Thương Chánh Sài Gòn năm 1920 (Canh Thân).([4])
Tiền khai thuê nhà trên đường D’Arras, quận 1, Sài Gòn (nay là đường Cống
Quỳnh), cách nhà tiền khai Phạm Công Tắc một căn. Năm 1921 (Tân
Dậu) tiền khai kết hôn với cô Võ Thị Giáo (1902-1958), người quận Cai Lậy, tỉnh
Mỹ Tho.
3. Tiền khai Phạm Công Tắc
(1890-1959)
Tiền khai Phạm Công Tắc tự Ái Dân, sinh
trong một gia đình Công Giáo. Cha là ông Phạm Công Thiền, quê làng An Hòa, quận
Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh. Làm công chức, ông Thiền được thuyên chuyển về làng
Bình Lập, quận Châu Thành, tỉnh Tân An. Tại đây bà La Thị Đường đã sinh tiền
khai (con thứ tám) vào Thứ Bảy 21-6-1890 (05-5 Canh Dần).
Bắt đầu đi học năm 1895 (Ất Mùi), đến
năm 1905 (Ất Tỵ), tiền khai vào học collège Chasseloup-Laubat. Hai năm sau tiền khai đậu bằng thành
chung. Năm 1910 (Canh Tuất), tiền khai làm thơ ký Sở Thương Chánh Sài Gòn, bạn
đồng sở với tiền khai Cao Hoài Sang. Tiền khai kết hôn với cô Nguyễn Thị Nhiều
(1892-1968), sau này là chức sắc ở Tòa Thánh Cao Đài Tây Ninh.
II. CUỘC XƯỚNG HỌA GIỮA HAI CÕI SẮC KHÔNG
Theo báo cáo của một chủ quận được ghi nhận trong phúc trình “Le Caodaϊsme” (01-01-1932) của
Lalaurette, Thanh Tra Chánh Trị Và Hành Chánh Sự Vụ,([5]) thì vào những năm 1924-1925, đã có một làn sóng Thông Linh
Học (Spiritisme) lan tràn khắp Nam
Kỳ.([6])
1. Thử dùng phương pháp xây bàn
Đêm Thứ Sáu 24-7-1925 (04-6 Ất Sửu), hai tiền khai Phạm Công Tắc và Cao
Quỳnh Cư đến chơi nhà tiền khai Cao Hoài Sang trên đường D’Arras. Trong lúc bàn
luận cách tiếp xúc thế giới vô hình, khoảng chín giờ đêm, tiền khai Cư đề nghị
thử dùng phương pháp xây bàn (la table
tournante) theo chỉ dẫn trong sách Thông Linh Học tiếng Pháp.([7])
Hai đêm đầu chẳng được kết quả gì. Đêm Chủ Nhật 26-7-1925 (06-6 Ất Sửu),
ba vị tiếp được chơn linh Cao Quỳnh Tuân, thân phụ tiền khai Cư. Chơn linh này
cho con trai bài thơ thất ngôn bát cú như sau:
Ly trần tuổi đã quá năm mươi
Mi mới vừa lên ước đặng mười
Tổng (?) mến lời khuyên bền mộ (?)
chép
Tình thương câu dặn gắng tâm đời
Xót nỗi vợ hiền còn lụm cụm
Gặp nhau nhắn nhủ một đôi lời.
Tiếp xúc được chơn linh người thân quá vãng, các tiền khai Cao-Phạm tin
rằng con người có thể tiếp xúc thế giới vô hình. Các vị hẹn tuần sau tiếp tục
thử nghiệm xây bàn.
2. Thất Nương
Đêm Thứ Năm 30-7-1925 (10-6 Ất Sửu) tại
nhà tiền khai Cao Hoài Sang, các vị tiếp được Thất Nương là một trong chín vị
Tiên Nương phò giá Đức Phật Mẫu (Diêu Trì Kim Mẫu). Nhưng một tháng sau các
tiền khai mới biết điều ấy, vì trong lần tiếp xúc đầu tiên và nhiều lần sau đó,
Thất Nương đều giấu phẩm vị thiêng liêng. Đêm đầu tiên, xưng tên Đoàn Ngọc Quế,
qua một bài thơ thất ngôn bát cú Thất Nương kể lại việc sớm từ trần khi còn rất
trẻ:
Nỗi mình
tâm sự tỏ cùng ai
Mạng bạc còn
xuân uổng sắc tài
Dồn dập tương tư
oằn một gánh
Nỗi mình tâm sự
tỏ cùng ai.
Lần lượt ba vị Phạm Công Tắc, Cao Quỳnh
Cư, Cao Hoài Sang ứng khẩu họa lại bài thơ ấy.
3. Kết nghĩa anh em với Thất Nương
Thú xướng họa thúc đẩy các tiền khai hằng đêm háo hức xây bàn, quên nhọc
mệt. Mối duyên thơ không có ranh giới giữa kẻ tục người tiên. Đầu tháng 8-1925,
ba vị kết nghĩa với Thất Nương: anh cả là Cao Quỳnh Cư; anh hai, Phạm Công Tắc; anh
ba, Cao Hoài Sang; em tư, Thất
Nương.
Tiền khai Cao Quỳnh Diêu (1884-1958) tự Mỹ Ngọc,([14])
là anh thứ ba của tiền khai Cư, sinh tại làng Hiệp Ninh, tổng Hàm Ninh Thượng,
tỉnh Tây Ninh. Bạn đời của tiền khai là bà Trần Thị Lựu. Khi biết những huyền
diệu của việc thông công, tiền khai Diêu đã tham gia xây bàn, lúc ở nhà tiền
khai Sang (dùng bàn tròn ba chân), lúc ở nhà tiền khai Cư (dùng bàn vuông bốn
chân).([15])
4. Bát Nương và Quí Cao
Đêm Thứ Bảy 22-8-1925 (04-7 Ất Sửu),
Thất Nương giới thiệu các tiền khai tiếp xúc với Bát Nương (xưng tên Hớn Liên
Bạch). Bát Nương tặng các vị một bài thơ thất ngôn bát cú nói về cảnh chia ly
của một đôi tình nhân:
Vàng đá trăm năm
tạc tấm tình
Bước rẽ ngùi
trông cơn ác xế
Ngày chờ mây áng
ngàn dâu khuất
Đêm bặt đèn
khuya một bóng nhìn
Thứ Bảy 26-8-1925 (08-7 Ất Sửu), các
tiền khai tiếp được chơn linh Quí Cao, thế danh Huỳnh Thiên Kiều, khách làng
thơ trong nhóm Ngưu Giang Thi Xã. Sinh thời ông làm công chức ở Dinh Đốc Lý (Mairie, về sau gọi là Tòa Đô Chánh). Đêm
ấy, chơn linh Quí Cao họa lại bài thơ của Bát Nương hôm 22-8 như sau:
Ình ình
trống giục thảm trường đình
Đau nỗi chia
phôi một chữ tình
Một mảnh gương
treo biếng mắt nhìn
Kẻ ở chân trời
người góc biển
Lòng thành nhắn
gởi chữ khương ninh.
5. Đức AĂÂ
Đêm Thứ Sáu 28-8-1925 (10-7 Ất Sửu), tại
nhà tiền khai Cư, các vị tiếp được một đấng xưng danh AĂÂ. Ngài cho bài thơ ngộ
nghĩnh:
Ớt cay
cay, ớt gẫm mà cay
Khi tiền khai Cư hỏi tuổi thì bàn
nghiêng đi và một chân bàn gõ xuống sàn liên hồi, không đếm xuể. Ngay buổi đầu,
Đức AĂÂ đặt điều kiện: “Muốn cho Bần Đạo
đến thường, xin chư vị nạp lấy mấy lời yêu cầu của Bần Đạo như sau đây: Một là,
đừng kiếm mà biết Bần Đạo là ai. Hai là, đừng hỏi quốc sự. Ba là, đừng hỏi đến
thiên cơ.” ([26])
AĂÂ là ba con chữ đầu tiên của bảng chữ
cái quốc ngữ. A do Alpha hay a (con chữ đầu tiên của bảng chữ cái Hy Lạp), tượng trưng
đầu mối của vũ trụ vạn vật, tức là Thái Cực với biểu tượng cổ [. Ă và Â là biến thể của A, như là âm và dương
(Lưỡng Nghi sinh ra từ Thái Cực). Dấu Ú trên chữ Ă
trông giống phần âm ngửa lên, màu đen ; dấu ^ trên chữ Â trông giống phần dương úp xuống, màu trắng trong biểu tượng cổ [. Có thể hiểu AĂÂ là một cách biểu thị Thái Cực âm
dương. Thái Cực là đầu mối sinh ra càn khôn vũ trụ nên AĂÂ và Thái Cực đều biểu
thị Thượng Đế vô ngã (impersonal God).([27])
6. Bắt đầu dùng đại ngọc cơ
Khoảng hạ tuần tháng 9-1925 (thượng tuần tháng 8 Ất Sửu), Đức AĂÂ dạy các
tiền khai Cao-Phạm làm một tiệc chay vào đêm trung thu để cung hiến Đức Diêu
Trì Kim Mẫu và Cửu Vị Tiên Nương.
Thất Nương khuyên các vị ăn chay và cầu
nguyện trong ba ngày từ Thứ Ba 29-9 đến Thứ Năm 01-10-1925 (12 đến 14-8 Ất
Sửu). Thất Nương chỉ dẫn cách cầu Đức Diêu Trì Kim Mẫu, và dặn phải tìm đại ngọc
cơ ([28]) để thông công với các Đấng thiêng
liêng.
Một láng giềng của tiền khai Cao Quỳnh
Cư là ông Phan Văn Tý (1888-1962), quê Thủ Dầu Một, làm công chức Sở Trường
Tiền (sau này gọi là Sở Công Chánh), vốn quen dùng đại ngọc cơ thỉnh Tiên xin
thuốc trị bệnh. Ông sẵn lòng cho hai tiền khai Cư, Tắc mượn đại ngọc cơ và
hướng dẫn các vị cách cầu Tiên.
7. Hội Yến Bàn Đào
Nhân dịp chỉ dẫn các tiền khai cách cầu
Đức Diêu Trì Kim Mẫu, Thất Nương cho biết rằng Đoàn Ngọc Quế (cũng gọi Vương
Thị Lễ) là Thất Nương,([29]) và Hớn Liên Bạch là Bát Nương. Cả hai
cùng với bảy vị Tiên Nương khác sẽ theo hộ giá Đức Diêu Trì Kim Mẫu vào đêm
tiệc trung thu sắp tới.
Tiệc được chuẩn bị trang trọng tại nhà tiền khai Cao Quỳnh Cư. Thất Nương
chỉ cách sắp đặt nghi tiết: Xông hương trầm khắp phòng cho tinh khiết; sắp đặt
một bàn thờ trang nghiêm đủ các lễ phẩm để cung thỉnh Đức Kim Mẫu; trước bàn
thờ bày chiếc bàn lớn chưng bông trái tươi tốt; sắp chín cái ghế dành tiếp chín
vị Tiên Nương.
Đêm Thứ Sáu 02-10-1925 (15-8 Ất Sửu), các tiền khai đem đại ngọc cơ ra
cầu trước bàn thờ. Đức Kim Mẫu và Cửu Vị Tiên Nương lâm đàn, cùng các Đấng khác
như Liên Huê Tiên, Diệu Đạo Thiên Tôn, Phổ Hiền Bồ Tát, v.v...
Thất Nương xin phép Đức Kim Mẫu cho các
tiền khai hòa đàn hiến lễ và được hầu tiệc. Ba vị thủ lễ, ngồi ở phía sau chín
chiếc ghế dành cho Cửu Vị Tiên Nương. Ngày nay, lễ Hội Yến Bàn Đào hàng năm vào
đêm rằm tháng 8 trong đạo Cao Đài đều mô phỏng theo cách thức buổi lễ đầu tiên
ấy, có thêm một số nghi thức.
Sau bữa tiệc đêm trung thu, các Đấng bắt
đầu khuyên các vị nghĩ tới việc tu hành. Chẳng hạn, Phổ Hiền Bồ Tát dặn dò: “Gắng thiện niệm rõ cơ Trời!” Ngoài ra, người Tiên và khách tục vẫn
tiếp tục xướng họa thơ.
Mối duyên thơ Tiên tục ở phố Hàng Dừa
lần hồi đến tai tao nhân mặc khách ở Sài Gòn. Vì vậy các tiền khai hầu như luôn
luôn có khách hiếu kỳ, muốn chứng kiến tận mắt xem hư thực thế nào. Trong chỗ
thân quen với tiền khai Cư có tiền khai Trương Hữu Đức, cùng làm thơ ký Sở Hỏa
Xa, đã sớm gia nhập nhóm Cao-Phạm trong năm 1925.
8. Tiền khai Trương
Hữu Đức (1890-1976)
Tiền khai tự Hòa Dân, hiệu Thân Dân,([30]) sinh ngày Thứ Năm 20-02-1890 (02-02
Canh Dần) nhưng trên giấy tờ ghi 1892. Cha là ông Trương Văn Tựu, nguyên cai
tổng Cầu An Thượng, tỉnh Chợ Lớn, về sau là Ngọc Giáo Sư. Mẹ là bà Lê Thị Nhụy
tức Sót. Người phối ngẫu của tiền khai là bà Nguyễn Thị Sanh, thọ Thiên phong
Lễ Sanh ngày Thứ Ba 15-02-1927 (14-01 Đinh Mão).
9. Tiền khai Nguyễn Trung Hậu
(1892-1961)
Tiền khai tên thật là Nguyễn Văn Hậu,([31]) tự Thuần Đức, sinh ngày Thứ Sáu
01-4-1892 (05-3 Nhâm Thìn), tại xã Bình Hòa, tỉnh Gia Định. Thân phụ là ông Nguyễn
Phục Lễ (1856-1915), tự Văn Nhiêu, làm thầy thuốc đông y. Thân mẫu là bà Lê Thị
Cơ (1854-1926). Năm 1919 tiền khai kết hôn với cô Diệp Thị Nguy (1901-1953),
cũng gọi Qui, người làng Phú Hựu, tổng An Mỹ, tỉnh Sa Đéc.
Năm 1911 tiền khai Hậu tốt nghiệp trường
Sư Phạm Gia Định (École Normale de Gia
Định); từ năm 1922 điều khiển trường sơ học nội trú Internat Primaire de
Dakao (sau này là trung học Huỳnh Khương Ninh, ở góc đường Huỳnh Khương Ninh và
Phan Liêm, quận 1). Ngoài nghề giáo, tiền khai còn viết bài cho các báo Đuốc Nhà Nam, Hoàn Cầu Tân Văn... Cũng như Quí Cao Huỳnh Thiên Kiều, tiền khai có
chân trong Ngưu Giang Thi Xã.
Nghe tin chơn linh Quí Cao xướng họa với
nhóm Cao-Phạm, một đêm tháng 11-1925 tiền khai Nguyễn Trung Hậu tìm đến phố
Hàng Dừa tái ngộ Quí Cao, và không lâu sau đó trở thành một thành viên mới của
nhóm thông công này.
Trong cuối năm 1925, tiền khai Hậu được
Đức AĂÂ điểm danh qua bài thơ tứ tuyệt mà hai câu đầu nhắc tới tự Thuần Đức và
tài làm thơ:
Tên tuổi làng
thơ đã đứng vào
Non nước muốn nêu
danh tuấn kiệt
Ðến hồi búa việt
giục cờ mao.
III. CÁC TIỀN KHAI CAO-PHẠM TRỞ THÀNH
MÔN ĐỆ CAO ĐÀI
1. Nghe hồng danh Cao Đài lần đầu
Thứ Ba 20-10-1925 (03-9 Ất Sửu), lúc 12
giờ đêm, Đức Cửu Thiên Huyền Nữ dạy cả nhóm: “Phải tu tâm dưỡng tánh phòng ngày sau đặng quy vị.”
Sau đó, đêm Thứ Bảy 12-12-1925 (27-10 Ất
Sửu), Đức Cửu Thiên Huyền Nữ ban lịnh: “Mồng
một này tam vị đạo hữu vọng Thiên cầu Đạo.”
Các tiền khai không hiểu vọng Thiên cầu Đạo là gì nên cầu cơ hỏi các Đấng thiêng liêng. Đêm Chủ Nhật
13-12-1925 cầu được Thất Nương; đêm sau cầu được một Đấng ẩn danh. Cả hai đều
bảo không có nhiệm vụ giải thích, khuyên các tiền khai hãy cầu Đức AĂÂ.
Đêm Thứ Ba 15-12-1925 (30-10 Ất Sửu),
Đức AĂÂ lâm đàn và dạy: “Ngày mồng một
tháng Mười Một này tam vị phải vọng Thiên cầu Đạo. Tắm gội cho tinh khiết, ra
quỳ giữa trời, cầm chín cây nhang mà vái rằng ba tôi là Cao Quỳnh Cư, Phạm Công
Tắc, Cao Hoài Sang, vọng bái Cao Đài Thượng Đế ban ơn đủ phúc lành cho ba tôi
cải tà quy chánh.” Đó là lần đầu tiên các tiền khai được nghe hồng danh Cao
Đài, và không ai hiểu Cao Đài là gì.
Đêm Thứ Tư 16-12-1925 (01-11 Ất Sửu),
sau khi làm lễ vọng Thiên cầu Đạo ngoài sân trước nhà tiền khai Cư,([33]) các tiền khai vào nhà lập đàn. Đức
Thượng Đế giáng lâm và ban ơn cho các vị một bài bốn câu gồm hai mươi tám từ
Hán-Việt khó hiểu.
Ngay sau đó, các tiền khai tái cầu, được
Đức AĂÂ giải thích: “Đức Cao Đài Thượng
Đế muốn nói tam vị chưa đủ đức tin về Ngài, nên hỏi gạn lại. Tam vị phải nghĩ
cho thấu.”
Đức AĂÂ khuyên:
Cứ níu
theo phan Đức Thượng Hoàng
Tự nhiên tu tánh
đặng bình an
Nguyệt hoa căn
tội tua xa lánh
Vin lấy cành
dương hưởng đạo nhàn.
Sau đêm vọng Thiên cầu Đạo, ba vị thường
xuyên được các Đấng đến dạy bảo. Thứ Bảy 19-12-1925 (04-11 Ất Sửu), Đức AĂÂ
dạy:
Mừng
thay gặp gỡ đạo Cao Đài
Bởi đức ngày xưa
có buổi nay
Rộng mở cửa răn
năng cứu chuộc
Gìn lòng tu tánh
chớ đơn sai.
Tiếp theo, Minh Nguyệt Tiên Ông dạy:
Chẳng
quản đồng tông mới một nhà
Cùng nhau một
đạo tức cùng cha
Nghĩa nhân đành
gởi thân trăm tuổi
Dạy lẫn cho nhau
đặng chữ hòa.
Chủ Nhật 20-12-1925 (05-11 Ất Sửu), Đức
AĂÂ dạy:
Có cơ,
có thế, có tinh thần
Từ đấy Thần Tiên
dễ đặng gần
Dưỡng tánh tu
tâm tua gắng sức
Ngày sau toại
hưởng trọn Thiên ân.
Thứ Ba 22-12-1925 (07-11 Ất Sửu), Thất
Nương tái ngộ:
* Đã
cùng nhau trót mấy lời giao
Cách mặt mà lòng
chẳng lãng xao
Đàng đạo càng đi
càng vững bước
Cõi Thiên sau ắt
hội cùng nhau.
* Một
nhà vầy hội rất mừng thay
Đạo Thánh từ đây
đặng vẹn ngay
Một bước một đi
đường một tới
Lòng thành xin
trọng, thấu Cao Đài.
Thứ Tư 23-12-1925 (08-11 Ất Sửu), Lục
Nương đến:
Cha chả
hèn lâu chẳng viếng thăm
E
chư huynh trưởng trách em thầm
Tuy
xa cách mặt lòng không cách
Buồn
giở thơ hòa, đọc lại ngâm.
Tiếp theo là Bát Nương:
Lửa
lòng rưới tắt mượn nhành dương
Vì
nghĩa sơ giao phải đến thường
Còn
gánh đồ thơ tua vẹn giữ
Dứt
dây oan trái chớ riêng thương.
Bài của Huệ Mạng Trường Phan (sinh
tiền tu trên núi Điện Bà, tỉnh Tây
Ninh):
Trước
ước cùng nhau sẽ hiệp vầy
Nào
dè có đặng buổi hôm nay
Gìn
lòng tu niệm cho bền chí
Bồng
Đảo ngày sau đặng hiệp vầy.
2. Đêm Giáng Sinh 1925
Đêm Thứ Năm 24 rạng Thứ Sáu
25-12-1925 (09 rạng 10-11 Ất Sửu), hai vị Cao Hoài Sang và Phạm Công Tắc tựu
lại nhà tiền khai Cao Quỳnh Cư lập đàn. Đức AĂÂ giáng dạy: “Cao Đài đã hiểu lòng của ba đệ tử Cao Quỳnh Cư, Phạm Công Tắc, Cao
Hoài Sang. Ngài đã ban đầy ơn cho mỗi người. Đêm
nay phải vui mừng vì là ngày của Thượng Đế xuống trần dạy đạo bên Thái Tây
[châu Âu]. Ta rất vui lòng đặng thấy ba đệ tử kính mến Ta như vậy. Nhà này sẽ
đầy ơn Ta. Ngày giờ gần đến. Đợi lịnh nơi Ta. Ta sẽ làm cho thấy huyền diệu
đặng kính mến Ta hơn nữa.”
Trong đêm vui này, các Đấng thiêng liêng còn ban cho các tiền khai nhiều
thơ. Chẳng hạn, bài của Đức AĂÂ:
Muôn kiếp có ta nắm chủ quyền
Vui lòng tu niệm hưởng ân Thiên
Đạo mầu rưới khắp nơi trần thế
Ngàn tuổi muôn tên giữ trọn biên.
Bài của Lục Nương:
Vui nhơn vui đạo lại vui thiền
Vui một bước đường một bước yên
Vui bóng Cao Đài che khắp chốn
Vui gương Ngọc Đế thấy như nhiên
Vui ngàn thế giới răn nhơn sự
Vui một màu Thiên đóng cửu tuyền
Vui vớt sanh linh nơi bể khổ
Vui Trời rưới khắp đủ ân Thiên.
Đức AĂÂ khuyến khích các tiền khai: “Hay
lắm! Chỉ trông cho ba vị đi càng ngày càng vững trên đường đạo.”
Các tiền khai hỏi có phải Đức AĂÂ và Cao Đài chỉ là một. Đức AĂÂ nhắc
nhở: “Trước vẫn tiếng hứa lời không tìm
biết danh Đại Tiên sao nay còn hỏi?”
Nhưng đến Thứ Năm 31-12-1925 (16-11 Ất Sửu) các tiền khai đều rõ AĂÂ là
một tá danh (tên tạm mượn) của Đức Cao Đài. Đêm ấy Đức Cao Đài hỏi các vị: “Ba con thương Thầy lắm há? Con thấy đặng sự
hạ mình của AĂÂ là thế nào chưa? Con có thấu đáo cái quyền năng của Thầy chưa?
Người quyền thế lớn nhứt như vậy có thể hạ mình bằng AĂÂ chăng? AĂÂ là Thầy.
Thầy đến con thế ấy, con thương Thầy không?”
Sau đó mười ba hôm (Thứ Tư 13-01-1926), khi Thất Nương lâm đàn, các tiền
khai trách Thất Nương trước đây nỡ giấu, không cho biết Đức AĂÂ và Đức Cao Đài
chỉ là một. Thất Nương an ủi: “Trời là
Trời, em là em. Em rõ biết nhưng không dám lậu. Nay ba anh đặng vậy, em mừng.”
Cùng ngày ấy, Lục Nương cũng khuyến khích các tiền khai tu tiến với một
bài thơ dài, bốn câu mở đầu như sau:
Mừng nay đường đạo đã êm chơn
Vàng ngọc công khanh chẳng dám hơn
Rượu cúc Bàn Đào chờ hội ẩm
Thuốc Tiên lò Tạo giữ sinh tồn…
Trong câu thơ thứ ba, Lục Nương nhắc các tiền khai nhớ đến Hội Yến Bàn
Đào trên thượng giới do Đức Diêu Trì Kim Mẫu ban thưởng cho người tu đắc đạo,
trở về ngôi xưa vị cũ. Trong câu thứ tư, Lục Nương ngụ ý khuyên các vị tu thiền
(tịnh luyện) để thoát khỏi vòng luân hồi sanh tử.
IV. TIỀN KHAI LÊ VĂN TRUNG (1876-1934)
Thứ Hai 11-01-1926 (27-11 Ất Sửu), các tiền khai Cao-Phạm không ngờ tiếp
thêm một vị khách tuổi ngũ tuần là Lê Văn Trung, nổi tiếng trong giới kinh
doanh và chánh trị ở Nam Kỳ.([34])
1. Những năm trước khi tiếp xúc cơ bút
Năm 1876 (Bính Tý) tiền khai Lê Văn Trung chào đời trong một gia đình
tiểu nông tại làng Phước Lâm, tổng Phước Điền Trung, quận Cần Giuộc, tỉnh Chợ
Lớn. Song thân là ông Lê Văn Thanh (1845-1878) và bà Văn Thị Xuân (1849-1912).
Năm 1894 (Giáp Ngọ), sau khi tốt nghiệp collège Chasseloup-Laubat ở Sài
Gòn, tiền khai Lê Văn Trung thi đậu thơ ký, làm việc tại Phủ Thống Đốc Nam Kỳ (Palais du Gouvernement de la Cochinchine).
Sau mười hai năm làm công chức, tiền khai thôi việc để ra ứng cử và đắc
cử Hội Đồng Quản Hạt (Conseil Colonial de
Cochinchine),([35]) đại diện cho Sài Gòn, và các tỉnh Gia
Định, Chợ Lớn, Gò Công, Tây Ninh.
Cùng năm này, một nghị định bổ nhiệm các nghị viên cho Hội Đồng Địa
Phương Cải Thiện Giáo Dục Bản Xứ Tại Nam Kỳ (Comité Local de Perfectionnement de l’Enseignement Indigène en
Cochinchine). Trong số vài nghị viên người Việt có tiền khai Lê Văn Trung.([36])
Năm 1911 (Tân Hợi), tiền khai Lê Văn
Trung vận động các nhân vật tai mắt ở Sài Gòn xây dựng trường trung học đầu
tiên dành cho nữ sinh. Năm 1913 trường được khởi công xây dựng; năm 1915 trường
khánh thành và khai giảng khóa đầu tiên. Trường tên là collège des Jeunes Filles Indigènes, tục gọi trường Áo Tím, vì ngày
lễ nữ sinh mặc đồng phục áo dài tím Huế và quần trắng thay cho áo bà ba ngày
thường.([37])
Thứ Bảy 18-5-1912 (02-4 Nhâm Tý), tiền
khai Lê Văn Trung được Chánh Phủ Pháp tặng thưởng Bắc Đẩu Bội Tinh hạng Năm (Chevalier de la Légion d’Honneur).([38])
Thứ Năm 10-12-1914 (23-10 Giáp Dần) tiền
khai Lê Văn Trung được chọn làm nghị viên Hội Đồng Chánh Phủ Đông Dương (Conseil de Gouvernement de l’Indochine),
bấy giờ thường gọi là Thượng Nghị Viện
Đông Dương.([39])
Ngoài các hoạt động chánh trị - xã hội
nói trên, tiền khai Lê Văn Trung còn làm kinh doanh sau khi thôi nghề công chức
ở Phủ Thống Đốc Nam Kỳ. Từ năm 1920 (Canh Thân) việc kinh doanh của tiền khai
ngày càng suy kém. Bốn năm sau, tiền khai hoàn toàn thua lỗ trong kinh doanh.
Vì buồn phiền, tiền khai hút thuốc phiện. Họa vô đơn chí, thị lực tiền khai
giảm sút, đôi mắt gần như mù.
2. Tiền khai Lê Văn Trung vào đạo Cao Đài
Tiền khai Lê Văn Trung có người bà con là tiền bối Nguyễn Hữu Đắc
(1897-1974), môn sanh Minh Lý Đạo, ngụ tại số 100 đường Lục Tỉnh, Chợ Lớn (nay
là đường Hùng Vương, quận 6). Khoảng tháng 6-1925 (tháng 4 nhuần Ất Sửu), tiền
bối Đắc đưa tiền khai Trung đến hầu đàn Chợ Gạo, thiết lập tại nhà ông Vạn ([40]) ở ngã ba Bà Kế (nay là ngã ba Phú Lâm và Hùng Vương, quận 6,
Chợ Lớn) để bá tánh đến cầu Thần Tiên thỉnh thuốc trị bệnh.
Đức Lý Thái Bạch giáng đàn khuyên tiền khai Lê Văn Trung nên tỉnh mộng
trần mà lo việc tu hành. Tiền khai bắt đầu ăn chay, bỏ hút thuốc phiện, và đôi
mắt dần dần phục hồi thị lực. Sau khi Đức Lý hóa độ được tiền khai Trung
rồi thì Ơn Trên ban lệnh bế đàn Chợ Gạo. Về phần tiền khai, sự mầu nhiệm ở đàn
Chợ Gạo khiến tiền khai tin tưởng cơ bút để rồi thành tâm tìm đến nhà tiền khai
Cao Quỳnh Cư vào Thứ Hai 11-01-1926 (27-11 Ất Sửu).
Đêm ấy bốn vị tiền khai Trung, Cư, Tắc,
và Sang lập đàn cầu cơ. Đức Cao Đài giáng và dạy tiền khai Lê Văn Trung:
Già trí
đừng lo trí chẳng già
Lương tâm mình
biết hỏi chi xa
Thềm đầu Trời
ngó lòng nhơn đạo
Hư thiệt rồi đây
cũng biết mà.
Đúng một tuần sau, tuân lệnh Đức Cao
Đài, hai tiền khai Cao Quỳnh Cư và Phạm Công Tắc đem đại ngọc cơ đến nhà tiền
khai Lê Văn Trung ở Quai Testard, Chợ Lớn (nay là đường Châu Văn Liêm, quận 5).
Đức Cao Đài lâm đàn thâu nhận tiền khai Lê Văn Trung làm môn đồ, và dạy: “Trung, nhứt tâm nghe con. Sống cũng nơi Thầy, thành cũng nơi Thầy mà đọa cũng nơi Thầy. Con lấy sự
sáng của con mà suy lấy.” ([41])
V. NHỮNG BƯỚC TIẾN CỦA
CÁC TIỀN KHAI CAO-PHẠM
1. Đức tin gia tăng
Thứ Sáu 25-12-1925 (10-11 Ất Sửu), tiền
khai Cao Quỳnh Cư nguyện với Thầy ăn chay thêm hai ngày 15 và 30, “để đặng tinh khiết mà cúng Đức Cao Đài
Thượng Đế”.([42])
Thứ Bảy 02-01-1926 (18-11 Ất Sửu), Đức
Cao Đài dạy hai tiền khai Cư và Tắc: “Thầy
dặn hai con một điều: Nhứt nhứt phải đợi lịnh Thầy. Chẳng nên lấy ý tứ riêng mà
phán đoán nghe. Phận sự hai con, trách nhậm hai con Thầy đã định trước, song
ngày giờ chưa đến. Phải tuân lời Thầy nghe. Từ đây Thầy khởi sự dạy đạo cho.” ([43])
Hai tiền khai Cao Quỳnh Cư và Phạm Công
Tắc tập tụng kinh. Thứ Hai 04-01-1926 (20-11 Ất Sửu), Đức Cao Đài dạy: “Thầy khen hai con tụng kinh đặng.” ([44]) Không biết hai vị tụng kinh gì.
Tiền khai Hương Hiếu (bà Cao Quỳnh Cư)
say mùi đạo, muốn độ thân mẫu là bà Trần Thị Huệ. Thứ Năm 07-01-1926 (23-11 Ất
Sửu), tiền khai bạch với Thầy: “Má con
mắc ở xa, làm sao con đi độ được?”
Đức Cao Đài dạy: “Hiếu, con biết một lòng tu niệm. Đạo đức của con đủ cứu cửu huyền thất
tổ rồi, huống là mẹ con. Để Thầy định đoạt cho, con đừng buồn.” ([45])
2. Hiệp với tiền khai Ngô Văn Chiêu
Các tiền khai Cao-Phạm vẫn chưa biết
nghi thức thờ Thầy. Khoảng hạ tuần tháng 01-1926 (trung tuần tháng 12 Ất Sửu),
Đức Cao Đài dạy các vị phải hiệp cùng tiền khai Ngô Văn Chiêu mở đạo Cao Đài,
và phải kính tiền khai Chiêu là Anh Cả. Sau đó các vị được tiền khai Chiêu chỉ
dẫn nghi thức thờ phượng, nhất là cách sắp đặt bàn thờ (Thiên bàn) có thánh
tượng Thiên Nhãn. Trách nhiệm cầu cơ được phân định như sau: Pháp đàn: tiền khai Chiêu; đồng tử âm dương: tiền khai Cư và Tắc; điển ký: tiền khai Hương Hiếu.
Trong khoảng thời gian hợp nhất với tiền
khai Ngô Văn Chiêu, các vị Cao-Phạm đón tiếp thêm một ít thành viên mới. Ngoài ba
vị thông phán Võ Văn Sang, Nguyễn Văn Hoài, Lý Trọng Quí (1872-1945, cũng gọi
Hồ Vinh Quí), còn có Vương Quan Kỳ, Đoàn Văn Bản, và Lê Văn Giảng.
3. Tiền khai Vương Quan Kỳ
(1880-1939)
Tiền khai Vương Quan Kỳ tự là Mỹ
Lương,([46]) tiếp xúc các tiền khai Cao-Phạm lần đầu
vào Thứ Ba 17-11-1925 (02-10 Ất Sửu).([47]) Tiền khai sinh ngày Thứ Bảy 29-5-1880
(21-4 Canh Thìn) nhưng khai sinh ghi 04-7-1880. Cha là ông Vương Quan Để
(1842-1887), con của võ quan Vương Quan Hạc; mẹ là bà Huỳnh Thị Bảy
(1851-1935), con tuần phủ Huỳnh Mẫn Đạt (1807-1882). Năm 1894 tiền khai vào học
collège de Mỹ Tho, hai năm sau lên Sài Gòn học collège Chasseloup-Laubat. Thi
đậu ngạch thơ ký (1898), từ Thứ Tư 18-5-1898 tiền khai làm việc tại bộ phận coi
về canh nông và thương mại (Direction de
l’Agriculture et du Commerce) thuộc Phủ Thống Đốc Nam Kỳ. Là công chức
thành đạt, sau này tiền khai lần lượt thăng lên ngạch tri huyện rồi tri phủ
(làm việc tại Sở Thuế Thân). Năm 1906 tiền khai kết hôn với cô Huỳnh Ngọc Phan
(1878-1949), người tỉnh Sa Đéc. Thứ Bảy 16-3-1912, tiền khai nhập tịch Pháp,
tên gọi là Guillaume.
4. Tiền khai Đoàn Văn Bản (1876-1941)
Tiền khai Đoàn Văn Bản tự là
Văn Long,([48]) người làng Tân Uyên, tổng Chánh Mỹ
Trung, tỉnh Biên Hòa. Tốt nghiệp trường sư phạm (École Normale Primaire d’Instituteurs), tiền khai làm giáo viên
tiểu học, rồi làm đốc học trường tiểu học Cầu Kho (nay là trường tiểu học Trần
Hưng Đạo, số 250 đường Trần Hưng Đạo, quận 1). Lần kết hôn thứ nhất, tiền khai
không có con; lần kết hôn thứ hai chỉ được một gái là Đoàn Thị Quới.([49])
Thứ Năm 14-01-1926 (01-12 Ất Sửu), tại
nhà riêng ở số 42 đường Général Leman, quận 1 (nay là đường Cao Bá Nhạ), tiền khai
thông công với Đức Cao Đài, được ban ơn một bài thơ thất ngôn tứ tuyệt.([50]) Nhà riêng của tiền khai sau này trở
thành thánh thất Cầu Kho, một trong mấy nơi thờ tự ban sơ của đạo Cao Đài.
5. Tiền khai Lê Văn Giảng (1883-1932)
Tiền khai Lê Văn Giảng ([51]) người làng Phong Thới, quận Vũng Liêm,
tỉnh Vĩnh Long. Song thân là ông Lê Văn Thoại và bà Võ Thị Lương. Bạn đời tiền
khai là bà Huỳnh Thị Chính (1886-1973). Khi gặp đạo Cao Đài tiền khai đang làm
thơ ký kế toán tại hãng buôn Hippolito trên đường Espagne, quận 1, Sài Gòn (nay
là đường Lê Thánh Tôn). Nhà tiền khai ở số 85 đường Lagrandière, quận 1, Sài
Gòn (nay là đường Lý Tự Trọng).
6. Khai đàn thượng tượng tại nhà
riêng
Theo chỉ dẫn của tiền khai Ngô Văn
Chiêu, các vị Cao-Phạm lần lượt lập Thiên bàn tại nhà. Mỗi khi an vị Thiên bàn,
gọi là “khai đàn thượng tượng”, một
đàn cơ được lập tại nhà đó ngõ hầu cả gia đình cùng thọ ơn lành của Đức Cao
Đài. Chẳng hạn:
Thứ Tư 27-01-1926 (14-12 Ất Sửu), lễ an
vị tại nhà tiền khai Cao Quỳnh Cư, Đức Cao Đài dạy:
Đã để vào
tòa một sắc hoa
Từ đây đàn nội
tỷ như nhà
Trung thành một
dạ thờ Cao sắc
Sống có Ta, thác
cũng có Ta.
Đài sen
vui nhánh trổ thêm hoa
Một đạo như con
ở một nhà
Hiếu nghĩa tương
lai sau tựu hội
Chủ trung Từ Phụ
vốn là Ta.
Chủ Nhật 31-01-1926 (18-12 Ất Sửu), lễ an vị
tại nhà tiền khai Vương Quan Kỳ, Đức Cao Đài dạy:
Cao mấy
từng mây lố mặt trời
Đài sen vui nở
nhánh bông tươi
Đạo mầu cậy gã
truyền nhơn sự
Dạy trẻ cho an lấy đạo đời.
Cùng ngày ấy, lễ an vị tại nhà
tiền khai Lê Văn Trung, Đức Cao Đài dạy:
Một trời, một đất, một nhà riêng
Dạy dỗ nhơn sanh đặng dạ hiền
Cầm mối thiên thơ lo cứu chúng
Đạo người vẹn vẻ mới thành Tiên.
7. Những gợi ý về tu thiền (tịnh
luyện)
Đêm Thứ Năm 14-01-1926 (01-12 Ất Sửu),
Nhất Nương khuyên hai vị tiền khai Cao Quỳnh Cư và Phạm Công Tắc: “Em xin hai anh gắng công học đạo, dưỡng
luyện tinh thần, ắt ngày sau đắc đạo. Coi bửu vị [quả vị thiêng liêng] làm trọng. Đừng ham luyến hồng trần mà phải
đọa.”
Đêm Thứ Tư 27-01-1926 (14-12 Ất Sửu)
nhân dịp khai đàn thượng tượng tại nhà tiền khai Cao Quỳnh Cư, các Đấng thiêng
liêng lần lượt giáng, để lời khuyên các vị hãy lo tu thiền (tịnh luyện) ngõ hầu
thoát vòng luân hồi sanh tử. Chẳng hạn, Thất Nương bảo:
“Em xin ba anh [Cư, Sang, Tắc] coi lại thế đời dường nào. Cái bông phù dung sớm còn tối mất còn hơn
một kiếp con người, vì nó sống ngắn ngủi dường ấy, nhưng mà buổi sống còn có
cái sắc, chớ đời người sanh ra chỉ để thọ khổ mà thôi. Chung quy lại dầu sống
trăm tuổi chưa được một điều đắc chí. Chết là hết. Cái đời tạm này sách Phật
gọi là khổ hải.
Em xin ba anh coi sự trường sanh [thoát luân hồi sanh tử] của mình làm trọng. Người không có phải
kiếm, mình có sẵn nỡ bỏ đi. Em tiếc giùm đó thôi. Đã vào đường chánh, cứ do đó
bước tới hoài thì trở về cựu vị đặng.”
Tiền khai Lê Văn Trung hỏi: “Có duyên
luyện đạo cùng chăng? Xin em mách giùm.”
Thất Nương đáp: “Đã gặp đạo tức có
duyên phần. Ráng tu luyện. Siêng thì thành, biếng thì đọa. Liệu lấy mà răn
mình. Phải sớm tính. Một ngày qua, một ngày chết. Đừng dụ dự. Em xin kiếu.”
Đức Lý Thái Bạch dạy tiền khai Lê Văn Trung:
Có công phải biết gắng nên công
Tu tánh đã xong tới luyện lòng
Kinh sách đầy đầu chưa thoát tục
Đơn tâm khó định lấy chi mong.
Đêm sau, Đức Cao Đài dạy:
Một ngày thỏn mỏn một ngày qua
Tiên Phật nơi mình chẳng ở xa
Luyện đặng tinh thông muôn tuổi thọ
Cửa Thiên xuất nhập cũng như nhà.
Cương tỏa đương thời đã giải vây
Đừng mơ oan nghiệt một đời này
Hữu duyên độ thấu nguồn chơn đạo
Tu niệm khuyên bền chí chớ lay.
8. Thờ Tam Trấn Oai Nghiêm thay mặt Tam Giáo
Ban sơ chỉ thờ Thiên Nhãn, từ khi Đức Cao Đài thị hiện cho tiền khai Ngô
Văn Chiêu ở đảo Phú Quốc (1921). Về sau có thờ thêm Tam Trấn Oai Nghiêm là các
Đấng thay mặt Tam Giáo, gồm có: Nhứt Trấn
Oai Nghiêm (Đức Lý Thái Bạch, thay mặt đạo Lão), Nhị Trấn Oai Nghiêm (Đức Quan Âm Như Lai, thay mặt đạo Phật), Tam Trấn Oai Nghiêm (Đức Quan Thánh Đế
Quân, thay mặt đạo Nho).
Chủ Nhật 31-01-1926 (18-12 Ất Sửu), nhân lễ khai đàn thượng tượng tại nhà
tiền khai Lê Văn Trung, Đức Cao Đài giáng lâm dạy: “[Lê Văn] Trung, con thờ Thầy trên hết là phải. Con đem tượng Quan
Trường qua bên tay trái Thầy, còn Quan Âm bên mặt. Con thờ Lý Thái Bạch dưới
Thầy.”
Vài tháng sau, nghi thức thờ Tam Trấn Oai Nghiêm còn được dạy trong hai
đàn khác: Thứ Năm 22-4-1926 (11-3 Bính Dần), tại nhà tiền khai Cao Quỳnh Cư; và
Thứ Sáu 17-9-1926 (11-8 Bính Dần), tại thánh thất Thiền Lâm (làng Long Thành,
tỉnh Tây Ninh).
9. Giao thừa năm Bính Dần (1926)
Năm Ất Sửu hầu tàn. Chiều 30 Tết (Thứ Sáu 12-02-1926), tuân lời dạy của
Đức Cao Đài, các tiền khai tề tựu lại, cùng nhau đi một vòng ghé nhà từng đạo
hữu. Đoàn mang theo đại ngọc cơ để lập đàn tại mỗi nhà. Hôm ấy pháp đàn là Ngô
Văn Chiêu, đồng tử âm dương là Cao Quỳnh Cư và Phạm Công Tắc, độc giả là Nguyễn Trung Hậu,
điển ký là Tuyết Tân Thành.
Tại quận 1, trước tiên cả đoàn ghé
nhà tiền khai Võ Văn Sang (khu Cầu Muối), sau đó lần lượt ghé nhà bảy vị Cao Quỳnh Cư (134 đường Bourdais), Vương Quan Kỳ (80 đường Lagrandière), Lê Văn Giảng (85 đường Lagrandière), Nguyễn Trung Hậu (Đa Kao), Nguyễn Văn Hoài (địa chỉ chưa biết), Phạm Công Tắc (đường D’Arras), Đoàn Văn Bản (42 đường Général
Leman). Cả đoàn đi tiếp vào quận 6, ghé nhà tiền bối Nguyễn Hữu Đắc (100 đường Lục Tỉnh),([52])
rồi sang quận 5 ghé nhà tiền khai Lê
Văn Trung (Quai Testard). Cuối cùng là nhà tiền khai Lý Trọng Quí (địa chỉ chưa biết).
Mười một vị chủ nhà kể trên đều được Đức Cao Đài giáng cơ ban cho một bài thất
ngôn tứ tuyệt. Chẳng hạn:
- Ban ơn tiền khai Cao Quỳnh Cư:
Sắp
út thương hơn cũng thế thường
Cái
yêu, cái dạy ấy là thương
Thương
không nghiêm trị là thương dối
Dối
dạ vì chưng yếu dạ thương.
- Ban ơn tiền khai Lê Văn Giảng:
Trần
tục là nơi chốn biển buồn
Nghe
nơi Đại Đạo ráng nghe luôn
Ở
trong nhà sẵn Thầy đưa khó
Ách
nạn chi chi cũng chảy tuôn.
- Ban ơn tiền khai Phạm Công Tắc:
Ngao
ngán không phân lẽ thiệt không
Thấy
thằng áp út quá buồn lòng
Muốn
giàu Thầy hứa đem cho của
Cái
của cái công phải trả đồng.
- Ban ơn tiền khai Lê Văn Trung:
Đã
thấy ven mây lố mặt dương
Cùng
nhau xúm xít dẫn lên đường
Đạo
cao phó có tay cao độ
Gần
gũi sau ra vạn dặm trường.
Rời nhà tiền khai Lý Trọng Quí cả đoàn quay trở về nhà
tiền khai Lê Văn Trung vừa kịp đón giao thừa. Các vị lại lập đàn và có Đức Cao
Đài giáng cơ truyền lịnh:
“Chiêu, buổi trưóc hứa lời truyền
đạo, cứu vớt chúng sanh, nay phải y lời mà làm chủ, dìu dắt cả môn đệ Ta vào
đường đạo đức đến buổi chúng nó lập thành, chẳng nên thối trút. Phải thay mặt
Ta mà dạy dỗ chúng nó.
“Trung, Kỳ, Hoài, ba con phải lo thay
mặt Chiêu mà đi độ người. Nghe và tuân theo.
“Bản, Sang, Giảng, Quí, lo dọn mình
đạo đức đặng truyền bá cho chúng sanh. Nghe và tuân theo.
“Đắc, con phải hiệp một vào đây đặng
giúp đỡ Trung. Nghe và tuân theo.
Lúc ấy, tiền bối Nguyễn Hữu Đắc
đã có mặt hầu đàn. Nghe Đức Cao Đài dạy như vậy, ông liền bạch: “Thưa Thầy, con mắc lo vun tròn hội Minh
Lý.”
Đức Cao Đài dạy: “[Minh Lý và Cao Đài] cũng một gốc. Tùy ý con định. Sau chớ trách
Thầy.”
Rồi Đức Cao Đài dạy tiếp: “Đức, tập cơ. Hậu, tập cơ. Sau theo mấy anh con đặng độ người. Nghe và tuân theo.”
Lời dạy trên đây của Đức Thượng Đế đã xác định vị thế Anh Cả của tiền
khai Ngô Văn Chiêu. Theo Tân Luật Cao
Đài, Anh Cả tức là Giáo Tông.
Đàn giao thừa năm Bính Dần tại nhà tiền khai Lê Văn Trung kết thúc thời
gian nửa năm (từ 04-6 đến 30-12 Ất Sửu) các vị tiền khai Cao-Phạm thọ ơn Đức
Chí Tôn dìu dắt vào cửa Cao Đài.
Một năm sau, vào Thứ Tư 02-02-1927 (mùng một Tết Đinh Mão), Đức Chí Tôn
giáng đàn, nhắc lại: “Thầy lập Đạo năm
rồi ngày nầy [mùng một Tết Bính Dần] thì
môn đệ của Thầy chỉ có mười hai đứa...” ([53])
Nếu căn cứ theo thánh giáo này thì cách
tính lịch đạo của đạo Cao Đài nên bắt đầu từ mùng một Tết Bính Dần (Thứ Bảy
13-02-1926). Nói khác đi, mỗi khi bắt đầu Tết Nguyên Đán theo truyền thống dân
tộc thì cũng nên bắt đầu bước vào năm Đạo mới của cộng đồng tín hữu Cao Đài.([54])
HUỆ KHẢI
([3]) Trường Nhà Trắng: Khoảng
cuối năm 1860, giáo sĩ Lefèbvre yêu cầu các nữ tu dòng Saint Paul de Chartres
(SPC) qua Việt Nam nuôi trẻ mồ côi. Lúc đầu các nữ tu ở Chợ Cũ. Năm 1862, Đô
Đốc Bonard hiến cho Mẹ Bề Trên R.M. Benjamin khu đất đường Luro, quận 1 (sau là
đường Cường Để, nay là Tôn Đức Thắng); các nữ tu dời về đây, lập trường Nhà
Trắng, tu viện, các cơ sở nuôi trẻ mồ côi, v.v... [Vương Hồng Sển 1969]
([16]) chia gương: Thời Nam Bắc Triều (420-589)
bên Trung Hoa, khi phải ly tán vì loạn lạc, Từ Đức Ngôn và vợ là Lạc Xương cắt
đôi tấm gương soi bằng đồng, mỗi người giữ một nửa, hẹn rằng sau này tìm gặp
nhau, nếu ráp hai mảnh mà ăn khớp thì quả thật chồng vợ đoàn viên. Do tích
này, khi nói đến chia ly, thơ văn viết là chia
gương. / trường đình: Nhà trạm đặt dọc đường đi ở Trung Hoa thời xưa, cứ
mười dặm lại đặt một trạm. Tiễn người đi xa, đến trường đình thì dừng lại, chia tay.
([35]) Bấy giờ
ngoài mười nghị viên người Pháp, Hội Đồng Quản Hạt có sáu nghị viên người Việt
do đại diện các hương chức Nam Kỳ bầu cử. Tiền khai Lê Văn Trung đắc cử liên
tiếp hai khóa, tổng cộng tám năm.
Trong khóa đầu của Lê tiền khai,
có sự kiện Quyền Thống Đốc Nam Kỳ Ernest Outrey đưa ra Hội Đồng dự thảo lục hạng điền (sáu loại ruộng phải đánh
thuế) bất lợi cho nông dân Nam Kỳ. Tiền khai Lê Văn Trung và ông Diệp Văn Cương
(đại diện tỉnh Bến Tre) cùng bốn nghị viên người Việt nữa phản đối, nhưng người
Pháp vì đa số nên thắng thế. Sáu nghị viên người Việt cùng từ chức đồng loạt.
Khóa sau, sáu người tái ứng cử, chỉ đắc năm, còn Hội Đồng Hoài thất cử.
([38]) Bắc Đẩu
Bội Tinh (la Légion d’Honneur) là
huân chương cao quý nhất của nước Pháp, tặng thưởng cho quân và dân, do Hoàng
Đế Napoléon Bonaparte (1769-1821) lập ra năm 1802, chia làm năm hạng từ thấp
lên cao như sau: Chevalier (hiệp sĩ),
Officier (sĩ quan), Commandeur (chỉ huy), Grand Officier (đại sĩ quan), và Grand Croix (đại thập tự).
([39]) Hội
Đồng này ban sơ tên là Conseil supérieur
de l’Indochine (Hội Đồng Tối Cao Đông Dương), thành lập do sắc lệnh của
Tổng Thống Pháp ngày 17-10-1887, cùng ngày thành lập Liên Bang Đông Dương (Union indochinoise). Toàn Quyền Đông
Dương đứng đầu Hội Đồng. Hội Đồng tư vấn cho Toàn Quyền Đông Dương
về ngân sách, thuế khóa, thiết lập các thành phố, các phòng thương mại, các
phòng canh nông, chế độ báo chí… Các nghị viên của Hội Đồng gồm có: Tổng Tư
Lệnh Bộ Binh Pháp ở Đông Dương, Tổng Tư Lệnh Hải Quân Pháp ở Viễn Đông, Tổng
Thơ Ký Phủ Toàn Quyền Đông Dương, Chánh Quan Tư Pháp, Giám Đốc Thương Chánh Và
Độc Quyền, Thống Đốc Nam Kỳ, Tổng Trú Sứ Trung-Bắc Kỳ, Khâm Sứ ở Cao Miên. Khi
Tổng Trú Sứ Trung-Bắc Kỳ bị bãi bỏ (09-5-1889) thì thay vào là Thống Sứ Bắc Kỳ
và Khâm Sứ Trung Kỳ. Khi Lào có chức Khâm Sứ (19-4-1899) thì Hội Đồng có thêm
nghị viên là Khâm Sứ Lào.
Hội Đồng ngưng hoạt động năm
1894. Ngày 03-7-1897 Tổng Thống Pháp ra sắc lệnh tái lập Hội Đồng. Ngày
20-10-1911 Tổng Thống Pháp ra sắc lệnh đổi tên Hội Đồng là Conseil de Gouvernement de l’Indochine (Hội Đồng Chánh Phủ Đông
Dương). Với tên gọi mới này, Hội Đồng có thêm ba nghị viên người bản xứ do Toàn
Quyền chỉ định hàng năm, chọn trong số các thân hào, nhân sĩ (notables) ở Nam Kỳ, Trung Kỳ, Bắc Kỳ và
Cao Miên (mỗi nơi chọn một nghị viên). Đó là lý do tiền khai Lê Văn Trung có
chân trong Hội Đồng Chánh Phủ Đông Dương từ ngày 10-12-1914. Không nên hiểu Thượng Nghị Viện ở Nam Kỳ thuộc Pháp (Cochinchine française) theo nghĩa là một
trong hai cơ quan lập pháp của Quốc Hội
ở một số nước (gồm Thượng Nghị Viện
và Hạ Nghị Viện).
[Huệ Khải 2008a: 13-14]
([49]) Vì
không có con trai nối hậu, tiền khai Bản không khỏi buồn phiền. Đêm Thứ Sáu
12-02-1926 (30 Tết Ất Sửu), trong đàn cơ tại nhà tiền khai trước giờ giao thừa,
Đức Cao Đài an ủi:
Thương
thay trung tín một lòng thành / Chẳng kể quan mà chẳng kể danh / Thiệt thòi bấy
phận không còn nối / Thấy rứa lòng Ta cũng chẳng đành.
([53]) Trong Nhị Kỳ Phổ Độ, Đức Giêsu Kitô cũng chọn mười hai
Thánh tông đồ đầu tiên. Theo Phúc Âm
của Thánh Matthêu (10:2-4), mười hai vị tông đồ gồm có: Simon (Phêrô), ngư phủ;
Anrê (anh ông Simon), ngư phủ; Giacôbê (con ông Dêbêđê); Gioan (em ông
Giacôbê); Philiphê; Batôlômêô; Tôma; Matthêu, nhân viên thu thuế; Giacôbê (con
ông Anphê); Tađêô; Simon (người Nhiệt Thành); Giuđa Ítcariốt (kẻ nộp Chúa).
Theo Sách Công
Vụ Tông Đồ (1:23-26), sau khi Giuđa Ítcariốt tự tử, để cho đủ con số mười
hai, ông Giuse (biệt danh Basaba, cũng gọi là Giuttô) và ông Matthia được đề
cử. Sau khi rút thăm, ông Matthia được chọn để bổ sung vào chỗ khuyết.