Thứ Bảy, 5 tháng 5, 2018

6 KHỔ NẠN VÀ HỒNG ÂN (CON ĐƯỜNG ĐẾN VỚI CAO ĐÀI)



KHỔ NẠN VÀ HỒNG ÂN
NGUYỄN THANH TẢI
Tôi sinh ra trong một gia đình mà cha mẹ tôi đều tu đạo Cao Đài. Cha tôi là Dự Thiện,([1]) mẹ tôi là tín đồ ăn chay sáu ngày vì thế tôi trở thành người tín đồ Cao Đài từ lúc nhỏ. Có phải đây là nhân duyên tôi trở thành môn sinh nhà đạo Kỳ Ba chăng? Và đúng như vậy thì việc giữ đạo và sống đạo ra làm sao?
Tôi xin kể lại những gì đã xảy ra trên đoạn đường đời mà tôi đã trải qua.
Nhớ lại lúc nhỏ, mỗi lần cha tôi đi Thiên Bàn ([2]) hay thánh thất tôi được cha dẫn theo tập lễ bái, học kinh, học cúng, tôi trở thành đồng nhi lễ năm mười hai tuổi.
Chiến tranh ập về, màn đen bao trùm phủ kín cả cuộc đời tôi. Cha tôi ra đi vào một buổi mai trời đổ mưa rả rích, gió đông lạnh với bộ cánh màu chàm đã cũ, và choàng một tấm vải mưa màu xanh lá cây vừa tới lưng quần, theo sau có hai người cầm vũ khí. Họ nói rằng cha tôi được đưa đi cải tạo. Lúc ấy, tôi chẳng biết cải tạo là gì nhưng kể từ đó cha tôi không trở về nhà nữa. Mấy năm sau có người đến báo rằng cha tôi đã chết vì bệnh thủng.
Ba mẹ con ôm nhau khóc... Thế là mẹ tôi mất chồng, anh em tôi mồ côi cha. Mẹ tôi vò võ nuôi hai chúng tôi. Em tôi nhỏ hơn tôi ba tuổi. Mẹ thay cha làm lụng vất vả để có cái ăn cái mặc cho gia đình. Đêm phải ngủ hầm, có ngày phải chạy hai, ba lượt để trốn máy bay. Sống trong chiến tranh là vậy, lúc nào cũng nơm nớp sợ hãi, lo âu vì bệnh tật, đạn bom, chết chóc.
Thế mà cái sợ hãi đó cũng chẳng tránh khỏi. Một buổi sáng tháng Chín, tôi đi chăn bò trên núi, thì biến cố gia đình đã xảy ra. Mẹ tôi phải bỏ lại chúng tôi vì một trận pháo dữ dội. Nhà nát tan, mẹ tôi trúng mảnh pháo vào chỗ quá nghiệt nên đột ngột từ giã cõi đời. Khi tôi chạy về thì hỡi ơi, nhà tan, mẹ chết, cảnh đau thương lên đến cùng tột! Tôi chỉ biết khóc, dỗ em tôi, còn bà con năm, bảy người chạy tới trong hoang mang, sợ hãi, an ủi chúng tôi và lo hậu sự cho mẹ tôi. Mẹ tôi đi vào lòng đất lạnh với bốn mảnh ván mà anh em tôi thường nằm, lúc này ghép lại làm chiếc quan tài mà không có mảnh vải nào quàng lấy mảnh thân.
Mẹ tôi không còn nữa, cảnh mồ côi lại chồng lên đầu anh em tôi. Từ đó anh em tôi sống với gia đình vị Chánh Trị Sự ở cạnh xóm. Tôi về lập một bàn thờ để thờ mẹ tôi trong một góc nhà hoang nát theo hướng dẫn của vị Chánh Trị Sự xã đạo. Anh em tôi nấu cơm cúng mẹ tôi hằng bữa. Tôi về thánh thất cúng cửu. Suốt chín tuần cửu, anh em tôi ăn chay tám mươi mốt ngày để báo hiếu.
Một biến cố nữa lại xảy đến. Giữa trưa tháng 11 năm 1967, khi chúng tôi chuẩn bị bữa cơm trưa thì bỗng có tiếng súng nổ gần. Mọi người chạy trốn, nói: “Có càn quét!” Vì quá sợ, thấy người chạy, tôi cũng chạy. Em tôi là con gái yếu ớt, có người bảo đừng chạy, hãy ở nhà. Em tôi vâng lời.
Lính hành quân ập vào. Nhà còn lại hai con bò mà cha tôi giữ rẽ để kiếm lời nuôi chúng tôi, họ đã dắt đi, lại còn bắt em tôi đi luôn về căn cứ quân sự ở trung tâm huyện lỵ cách xa mười mấy cây số.
Khi im tiếng súng, tôi theo mọi người về lại nhà thì bò cũng như em tôi đã đi xa. Vì thương em, tôi quyết định đi tìm em. Cách đó mấy ngày sau, tôi phiêu lưu băng bộ hướng đến căn cứ quân sự theo người ta chỉ bảo. Một ngày ròng rã, tôi tìm tới nơi, ngỡ rằng sẽ gặp được em mình nào ngờ lại bị bắt nhốt vào trại. Họ cho rằng tôi nghe lời cộng sản. Họ tra hỏi đủ điều nhưng thấy tôi thật tình và thơ ngây nên ba ngày sau được thả tự do nhưng vẫn ở trong căn cứ phục vụ quét dọn, sai vặt...
Thời gian ở đây, ăn uống rất thoải mái, có đủ các loại thịt, cá, cơm trắng... Nhưng bữa nào tôi cũng xin xì dầu ăn cơm, nếu không có xì dầu thì tôi xin muối hầm. Thấy vậy có người hỏi, tôi trả lời là ăn chay tám mươi mốt ngày theo đạo Cao Đài để báo hiếu cho mẹ. Nhiều người bảo hãy ăn thịt cá vào, đừng nghe theo tầm bậy... Nhưng tôi vẫn thế, hết ngày này qua ngày khác.
Một buổi sáng, có một người cao cao dáng gầy, mặc bộ quân phục rằn ri đến gặp tôi và bảo rằng vài hôm nữa sẽ được ra khỏi căn cứ và về làm con nuôi người đạo Cao Đài. Lúc này tôi chẳng biết nói gì, chẳng biết vui hay buồn, mừng hay lo lắng. Điều tôi quan tâm là làm sao gặp em tôi, và tìm lại bò để đem về. Tôi quay mặt bước đi, đôi mắt rưng rưng, nước mắt chảy ròng ròng xuống đôi môi nghe mằn mặn...
Đêm hôm sau, khi ăn cơm tối xong, tôi được gọi đến một phòng nhỏ gặp một người lính to cao mặc quân phục, oai vệ nói giọng Huế. Ông bảo: “Ngày mai cho ra trại.” Vốn sợ sệt, tôi vòng tay chỉ biết “dạ” mà không có một lời nào khác. Tôi ra khỏi phòng, về lại chỗ ngủ thao thức mãi rồi không biết ngủ thiếp khi nào.
Khi tôi thức dậy, ánh sáng mặt trời đã chiếu qua các ô cửa của phòng. Người lính gặp tôi hôm nọ với chiếc xe đạp dàn đầm dựng phía ngoài cửa. Thấy tôi, anh vội bước vào nắm tay tôi dắt ra và nói: “Hãy theo anh!” Tôi ngoan ngoãn bước theo và lên xe mà không biết mình sẽ đi về đâu...
Anh chở tôi tới một ngôi nhà, trước cổng ngõ có tấm bảng hiệu kẽ chữ đỏ: Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ. Hội Thánh Truyền Giáo Cao Đài. Anh bảo: “Nhà mình đây!”
Tại đây, tôi gặp hai ông bà hiền từ, mặc bộ đồ trắng vui vẻ hỏi mấy câu: “Cha mẹ thế nào? Con năm nay bao nhiêu tuổi ? Anh chị em như thế nào?...” Tôi lần lượt trả lời trong lo âu, bối rối.
Nhưng rồi tôi cũng quen dần, thích nghi dần với nếp sống tại đây. Tôi được chỉ bảo các công việc cụ thể như quét dọn sân nhà, nấu nước cúng, soạn cúng, đánh chuông cúng. Tôi gọi hai ông bà bằng bác. Ai vào thấy tôi, hay hỏi: “Cháu nào đây?” Ông bà nói là con nuôi. Ông bà ăn chay trường vì là Chánh Trị Sự. Đến bữa tôi ngồi ăn chung với ông bà. Thấy vậy, ông hỏi: “Con ăn chay theo hai bác có nổi không?” Tôi đáp: “Thưa bác, con ăn chay tám mươi mốt ngày cho mẹ. Con ăn nổi.”
Từ đó tôi được gia đình quý mến như con trong gia đình và tôi cũng chăm lo hoàn thành các công việc được giao. Tôi được bà may cho bộ đồ lễ. Thỉnh thoảng tôi được ông dẫn đi chùa cúng cầu siêu. Tôi thường theo sau và tay xách chiếc cặp da.
Ngày chung cửu của mẹ tôi gần đến, tôi rất lo lắng và buồn. Đôi lúc tôi khóc một mình vì không biết phải làm sao. Thấy vậy ông hỏi. Tôi bèn trình bày đầu đuôi câu chuyện...
Sáng hôm ấy là ngày 17 tháng 9 năm 1968, ông bảo tôi: “Ngày mai ra thánh thất cúng cửu cho mẹ con và sẽ gặp em con luôn ở đó.” Tôi mừng run lên và “dạ” mà không biết thực hư sẽ như thế nào. Đêm hôm ấy tôi ngủ không được. Thời gian sao mà dài hơn mọi đêm! Tôi trông trời sáng.
Tôi nằm mơ màng, bỗng nghe có tiếng người đi ngoài đường. Tôi vùng dậy đi đánh răng, súc miệng, thực hiện một số công việc như mọi ngày đâu vào đó. Ông gọi, bảo: “Chuẩn bị rồi đi.” Tôi dạ.
Ông đi trước. Tôi theo sau, xách chiếc cặp như thường lệ, đi một mạch đến thánh thất. Có năm, bảy người đã ở đó. Kẻ nấu ở bếp, người dọn ở nhà Báo Ân, người ở nhà thánh. Ở chính giữa nhà Báo Ân kê một cái bàn thấp hơn có bày hoa quả. Tôi nhìn trong ngoài, tìm kiếm trên dưới. Tôi thấy chẳng có chút nào hy vọng gặp lại em tôi như ông nói hôm qua.
Tôi đang suy nghĩ bỗng từ ngoài cổng có hai người đi vào, một già, một trẻ. Người tôi biết chính xác là em tôi, vẫn dáng nhỏ, gầy. Vừa thấy tôi, em vội chạy tới trước, ôm lấy tôi và khóc nức nở. Tôi cũng không cầm được nước mắt. Mọi người nhìn thấy, ai cũng cảm động.
Khi hỏi ra mới biết em tôi được người cháu của bà Phó Trị Sự là một quân nhân đem về làm con nuôi, nhưng khi biết tình cảnh em tôi là người đạo, bà đã xin về ở cùng bà vì bà không con.
Hai anh em tôi quỳ cúng nơi Điện Thầy qua lễ chung cửu, rồi cúng vong tại nhà Báo Ân. Lòng tôi thấy nhẹ nhõm và hạnh phúc vô cùng vì tôi nhận ra rằng chỉ có môi trường sống cùng anh em đồng đạo mới được như vầy. Rồi lễ cúng tiểu tường, đại tường cũng diễn ra như thế.
Cách một năm sau, tôi được bác lập khai sinh lại và làm giấy tờ hợp lệ cho tôi vào trường, học lớp Năm. Tôi vui mừng. Ở trường tôi ra sức học tập, ở nhà tôi ra công làm việc chăm chỉ.
Sự êm ả đó chẳng được bao lâu. Đầu năm 1972 chiến sự diễn ra ở Tiên Phước.([3]) Những quả đạn pháo nổ chát chúa, cảnh hoảng loạn ập đến với mọi người nơi đây. Gia đình ông bà gồm năm người trong đó có tôi phải gồng gánh chạy bộ, leo đèo vượt núi với quãng đường hai mươi lăm cây số xuống Tam Kỳ ([4]) lánh nạn cùng mọi người.
Đạo hữu Cao Đài được tập trung về thánh đường Quảng Tín ([5]) và được sự giúp đỡ của tỉnh đạo Quảng Tín, đứng đầu là Giáo Sư Thái Phẩm Thanh. Chúng tôi ăn ở tại đây hơn một tháng thì quê hương Tiên Phước tạm yên tiếng súng, cảnh an bình được lập lại. Gia đình hai ông bà trở về quê cùng mọi người, riêng tôi quyết định xin ông bà ở lại tại tỉnh đạo lập công tu học. Được ông bà chấp thuận, nhất là bác Giáo Sư thương tình giúp đỡ, tôi yên tâm sống và làm việc tại đây. Một buổi làm ở tại trại gỗ, xẻ gỗ, bốc gỗ, bán gỗ cùng một số anh em. Một buổi tỉnh đạo cho đi học văn hóa tại trường tư thục Hưng Đạo. Thời gian còn lại lo cúng kính tu học.
Sau tháng Tư năm 1975, hầu hết những người trong tỉnh đạo xin về quê sinh sống. Cuộc sống ở đây khó khăn dần, bởi ruộng đất bị chính quyền trưng thu, trại gỗ ngưng hoạt động. Một số anh em tình nguyện ở lại trong đó có tôi, sáng ra cùng bác Giáo Sư với chiếc xe bò chở cuốc xẻng, thức ăn cộc cạch kéo lên tận khu vực nghĩa địa ở Tam Thái vỡ đất trồng khoai, đậu. Chiều tối mới về tỉnh đạo.
Thời gian này nơi quê nhà, em tôi đang sống với bà cô ruột tuổi đã bảy mươi, cuộc sống quá khó khăn, làm hợp tác, ăn công điểm. Buộc lòng tôi phải về quê sinh sống giúp đỡ cô và em tôi. Nhờ vào mảnh vườn có chè, thơm, mít, mấy sào đất trồng khoai củ, cái ăn cái mặc dần dần tạm ổn. Tôi quyết định tiếp tục học lại chương trình lớp Mười Một đang dang dở, và tôi đã tốt nghiệp phổ thông trung học năm 1980. Sau đó tôi lấy vợ, cũng người đạo Cao Đài, làm cô giáo.
Vợ đi dạy, chồng làm nông nuôi con nhỏ, cuộc sống đời thường khó khăn, bận rộn. Với vai trò Trưởng Ban Phổ Tế tại họ đạo Khánh Vân,([6]) tôi còn thêm phần sinh hoạt đạo sự vào các ngày sóc vọng, cầu siêu, tang tế.
Thời gian này, vợ chồng tôi sinh được hai con trai. Năm 1983 cô tôi qua đời với phẩm vị Phó Trị Sự.
Một biến cố lớn lại xảy đến với chúng tôi. Vào buổi trưa 17 tháng 7 năm Ất Sửu (1985) một trận hỏa hoạn đã thiêu rụi toàn bộ gia sản của chúng tôi, nhưng ân phước lớn là hai con nhỏ của chúng tôi thoát nạn.
Chúng tôi lại trắng tay. Vợ tôi hằng đêm ôm con khóc nhiều. Bà con hàng xóm thương tình, kẻ cây tre, người tấm tranh đem đến, che lợp cho chúng tôi một túp lều đủ kê một chiếc giường cho bốn chúng tôi trú nắng mưa qua cơn khốn khổ. Đạo hữu, bạn bè cũng xót xa chia sẻ, an ủi. Kẻ nắm gạo, người chiếc nồi, chén, đũa.
Điều xúc động nhất mà mỗi lần nhắc tới tôi đều không cầm được nước mắt. Đó là hình bóng bác Giáo Sư Thái Phẩm Thanh đến thăm chúng tôi giữa tiết trời tháng 7 nóng bức với chiếc xe đạp dàn đầm sơn màu trắng. Trên xe bác chở một can dầu phộng cỡ năm lít và một cái bao lát trắng đựng mấy chục lon gạo để cho tôi.
Tôi ngỡ ngàng cảm động tiếp bác trong cảnh hoang tàn đổ nát vì lửa không có chỗ ngồi. Nắm lấy tay tôi, với giọng ấm áp, ôn tồn, bác trìu mến bảo: “Mọi việc đều có Thầy sắp xếp, con ráng tu.”
Tôi cúi đầu dạ và thấy cổ họng mình nghẹn ngào, thấy lòng mình dịu mát dù giữa tiết trời nóng bức. Nghẹn ngào vì sự quan tâm của một anh lớn đối với một em nhỏ, khi nghĩ lại mình chưa có công đức gì. Nghe lòng dịu mát vì bàn tay mát rượi của bác, giọng nói hiền từ, ánh mắt thân thương của bác đi vào tận đáy lòng. Bác quay ra không kịp nghỉ, chỉ uống một ly nước chè xanh, rồi ra về với chiếc xe đạp, phải vượt qua gần ba mươi cây số.
Thế là tất cả phải làm lại từ đầu. Năm tháng qua đi, vượt qua những nỗi khổ, sống nhờ vào đồng lương của vợ, ngày đêm tôi vừa ra sức lao động làm ra của cải vật chất, vừa ra sức tu học theo lời dặn dò của bác Giáo Sư để nuôi dưỡng tinh thần, cộng với sự giúp đỡ của bà con, bạn bè, đạo hữu.
Ba năm sau tôi đã làm lại nhà chính bằng gỗ, xây gạch, nhà bếp bằng tre có nơi ăn chốn ngủ. Tôi bàn với vợ phải thờ Thầy; vợ tôi đồng ý. Thế là nhà tôi thờ Thầy từ năm 1988; tôi nguyện ăn chay mười ngày mỗi tháng.
Hai năm sau, tôi thọ Tướng Châu vì lúc ấy không truyền Linh Châu. Tôi chẳng hiểu vì sao; ở họ đạo tôi, ai cũng vậy. Sau đó, tôi được họ đạo cử đi tham gia học lớp Hưng Đức I tại Trung Hưng Bửu Tòa. Sau ngày tốt nghiệp tôi được nhân sanh thương yêu tín nhiệm, Hội Thánh tin dùng nên tôi được cử làm Chánh Trị Sự và bầu vào Ban Cai Quản lần thứ hai, làm Trưởng Ban Phổ Tế của họ đạo.
Tôi còn kiêm nhiệm Chánh Trị Sự xã đạo Đồng Nga - Tả Lâm. Tại đây bổn đạo chỉ vỏn vẹn mười gia đình, nhưng tôi đã cùng mọi người ra công góp sức xây dựng được ngôi nhà cấp bốn để làm nhà thánh hầu bổn đạo có nơi thờ phượng, lễ bái.
Năm 2016, tôi được họ đạo cử đi tham gia học lớp Hưng Đức hệ Hoằng Giáo. Hiện nay tôi đã nguyện trường trai. Với nguyện vọng tham gia hành đạo, tôi tham gia hàng ngũ Phổ Tế điều phối tại Quảng Nam.
Vợ tôi đã nghỉ hưu, thọ Tướng Châu, ăn chay mười ngày mỗi tháng, được nhân sanh đề cử làm Chánh Trị Sự xã đạo Đồng Nga - Tả Lâm, kiêm nhiệm Thư Ký Văn Phòng Nữ Phái và là Thủ Quỹ của họ đạo. Vợ tôi còn được tham gia vào đoàn Phổ Tế Lưu Động của Hội Thánh và cũng được Ban Đại Diện Hội Thánh tại Quảng Nam mời tham gia đoàn Phổ Tế theo chương trình điều phối công tác Phổ Tế.
Các con tôi đã trưởng thành. Cả ba đều tốt nghiệp đại học, ra trường có công việc làm ổn định, dù đi làm xa nhưng quy giới vẹn gìn. Một điều đáng mừng nhất là các con, các cháu nội của chúng tôi đều được thực hiện đúng theo pháp Đạo: sinh nhật, tắm thánh, thành nhân... Các con tôi sống và làm việc giữa thời kỳ vật chất câu nhử nhưng không sa ngã, hư hỏng.
Kể lại câu chuyện rất thực trên đây, tôi vẫn chưa nói hết được những ngõ ngách của quá trình bản thân giữ đạo và sống đạo, với những nỗi buồn, những niềm vui của một thời đã sống. Nhưng dù thế nào đi nữa, tôi vẫn hạnh phúc vì tôi là người có nhân duyên với đạo Cao Đài, đã vượt qua biết bao thử thách. Bây giờ tôi vẫn sống, trên có Thầy, dưới có vòng tay thương yêu của đồng đạo. Cuộc đời tôi mai sau dài ngắn thế nào, dẫu còn thử thách thế nào đi nữa, tôi vẫn tâm nguyện:
Mặc cho ma quỷ cản ngăn,
Thân này hiến trọn quyền năng ở Thầy.([7])
NGUYỄN THANH TẢI
NÓI THÊM
Hồi ức trên đây đăng Sống Đạo, tập Đinh Dậu 2017-6, tr. 35-41, do Hội Thánh Truyền Giáo Cao Đài ấn tống, liên kết Nxb Tôn Giáo (Hà Nội 2017).
Con đường đời vốn không suôn sẻ của huynh Nguyễn Thanh Tải rốt cuộc đã làm chứng cho lời dạy của Đức Bảo Pháp Chơn Quân Huỳnh Chơn (14-7-1973): Lòng con tin Đấng Cao Đài / Đạo đời Trời sẽ an bài cho con.




Huệ Khải chú thích:
([1]) Cơ Quan Phước Thiện của Hội Thánh Truyền Giáo Cao Đài có chín phẩm từ thấp lên cao như sau: Dự Thiện, Thính Thiện, Hành Thiện, Giáo Thiện, Phục Thiện, Đạt Thiện, Thuần Thiện, Chơn Thiện, Chí Thiện.
([2]) Mỗi họ đạo thuộc Hội Thánh Truyền Giáo Cao Đài có các xã đạo. Mỗi xã đạo (đứng đầu là Chánh Trị Sự) có một thánh xá. Trước kia, miền Trung còn nhiều khó khăn, ít người lập được Thiên Bàn thờ Thầy tại nhà, vì vậy đạo hữu thường tập trung về Thiên Bàn của thánh xá trong xã đạo để lễ bái. Khi ấy, đạo hữu quen nói tắt là về Thiên Bàn.
([3]) Nay là một huyện phía Tây tỉnh Quảng Nam.
([4]) Bấy giờ là một quận thuộc tỉnh Quảng Tín; nay là thành phố thuộc tỉnh Quảng Nam.
([5]) Nay là Thánh Đường Quảng Nam nhưng dòng chữ ở mặt tiền vẫn giữ nguyên là Thánh Đường Quảng Tín.
([6]) Tại thôn Tiên Bình, thị trấn Tiên Kỳ, huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam.
([7]) Đức Tổng Lý Hưng Đạo, thánh thất Ngọc Linh Đài, ngày 02-5 Mậu Tuất (Thứ Tư 18-6-1958).

 Quý đạo hữu gần xa muốn nhận các kinh sách do Chương Trình Chung Tay Ấn Tống Kinh Sách Đại Đạo xuất bản, được gởi biếu qua bưu điện, xin vui lòng gởi e-mail về: daidaovanuyen@gmail.com
Và xin quý đạo hữu hoan hỷ trả giúp cước phí cho bưu điện ngay khi nhận được sách biếu.
Ban Ấn Tống trân trọng cảm ơn quý đạo hữu.