TÔI VÀO ĐẠO CAO ĐÀI
KHA
CHƠN TÂM
I. CĂN TU
Tôi được sinh ra ở ngoài Bắc Việt (Hà Nội) trong gia
đình không có đạo gì ngoài đạo thờ cúng ông bà, cha mẹ đã từ trần.
Thế mà khi còn nhỏ, lúc ấy lối mười một hay mười hai
tuổi, một hôm tôi ngồi nghe có chị vú ru em hát hai câu này:
Chữ rằng nhất
nhật tu thân
Mấy kiếp phong
trần rũ sạch như không.
thì lòng tôi bỗng xúc cảm vô cùng và hai câu ấy đã ngân nga mãi trong
tâm hồn non trẻ của tôi lúc bấy giờ, chẳng khác nào tiếng chuông chùa trong lúc
bình minh làm giựt mình kẻ mê danh mến lợi triền miên như trong câu thơ:
Thoảng bên tai
một tiếng chày kình
Khách tang hải
giựt mình trong giấc mộng.
của ông Nghè Chu Mạnh Trinh trong bài hát nói đi viếng Chùa Hương
Tích.(1)
Lớn lên, vào lúc tuổi thanh niên, lâu lâu tôi lại
thích ăn chay một bữa cho tinh thần sảng khoái và có lần đã lên núi Tản tầm
Tiên, nhưng đi vài bữa lại trở về ngay với đời sống phàm tục.([1])
Do đó nhiều người quen biết với gia đình tôi đã bảo
“thằng Kha này có căn tu” tức là có gốc tu hành đem lại từ kiếp trước.
Tôi được vào đạo Cao Đài nhờ nhạc mẫu tôi. Từ khi bà
nhập môn Cao Đài Giáo hồi đầu năm 1938 thì lâu lâu bà lại từ Cà Mau lên Sài Gòn
thăm vợ chồng tôi và cố gắng độ chúng tôi.
Bà thường đem theo những bài thánh giáo do Đấng thiêng
liêng giáng cơ dạy đạo để chúng tôi nhờ đó mà thức tỉnh lòng trần còn lắm mê
muội. Nhưng hỡi ôi! Nghiệp chướng của chúng tôi khi ấy còn quá nặng nề nên lời
Tiên tiếng Phật quý báu chưa làm sao cải hóa được chúng tôi mà lôi kéo về chốn
thiền môn, thánh thất.
Thật ra cũng tại thánh giáo đầu tiên mà nhạc mẫu tôi
đem đến là thánh giáo của ông Tề Thiên Đại Thánh giáng cơ thành thử tôi không
coi, cho rằng Tề Thiên Đại Thánh chẳng qua là một ông Thánh tưởng tượng mà
người ta bịa đặt ra trong truyện Tây Du chớ làm gì có thật.([2]) Cho nên tôi không
tin nổi và cũng chưa có ý nhập môn vào Đạo của nhạc mẫu tôi. Nhưng sự tu hành
thật ra đều do tiền định của trời đất, tùy theo nhân duyên từ kiếp trước của
mỗi người. Chừng nào đến thời kỳ tu hành mới có thể được tiếp dẫn vào đường
chính đạo của Ơn Trên.
II. GẶP ĐẠO CAO
ĐÀI
Thời kỳ ấy đến với tôi vào lúc chạy giặc từ Sài Gòn
về Cà Mau hồi tháng 11 dương lịch năm 1945, khi (…) quân đội thực dân Pháp trở
lại Việt Nam gây nên một biến cố hãi hùng. Tại tỉnh lỵ Cà Mau,([3]) nhạc gia tôi có
một cái nhà kiểu tây khá lớn cất bên nhà máy xay lúa Nam Hiệp Thanh cũng của
ông nhạc tôi và nơi ấp Cây Giá cách xa tỉnh lỵ mười cây số, lại có một cái nhà
mát cất ở trong điền gần chùa gọi là thánh tịnh Hắc Long Môn.([4]) Chùa này là chùa
Cao Đài thờ Đức Thượng Đế Chí Tôn do ông nội vợ tôi cất lên và hiến dâng cho
Đạo để làm chỗ chiêm ngưỡng Trời Phật Thánh Thần cho dân chúng địa phương.
Khi tôi chạy giặc về nhà vợ thì trước hết tá túc ở
tại tỉnh lỵ Cà Mau, sau lại phải tản cư về trong ruộng tại căn nhà mát ấp Cây Giá
vào lúc đầu trung tuần tháng Mười âm lịch năm Ất Dậu (1945).
Rất may thay, chiều hôm đến ấp Cây Giá thì bà nhạc
mẫu tôi bảo tối nay trên chùa có lập đàn cơ vì bộ phận thông công mới được Ơn
Trên sai xuống từ quận Tam Bình (Vĩnh Long) đến thánh tịnh Hắc Long Môn lập đàn
dạy đạo cho nhơn sanh vào giờ Tuất tức là tám giờ tối.
Chúng tôi được bà dắt xuống chùa chào hỏi các vị chức
sắc cùng chư đạo hữu và sau đó để hầu đàn.
Đến giờ lập đàn cơ, đồng tử Huệ Vân là một thanh niên
trạc hai mươi bốn, hai mươi lăm tuổi, khăn trắng, áo choàng trắng có cột sợi
dây sắc lịnh chững chạc, vào chánh điện ngồi đồng tiếp điển Thiêng Liêng.
Bộ phận thông công gồm có một ông pháp đàn, quỳ sau
đồng tử với một vị độc giả cũng khăn áo chỉnh tề đứng gần đồng tử và hai vị
điển ký, tất cả đều được Đấng thiêng liêng chuyển từ Tam Bình (Vĩnh Long) xuống
đây để hành sự và mới tới hồi xế chiều.
Khi đến giờ lập đàn, đồng tử ngồi nâng cần cơ chí
trán và ngồi xoay mặt vào Thiên Bàn là nơi thờ Trời, trong khi đó các vị trong bộ
phận Hiệp Thiên Đài đến đọc bài cầu Tiên với một giọng rất êm đềm, du dương.
Đọc gần hết bài cầu thì đồng tử nhắm mắt mê man tiếp
điển Thiêng Liêng và múa cần cơ gõ xuống mặt bàn để trước mặt và viết rất mau.
Một lát sau vị đứng trước bàn đồng tử làm phận sự độc giả mới đọc ra chữ thì
mọi người đều chăm chú lắng nghe mới biết có Đấng thiêng liêng là Đức Lý Đại
Tiên Trưởng Thái Bạch Kim Tinh Giáo Tông Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ giáng cơ dạy đạo
cho các môn đồ. Tức thì tiếng chuông boong boong nổi lên chào mừng Đức Đại Tiên
Trưởng và tất cả mọi người có mặt ở trước chánh điện đều phủ phục xuống lạy
chào.
Đó là lần đầu tiên tôi được mục kích cuộc cầu cơ
trong đạo Cao Đài cho nên tôi rất chú ý xem xét cử chỉ của mọi người hầu đàn,
thấy ai ai cũng có vẻ rất thành kính và đồng tử cầm ngọn cơ viết rất mau trên
mặt bàn, đồng thời độc giả cũng cất tiếng đọc lia lịa rất mau.
Dạy các môn đồ một lát, Đức Đại Tiên Trưởng ngừng lại,
ra lịnh cho nhóm điển ký chép đàn cơ đọc lại từ đầu cho tất cả đều nghe, thì
tôi mới nhận ra đầu tiên là một bài thi bát cú quán thủ xưng danh hiệu như sau:
THÁI quá e cho
phải lụy mình
BẠCH tâm chiêm
nghiệm mấy lời minh
KIM thành ắt phải
dày công gắng
TIN(H) chắc khổ
đây ráng giữ mình
GIÁN(G) đoạn tại
trò gây gián đoạn
HẮC lưu cô quạnh
thất hồi kinh
LONG đong vắng vẻ
người xa bóng
MÔN đệ vì ai lắm
tệ tình.
Rồi tiếp đến lời dạy bằng văn xuôi, đại ý Đức Thái
Bạch Kim Tinh dạy đến một ngày kia Ơn Trên chuyển cơ thử thách trong đạo Cao
Đài để khử trược lưu thanh thì chừng đó mới rõ chơn giả, biết bao nhiêu kẻ sẽ
bỏ Đạo theo đời, tưởng Đạo Thầy sẽ không đi đến đâu... ai dè Đạo ấy mới thật là
cái cầu độ chúng cứu người hiền lương sau này.
Sau khi đàn cơ tiếp tục trong mấy tiếng đồng hồ với
những điểm danh cá nhân hàng mấy chục người, Đức Thái Bạch Kim Tinh bỗng gọi
tên tôi và ban cho một vé bốn câu như sau:
KHA hiền đệ giúp
cho cơ Đạo
Lời kêu ca của
Lão đây cùng
Hắc Long phận sự
hành chung
Lo bề đạo đức,
thẳng dùn mặc ai.
Đó là Ngài có ý dạy tôi phải vào đạo Cao Đài để lập
công bồi đức.
Thấy tôi được điểm danh, nhạc mẫu tôi mừng lắm bảo:
“Vậy thì sáng mai là ngày rằm tháng Mười âm lịch tức là một ngày rằm lớn, má sẽ
nói với ông Phối Sư Giác làm lễ nhập môn vào đạo Cao Đài cho con để giúp Đạo
theo lịnh của Đức Giáo Tông.”
III. NHẬP MÔN ĐẠO
CAO ĐÀI
Sáng hôm rằm làm lễ nhập môn, khi ông Phối Sư Giác
hỏi tôi xin ăn chay tháng mấy ngày thì tôi trả lời: “Dạ thưa ông, con không
biết ăn chay vì chính sáng hôm nay con cũng đã qua bên chợ điểm tâm bằng bánh tằm
xíu mại rồi.” Nhưng ông Phối Sư cho biết vào đạo Cao Đài ít nhứt là phải ăn
chay một tháng sáu ngày và nếu hôm nay nhập môn đã lỡ ăn mặn rồi thì đến ngày
chay kế tiếp là ngày 23 phải bắt đầu ăn chay đúng đắn, giữ đúng thể lệ trai
giới mới đặng, không thì mang tội và Thần Thánh không chứng cho mình là người
thật tâm tu hành.
Vì thế, bất đắc dĩ tôi phải xin lập thệ ăn chay sáu
ngày mỗi tháng là mồng một, mồng tám, mười bốn, rằm, với ngày hai mươi ba và ba
mươi tức là ngày cuối tháng. Sau đó vì sợ “ăn chay kỳ” như thế thì khó giữ cho
đều đặn vì ưa quên ngày âm lịch, sợ mang tội thất tín với Ơn Trên, nên tôi
quyết chí đại hùng ăn phứt trường chay và tự lý luận rằng từ nhỏ tới lớn mình
ăn đồ thịt cá cũng nhiều rồi không còn thèm thuồng gì nữa, vả lại dù ăn chay
chưa quen thì chỉ cần nhắm mắt cố nuốt vào bao tử cho xong thì ngon hay không
ngon cũng vậy thôi. Nhờ cương quyết mới ăn chay nổi một tuần lễ thì đã ngán
ngược. Nhưng chừng ấy nếu mình bỏ chay ăn mặn lại thì rất uổng, huống hồ đã có
được một thành tích bảy ngày chay liên tiếp thì quý lắm, vậy cố gắng thêm lên ít
ngày nữa may ra nó cũng quen.
Thế rồi chẳng bao lâu sau, sự cương quyết càng ngày
càng cứng rắn, rồi ăn được một tháng chay, lần lần ba tháng, bốn tháng. Khi ăn
được sáu, bảy tháng thì thân thể tôi bị ghẻ lở ghê gớm và tôi biết đó là Tạo
Hóa giúp cho tôi tẩy trược cái thân phàm tục cho nó bớt nặng nề, u mê để tiếp
được điển lành cho tinh thần trở nên thanh tịnh sáng suốt.
Lối trên một tháng mới hết ghẻ lở, dơ dáy thì tôi
thấy trong mình nhẹ nhàng khỏe khoắn hơn khi trước và nhờ vậy sự học hành thánh
giáo kinh kệ càng thấy mở mang sự hiểu biết sáng suốt.
Qua đầu năm 1946, tôi được đi theo anh lớn Đầu Sư
Nguyễn Phú Thứ sang Tòa Thánh Hậu Giang Minh Chơn Đạo ở Giồng Bốm để thăm ông
Bảo Đạo Cao Triều Phát, lúc ấy đang tập trung các thanh niên đạo đức Hậu Giang
làm lực lượng Cao Đài cứu quốc chống giặc Pháp thường đem binh đốt phá các chùa
Cao Đài (…). Khi ông Đầu Sư cùng tôi đến làm lễ trên chánh điện thì bỗng nhiên
có một em đồng tử đang quỳ cúng với tôi được điển Thiêng Liêng nhập vào làm cho
khai khẩu nói lên những lời của Ơn Trên cho biết là có Đức Quan Thánh Đế Quân
giáng dạy cho ông Đầu Sư một vé bốn câu và cả cho Kha tức là tôi, một bài như
sau:
Khả dĩ tiền đồ
học đạo gương
Tùng Thiên huờn
mạng hiệp chung đường
Đạo Thầy tô điểm
lần soi tỏ
Ghi tạc nguyền
xưa hẳn thạnh bường.
Rồi tiếp theo đó Đức Quan Thánh lại ban cho tôi bài
thi bát cú dạy đạo như sau:
Ánh trăng rạng tỏ
giữa dòng khơi
Giác ngộ trần ai
sớm tỉnh đời
Bể khổ đeo chi mà
lặn hụp
Sông mê mến tiếc
phải chơi vơi
Kỳ cùng toan liệu
còn hai, một
Buổi chót lần
sang, ít kẻ rời
Bỏ quách nợ trần
ràng buộc trói
Được lần cảnh tạm
thấy chiều mơi.
Sau đó một thời gian ngắn, giặc Pháp đem đại đội thủy
lục không quân đánh vào nơi Tòa Thánh Giồng Bốm ở đây. Quân đội Cao Đài dùng kế
phục binh chống trả kịch liệt từ sáng sớm tới gần xế chiều mới rút đi. Giặc
tràn vô phá tan chùa chiền và căn cứ bộ đội.
Hắc Long Môn là chùa của chúng tôi hành đạo chỉ cách
xa Tòa Thánh Giồng Bốm chừng sáu bảy cây số theo đường thẳng chim bay, nên nghe
rõ mồn một tiếng súng đại bác và bom nổ không ngớt từ sáng cho đến quá trưa.
Tuy nhiên khi quân Pháp tràn được vô chùa thì ông Cao Triều Phát và quân đội
của ông đã chạy thoát; chúng không hề tóm bắt được ai cả.
KHA CHƠN TÂM
► NÓI THÊM
Hồi ức trên đây trích trong Đại Đạo Văn Uyển, Tập Hanh (số 14), tr. 99-108, do Chương Trình
Chung Tay Ấn Tống Kinh Sách Đại Đạo thực hiện, liên kết Nxb Tôn Giáo (Hà Nội:
2015).
Tiền bối Nguyễn Triệu Kha (thánh danh Chơn Tâm) sinh
ngày Thứ Ba 03-3-1908 (01-02 Mậu Thân) tại Hà Nội. Sinh thời, tiền bối viết
nhiều, và lắm lúc ký tên Kha Chơn Tâm. Đây cũng là một tên thánh, được Đức Đông
Phương Lão Tổ (Chưởng Quản Vô Vi Hiệp Thiên Đài) dạy rõ trong bài thánh thi ban
cho tiền bối như sau:
KHA CHƠN TÂM danh tòa Thiên sắc
Của Thầy ban ghi
chặt bên trong
Đạo tâm hiền đệ
ghi lòng
Đáng khen tấc dạ
gương trong soi cùng.
Bậc trượng phu
anh hùng đúng phận
Khổ chẳng nài lận
đận nào than
Hiền ôi! Đối với
tim vàng
Của hiền quý hóa
xứng trang con Thầy.
Cố gắng thêm đoạt
ngày vui sướng
Tâm hồn hiền khỏi
luống sầu than
Gắn ghi chắc quả
tim vàng
Nghe hiền! Đáng
mặt Nam
bang anh tài.
Cuối đời, tiền bối thọ Thiên phong Bảo Pháp Chơn Quân
(Bộ Phận Hiệp Thiên Đài Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý Cao Đài Giáo Việt Nam ).
Tiền bối quy thiên tại Cơ Quan ngày Thứ Hai 22-5-1995
(23-4 Ất Hợi), đắc quả Viên Thông Chơn Tiên ngày Thứ Sáu 13-3-2009 (17-02 Kỷ
Sửu).
Tiền bối Chơn Tâm là ông ngoại của hiền huynh Thiện
Quang (Võ Thành Văn, 1965-2016), một tác giả quen thuộc với bạn đọc Chương Trình Chung Tay Ấn Tống Kinh Sách Đại Đạo.
([1]) Đây là hai câu
trích trong bài hát nói (ca trù, hát ả đào) của nhà Nho Chu Mạnh Trinh
(1862-1905), nhan đề là Phong Cảnh Hương
Sơn. Ông Chu thi đậu tiến sĩ (năm 1892) nên thường được gọi là “ông Nghè”.
([2]) Về tính hư cấu
của nhân vật Tề Thiên Đại Thánh, và lý do Tề Thiên Đại Thánh giáng cơ trong đạo
Cao Đài, quý bạn đọc có thể tham khảo quyển 31-2 trong Chương
Trình Chung Tay Ấn Tống Kinh Sách Đại Đạo: Huệ Khải, Giải Mã Truyện Tây Du. Hà Nội: Nxb Tôn
Giáo 2011, nhất là hai bài “Hầu Vương
Được Hư Cấu Như Thế Nào?” (tr. 164), và “Bài
Phú Tây Du Trong Đạo Cao Đài” (tr. 170).
([3]) Cà Mau: Thời Pháp thuộc, vào thập niên
1940, Cà Mau là một quận thuộc tỉnh Bạc Liêu. Ngày 09-3-1956, theo Sắc Lệnh
32/VN, chính quyền Việt Nam Cộng Hòa lấy quận Cà Mau và bốn xã Định Thành, Hòa
Thành, Tân Thành, Phong Thạnh Tây của quận Giá Rai (tỉnh Bạc Liêu) lập thành
tỉnh Cà Mau, tỉnh lỵ là Cà Mau. Có lẽ nhầm lẫn thời gian nên tiền bối Chơn Tâm
viết “tỉnh lỵ Cà Mau” khi nhắc tới
những năm 1940.
([4]) Nhiều người quen
gọi thánh thất, thánh tịnh Cao Đài là chùa.
► Quý đạo hữu gần xa muốn nhận các kinh sách do Chương
Trình Chung Tay Ấn Tống Kinh Sách Đại Đạo xuất bản, được gởi biếu qua bưu điện,
xin vui lòng gởi e-mail về: daidaovanuyen@gmail.com
Và xin quý đạo hữu hoan hỷ trả giúp cước phí cho bưu điện ngay khi nhận được sách biếu.
Và xin quý đạo hữu hoan hỷ trả giúp cước phí cho bưu điện ngay khi nhận được sách biếu.
Ban Ấn Tống trân trọng cảm ơn quý đạo hữu.