CHÚ GIẢI BÀI
QUẾ HƯƠNG
NỘI ĐIỆN
PHÂN CÂU
Bài Quế
Hương Nội Điện xưng tán Đức Khổng Thánh Tiên Sư mỗi khi cúng tứ thời trong
đạo Cao Đài. Các bản in trước đây thường xuống dòng như sau:
Khai
nhơn tâm tất bổn,
Ư đốc
thân chi hiếu.
Thọ
quốc mạch tất tiên,
Ư trí
chúa chi trung.
Tôi phân lại:
Khai
nhơn tâm tất bổn ư đốc thân chi hiếu.
Thọ
quốc mạch tất tiên ư trí chúa chi trung.
Như thế dễ thấy hình thức thể văn biền
ngẫu, nên dễ nhận ra ý nghĩa câu kinh: Câu trên, Khai 開 là động từ. Theo phép
đối, Thọ 壽 ở câu dưới cũng là động từ, nên tôi giảng là Giữ cho lâu bền.
TRÌNH BÀY
Bài Quế
Hương Nội Điện được khảo sát theo thứ tự như sau: Kinh Văn; Khảo Dị; Chú
Giải; Tổng Luận.
Về Chú Giải, tôi giải từng câu, hoặc hai,
ba hay bốn câu... cốt sao trọn ý văn mạch. Trước khi giải một câu, tôi xét từng
chữ, từng từ của câu đó, có chú thêm chữ Hán và tiếng Anh bên cạnh để tiện tham
khảo. Sau khi giảng xong hết từ trong một câu, tôi gom lại giảng theo cả câu.
Về Tổng Luận, tôi muốn bổ túc cho phần Chú
Giải một cái nhìn tổng quát, thoát ra sự giải thích kinh văn gò bó theo từng
câu từng chữ.
KINH VĂN
01. Quế Hương nội
điện,
02. Văn Thỉ thượng
cung.
03. Cửu thập ngũ hồi,
chưởng thiện quả ư thi thơ chi phố.
04. Bá thiên vạn hóa,
bồi quế thọ ư âm chất chi điền.
05. Tự lôi trữ bính,
linh ư Phụng lĩnh.
06. Chí như ý từ, tường ư Ngao trụ.
07. Khai nhơn tâm tất
bổn ư đốc thân chi hiếu.
08. Thọ quốc mạch tất
tiên ư trí chúa chi trung.
09. Ứng mộng bảo sanh,
10. Thùy từ mẫn khổ.
11. Đại nhơn đại hiếu,
12. Đại thánh đại từ.
13. Thần văn thánh võ,
14. Hiếu đức trung
nhơn.
15. Vương tân sách
phụ,
16. Nho Tông khai hóa.
17. Văn Tuyên tư lộc,
18. Hoằng nhơn Đế
Quân.
19. Trừng chơn chánh
quan,
20. Bửu quang từ tế
Thiên Tôn.
01. 桂 香 內 殿,
02. 文 始 上 宮.
03. 九 十 五 回 種 善 果 於 詩 書 之 圃.
04. 百 千 萬 化 培 桂 樹 於 陰 騭 之 田.
05. 字 雷 貯 炳 靈 於 鳳 嶺.
06. 志 如 意 慈 祥 於 鰲 柱.
07. 開 人 心 必 本 於 篤 親 之 孝.
08. 壽 國 脈 必 先 於 致 主 之 忠.
09. 應 夢 保 生,
10. 垂 慈 憫 苦.
11. 大 仁 大 孝,
12. 大 聖 大 慈.
13. 神 文 聖 武,
14. 孝 德 忠 仁.
15. 王 賓 策 輔,
16. 儒 宗 開 化.
17. 文 宣 司 祿,
18. 宏 仁 帝 君.
19. 澄 眞 正 觀,
20. 寶 光 慈 濟 天 尊.
KHẢO DỊ
Câu 19 rất nhiều bản in sai là chánh quang. Theo bản gốc chữ Hán là chánh quan (quán), nhưng giọng miền Nam không phân
biệt hai âm quan và quang.([1])
CHÚ GIẢI
Câu 1:
Quế 桂 (cinnamon): Truyền thuyết cho rằng trên
cung trăng có cây quế đỏ (đan quế).
Người thi đậu được ví như tay vin cành quế đỏ (Thủ phàn đan quế 手攀丹桂). Người cao khiết, có tài đức mà lại ẩn dật, xa lánh danh
lợi thế gian cũng được ví như cây quế. Ca dao có câu: Xin như cây quế giữa rừng / Cay không ai biết, ngọt đừng ai hay.
Văn học dùng hình tượng cây quế để nói tới con người cao quý, thanh nhã, bạt
tục. (Xem thêm câu 4.)
Hương 香: Mùi thơm (fragrance).
Quế Hương 桂香: Mùi thơm của quế (cinnamon fragrance). Ở đây được hiểu là tên riêng của một điện (palace hall).
Nội điện 內殿: Cung điện bên trong (inner
palace hall).
Câu 2:
Văn 文: Văn chương, văn học (literature);
học vấn (learning).
Thỉ (thủy) 始: Đầu mối, khởi nguyên (beginning).
Văn Thỉ 文始: Đầu mối của văn chương, văn học (the beginning of literature). Ở đây được hiểu là tên riêng của một
cung điện (palace).
Thượng 上: Cao quý (noble).
Thí dụ: thượng sư 上師 (vị thầy đáng tôn quý, sùng thượng); thượng nhân 上人 (người cao khiết, tài đức).
Thượng cung 上宮: Cung điện của bậc cao quý (noble palace).
Câu 1-2 tạm hiểu rằng điện
Quế Hương ở cung Văn Thỉ là nơi ngự của Đức Khổng Tử.
Câu 3:
Cửu thập ngũ hồi 九十五回: Chín mươi lăm lần (ninety-five times). Hiểu thoát ý là rất nhiều kiếp, nhiều đời.
Chưởng (chủng) 種: Gieo trồng (to
plant, to grow).
Thiện quả 善果: Quả lành, trái cây ngon ngọt (good fruit); quả báo lành của cuộc sống lương hảo (outcome of a good life).
Ư 於: Ở tại (in).
Thi thơ (thư) 詩書: Văn học, văn
chương (literature).
Chi 之: Của (of).
Phố 圃: Vườn cây ăn trái (orchard).
Thi thơ chi phố 詩書之圃: Mảnh vườn văn học, mảnh đất văn chương (the garden of literature).
Câu 3 ý nói Đức Khổng
Tử đã trải qua nhiều kiếp có công trồng những cây ăn trái ngon ngọt trong mảnh
vườn văn học. Hiểu thoát ý là khen ngợi công lao của Đức Khổng Tử đối với việc
dạy dỗ, mở trường khai hóa dân trí.
Câu 4:
Bá thiên vạn 百千萬: Trăm, ngàn, và mười ngàn. Hiểu thoát ý là rất nhiều, vô
số (myriads of).
Hóa 化: Sự biến hóa (transformation).
Bồi 培: Vun bón, bồi đắp, lấy đất đắp thêm vào gốc cây (to bank up with earth).
Quế thọ (thụ) 桂樹: Cây quế (cinnamon,
cinnamon tree). Xem lại chữ quế
giảng ở câu 1.
Ư 於: Ở tại, ở nơi (in).
Âm chất 陰騭: Cũng gọi âm đức, âm công; việc làm phúc âm thầm, không
lộ ra cho người khác biết (unostentatious
benevolence).
Chi 之: Của (of).
Điền 田: Ruộng (field).
Âm chất chi điền 陰騭之田: Ruộng âm chất (the
field of unostentatious benevolence). Việc làm âm chất được ví với ruộng vì
lẽ ruộng phì nhiêu sinh sôi hoa màu phong phú, làm âm chất tuy chưa thấy kết
quả trước mắt nhưng về lâu dài bản thân và con cháu cũng đều hưởng được quả
lành. Càng gieo nhiều âm chất thì mảnh phước điền (ruộng phước) càng đâm bông
trổ trái cho kẻ gieo giống lành thọ hưởng.
Bồi quế thọ ư âm chất chi điền 培桂樹於陰騭之田: Vun bồi cây quế
nơi ruộng âm chất. Cây quế ám chỉ việc thi đậu, và tượng trưng cho người cao
quý, bạt tục (xem lại câu 1).
Câu 4 ngụ ý xưng tán
Đức Khổng Tử đã nhiều kiếp dày công giáo hóa cho người nên danh phận, đỗ đạt,
và sự thành đạt đó của kẻ sĩ phải đặt trên nền tảng nhân đức. Truyện cổ dân
gian hay răn kẻ sĩ làm lành tích đức cũng vì lẽ ấy.([2])
Câu 5:
Tự 字: Chữ viết (Chinese characters).
Lôi 雷: Sấm sét (thunder).
Tự lôi 字雷: Tiếng sấm khi chữ viết được phát minh (the thunder celebrating the invention of the
Chinese characters).
Trữ 貯: Tích chứa (to store, to
accumulate).
Bính 炳: Sáng rỡ, sáng chói (bright, brilliant, luminous). Nghĩa bóng là văn minh (civilization).
Theo truyền thuyết, Thương Hiệt làm quan chép sử của Hoàng Đế thời
thượng cổ. Thương Hiệt cất nhà bên bờ sông Vị 洧 (nay thuộc
tỉnh Hà Nam ,
Trung Quốc), ngày đêm trầm tư tìm tòi cách ghi chép.
Lòng thành động đến Trời, một hôm chim phụng bay qua nhà ông, thả xuống
hòn đất in dấu chân con thú lạ. Một thợ săn bảo đó là dấu chân con Tỳ Hưu 貔貅. Thợ săn
còn khoe có thể nhìn bất kỳ dấu chân mà biết rõ là loài thú gì. Thương Hiệt bừng
tỉnh, ngộ ra rằng mọi sự vật trên đời đều có đặc trưng, nếu có thể vẽ ra được đặc
trưng ấy, mọi người nhìn vào sẽ hiểu ngay là vật gì.
Thương Hiệt dựa vào nguyên tắc đó mà
quan sát thiên nhiên, tìm cách vẽ lại đặc trưng của vạn vật, cuối cùng tạo nên
lối chữ tượng hình của người Trung Hoa. Vì vậy người Trung Hoa có câu Thương Hiệt tác thư 倉頡作書 (Thương Hiệt
sáng tác chữ viết).
Cũng theo truyền thuyết, người đời sau
cất đài kỷ niệm tại nơi Thương Hiệt nhặt hòn đất in dấu chân thú, gọi là Phụng Hoàng Hàm Thư Đài 鳳凰銜書台 (đài
chim phụng ngậm chữ). Đến thời Tống dựng thêm chùa, gọi là Phụng Đài Tự 鳳台寺, nay thuộc huyện Tân Trịnh, tỉnh Hà Nam , Trung Quốc.
Dĩ nhiên, về nguồn gốc sáng tạo chữ
Hán, thuyết Thương Hiệt tác thư không được các nhà ngôn ngữ
học hiện đại chấp nhận. Chữ Hán là thành quả sáng tạo trải qua nhiều đời của
người Trung Hoa cổ đại. Có thể Thương Hiệt chỉ là một trong những người có công
sưu tập, chỉnh lý và phát triển chữ Hán mà thôi.
Nhưng dân tộc Trung Hoa vốn giàu tưởng tượng và ham
thích thần bí siêu nhiên. Để tán dương chữ viết của họ là một thành tựu văn hóa
cực kỳ quan trọng, họ truyền rằng khi hệ văn tự tượng hình này hoàn thành thì
sấm chớp nổi dậy, thần sầu quỷ khốc, và ngũ cốc trên trời đổ xuống như mưa.
Bốn chữ tự lôi
trữ bính vì thế có thể hiểu là ngụ ý nói tới phát minh ra chữ viết, một
thành tựu to tát của văn minh, văn hóa Trung Quốc.
Linh 靈: Linh thiêng, thiêng liêng (divine, supernatural).
Ư 於: Hơn (more
than).
Phụng 鳳: Chim phượng là con trống (male phoenix); con mái gọi là hoàng (female phoenix). Trong văn học Trung
Quốc và Việt Nam ,
chim phụng là biểu tượng của hoan hỷ, hạnh phúc (an emblem of joy and happiness). Khi nói tới bậc đại tài văn chương
người Trung Quốc có thành ngữ Thổ phụng chi tài 吐鳳之才 (great
literary ability); thổ là nói
năng. Khen tặng người có danh tiếng trong chốn văn chương có thành ngữ Khởi phụng đằng giao 起鳳騰蛟 (the soaring
phoenix and the prancing dragon; praise of one whose name for literature is
becoming famous).
Lĩnh (lãnh) 嶺: Đỉnh núi cao (the highest peak in a mountain range).
Phụng lĩnh 鳳嶺: Đỉnh núi Phụng, ám chỉ núi Kỳ
(Kỳ Sơn), do truyền thuyết là cuối đời Ân, vua Trụ bạo ngược, dân chúng điêu
linh thì có chim phụng gáy trên núi Kỳ báo tin Thánh Nhân (là Chu Văn Vương,
Chu Võ Vương) ra đời diệt Trụ an dân, lập đời thái bình thịnh trị.
Linh ư Phụng lĩnh 靈於鳳嶺: Siêu phàm hơn
núi Kỳ [có chim phụng gáy] (more sacred
than the peak of Phoenix ).
Câu 5 ngụ ý so sánh
việc chế tác chữ viết còn quan trọng hơn cả việc Thánh Nhân xuất thế cứu đời.
(Thánh Nhân không phải thời nào cũng có, việc giáo hóa trực tiếp của Thánh Nhân
vì vậy có hạn chế trong không gian và thời gian. Tuy nhiên, nhờ chữ viết, kinh
sách ra đời, đạo lý có phương tiện hữu hiệu để truyền đạt rộng khắp vượt không
gian và thời gian, việc giáo hóa vì thế mà được tiếp nối trường lưu bất tận.)
Câu 6:
Chí 志: Tâm chí, ý chí, điều thiết tha mong muốn (will, ambition).
Như 如: Cũng như (as
well as).
Ý 意: Ý nghĩ, quan niệm (opinion, thought).
Từ 慈: Hiền lành, thương yêu (merciful,
compassionate).
Tường 祥: Tốt lành (lucky, good, auspicious).
Ư 於: Hơn (more
than).
Ngao 鰲: Loài rùa biển (ba ba) khổng lồ. Theo
truyền thuyết, chúng chống chỏi cho mặt đất khỏi bị sụt lở (huge sea-turtle, said to support the earth),
dựa theo tích Cộng Công đánh nhau với Chúc Dung làm trời sụp, đất sụt lở. Bà Nữ
Oa phải luyện đá ngũ sắc để vá trời, chặt chân ngao để chống chỏi đất. Vì thế
có thuật ngữ ngao túc 鰲足 là chân ngao (legs of a huge turtle used as supports for the earth). Ngày
xưa, người thi đậu đứng đầu bảng danh sách cũng gọi là độc chiếm ngao đầu.
Trụ 柱: Cây cột (pillar); sự chống đỡ (support). Hiểu theo tích bà Nữ Oa chống
chỏi đất thì ngao trụ là cột bằng
chân ngao.
Câu 6 ý nói tâm chí và
ý tưởng của Đức Khổng Tử rất mực tốt lành, đỡ nâng con người còn hay hơn cả
chân ngao chỏi đất.
Câu 7:
Khai 開: Bắt đầu, khởi đầu (to start, to begin).
Nhơn (nhân) tâm 人心: Lòng người, đạo đức con người (the moral nature of human beings).
Tất 必: Ắt hẳn, phải là (must, necessarily).
Bổn (bản) 本: Cái gốc, căn bản,
nền tảng (basis).
Ư 於: Ở tại (in).
Đốc 篤: Dốc hết, dốc lòng (utmost).
Thân 親: Cha mẹ (parents).
Chi 之: Của (of).
Hiếu 孝: Lòng kính yêu, biết ơn cha mẹ (filial piety).
Đốc thân chi hiếu 篤親之孝: Lòng chí hiếu
đối với cha mẹ (utmost filial piety).
Câu 7 ý nói việc giáo
dục đạo đức cho con người đặt trên căn bản là hết lòng hiếu kính cha mẹ.
Câu 8:
Thọ 壽: Giữ cho lâu bền (to sustain, to maintain).
Quốc mạch 國脈: Mạch của đất nước, quốc gia. Gọi
chung văn hóa, văn minh, truyền thống, gia sản tinh thần của một nước là quốc
mạch. Đó là cái nguồn sinh lực nuôi dưỡng cho một đất nước trường tồn. Gọi là
quốc mạch để so sánh với huyết mạch là dòng máu luân lưu nuôi sống một cơ thể.
Thọ quốc mạch 壽國脈: Giữ lâu bền mạch nước.
Tất 必: Ắt hẳn, phải là (must, necessarily).
Tiên 先: Trước tiên (first of all).
Ư 於: Ở tại (in).
Trí 致: Rất, lắm, hết mực (utmost).
Chúa (chủ) 主: Nghĩa hẹp là
vua, người đứng đầu một nước. Hiểu thoát ý, chúa (chủ) ám chỉ nhà nước (state), là một tập thể lãnh đạo quốc
gia.
Trí chúa chi trung 致主之忠: Lòng trung
thành tuyệt đối đối với nước nhà, khi xưa là lòng tận trung với vua, là người
đại biểu cho quốc gia thời quân chủ (utmost
patriotism).
Câu 8 ý nói muốn giữ
lâu bền mạch nước (văn hóa quốc gia, v.v…) thì điều trước tiên tất nhiên là phải
hết lòng trung thành với Tổ Quốc.
Hai câu 7-8 là một cặp đối
rất chỉnh. Câu 7 nói chí hiếu (đốc thân chi hiếu) là dạy cái đạo làm
con trong gia đình. Câu 8 nói tận
trung (trí chúa chi trung) là dạy cái
đạo làm dân trong một nước. Có đủ vẹn toàn cả hiếu lẫn trung là vẹn tròn nghĩa
vụ với gia đình và quốc gia, là chu toàn cái đạo làm người, hay nhân đạo của
nhà Nho. Hơn nữa, câu 4 đã nói Bồi quế thọ ư âm chất chi điền là nhắm
vào việc tu thân của cá nhân. Bài xưng tán này diễn tả đủ ba phương diện cá
nhân - gia đình - quốc gia (xã hội), cũng đồng thời là quan hệ tu thân - tề gia
- trị quốc nơi sách Đại Học.
Câu 9:
Ứng mộng 應夢: Cho ai thấy trong giấc chiêm bao
(to appear in a dream).
Bảo sanh (sinh) 保生: Gìn giữ sự sống
(to protect life).
Câu 9 ý nói Đức Khổng
Tử muốn nối nghiệp Chu Công, thường suy tư tìm cách cứu đời, bảo toàn sự sống
cho dân. Môn đệ ghi lại lời Đức Khổng Tử: mộng
kiến Chu Công.([3])
Chứng tỏ Đức Khổng Tử đã từng nằm mộng thấy Chu Công hiện về.
Câu 10:
Thùy từ 垂慈: Có lòng thương yêu người khác (to have gracious compassion towards).
Mẫn 憫: Thương xót (to
have sympathy with).
Khổ 苦: Nỗi khổ (sufferings).
Câu 10 ý nói Đức Khổng
Tử có lòng từ, thương xót chúng dân khổ sở.
Câu 11-12-13-14:
Đại nhơn (nhân) 大仁: Chí nhân, lòng
nhân ái bao la (great benevolence).
Đại hiếu 大孝: Chí hiếu (utmost filial piety).
Đại thánh 大聖: Chí thánh (great holiness).
Đại từ 大慈: Lòng thương yêu bao la (great compassion).
Thần văn 神文: Văn chương tuyệt giỏi, văn
chương hay như thần (great literary
ability).
Thánh võ (vũ) 聖武: Võ bị tuyệt
vời, giỏi như thánh (great martial arts).
Hiếu đức trung nhơn (nhân) 孝德忠仁: Hiếu thảo (of filial piety), đức độ (virtuous), trung thành (loyal), và nhân ái (benevolent).
Ba câu 11, 12 và
14
xưng tán đức độ cao tột của Đức Khổng Tử. Câu
13 ca tụng Ngài có tài kiêm văn lẫn võ (xem Tổng Luận).
Câu 15:
Vương 王: Thuộc về vua chúa (royal).
Tân 賓: Khách (visitor, guest).
Vương tân 王賓: Khách của vua chúa (the guest
of kings).
Sách 策: Kế sách, chiến
lược (scheme, strategy).
Phụ 輔: Hai cái cọc cặp vào xe để chống cho xe đứng được (poles attached to a cart to keep it from
upsetting). Từ nghĩa này phát sinh nghĩa trợ giúp, ủng hộ (to help, to support).
Sách phụ 策輔: Đưa ra kế sách để giúp đỡ (to
offer strategies for help).
Câu 15 ý nói Đức Khổng
Tử từng là thượng khách nơi triều đình, được các vua chúa tham vấn về chính
sách trị nước an dân.
Câu 16:
Nho tông 儒宗: Tông chỉ đạo
Nho (the policy of Confucianism).
Khai hóa 開化: Làm cho văn minh (to civilize).
Câu 16 ý nói Đức Khổng
Tử dùng tông chỉ đạo Nho làm cho Trung Quốc (và các nước đồng văn) được văn
minh.
Câu 17:
Văn Tuyên 文宣: Một trong những tên thụy các vua
Trung Quốc truy tặng Đức Khổng Tử.
Tuyên có nghĩa là bày
ra (to display), tuyên bố (to proclaim). Tôn hiệu của Đức Khổng Tử
thường kèm theo chữ Tuyên. Vào năm 1
đầu Công Nguyên, vua Hán Bình Đế tôn Ngài là Bao Thành Hầu Tuyên Ni Công. Ni
mượn từ tên tự của Ngài là Trọng Ni.
Các thế kỷ sau đó, Ngài được tôn là Tuyên
Ni hay Tuyên Phụ. Năm 739 vua
Đường Huyền Tông tôn Ngài là Văn Tuyên
Vương. William Frederick Mayers dịch Tuyên
là lỗi lạc (illustrious); dịch Tuyên Ni Công là Illustrious Duke Ni; dịch Văn
Tuyên là học vấn lỗi lạc (Illustrious
Learning).([4])
Năm 1008, vua Tống Chân Tông tôn Ngài là Huyền
Thánh Văn Tuyên Vương; năm 1012 lại tôn là Chí Thánh Văn Tuyên Vương. Ngài cũng được tôn là Tuyên Thánh.([5])
Tư (ti) 司: Trông coi (to control, to manage).
Lộc 祿: Phúc (happiness).
Câu 17 ý nói Đức Khổng
Tử trông coi việc phúc.
Câu 18:
Hoằng 宏: To lớn (great).
Nhơn (nhân) 仁: Lòng thương
người (benevolence).
Hoằng nhơn Đế Quân 宏仁帝君: Vị Đế Quân có
lòng bác ái, ám chỉ Đức Khổng Tử (the God
of Great Benevolence).
Câu 19-20:
Trừng 澄: Trong trẻo, tinh khiết (clear, pure).
Chơn (chân) 眞: Thật, không giả
(real, genuine).
Chánh (chính) 正: Ngay thẳng,
chơn chánh (upright, true).
Quan (quán) 觀: Soi xét, xem
xét (to observe, to behold).
Bửu (bảo) quang 寶光: Ánh sáng quý báu (precious
light).
Từ tế 慈濟: Có lòng thương người, hay trợ
giúp người (benevolent and helpful).
Thiên Tôn 天尊: Đấng được cõi trời tôn kính (the Heavenly Honored One).
Câu 19-20 ý tán thán Đức
Khổng Tử là vị Thiên Tôn có lòng thương yêu hay cứu giúp cho người; Ngài hay
xem xét những điều trong sáng, chơn thật.
TỔNG LUẬN
Nói đến Đức Khổng Tử là nói đến đạo Nho. Nói đến đạo
Nho chẳng thể bỏ quên chữ viết của dân tộc Trung Hoa. Thứ chữ đó được gọi là
chữ Hán vì Hán là một trong mấy triều đại văn minh rực rỡ nhất Trung Quốc.
Nhưng chữ viết đó còn có một cái tên xác đáng hơn, sâu sắc hơn: chữ Nho; nghĩa là văn tự của đạo Nho,
chữ của nhà Nho. Chưa có một nền tư tưởng nào khác mà lại có cái vinh dự là
đồng hóa danh xưng của nó với ngôn ngữ của cả một dân tộc. Nho Giáo duy nhất có
được cái điều thế gian hy hữu ấy, đủ để thấy uy thế của Đức Khổng Tử vĩ đại như
thế nào rồi.
Theo truyền thuyết, chữ Nho có từ đời thượng cổ, do
Thương Hiệt sáng chế ra. Khi chữ viết được phát minh thì kinh thiên động địa,
quỷ khốc thần sầu, sấm giăng mưa giáng... Trong kinh nói Tự lôi trữ bính (câu 5) không ra ngoài huyền thoại ấy. Nhìn ở khía
cạnh khoa học, huyền thoại ấy nhằm diễn tả tầm quan trọng của chữ viết đối với
văn hóa, văn minh của một dân tộc.
Trên cơ sở di chỉ khảo cổ An Dương (tỉnh Hà Nam), các
nhà khảo cổ xác định rằng dân tộc Trung Hoa đã có văn tự rất sớm, nếu có chậm
lắm thì cũng chỉ tới đời Thương (khoảng 1800 năm trước Công Nguyên) mà thôi.
Văn tự đã có rồi thì dần dần sẽ xuất hiện trường học.
Chế độ giáo dục đời thượng cổ chỉ được sử sách chép lại rất sơ sài. Một cách
khái quát, có thể ghi nhận như sau:
- Trường học có hai cấp: tiểu học (trẻ 8-14 tuổi) và
đại học (15-20 tuổi).
- Tiểu học dạy cho trẻ biết thưa gởi, ứng đối, lễ
phép xã giao và một ít chữ nghĩa.
- Đại học dạy lục nghệ gồm sáu môn: lễ, nhạc, xạ (bắn
cung), ngự (đánh xe), thư (viết chữ), số (các phép toán).
- Con em bình dân chỉ được học vài năm tiểu học ở
trường làng, mà số học trò lại rất ít.
- Con nhà quý tộc (vua chúa, chư hầu, quan lại) được
học ở kinh đô, học hết đại học để sau làm quan. Vậy học hành là một đặc quyền của
những nhà quý tộc.
Tới khoảng cuối đời Xuân Thu,([6])
Đức Khổng Tử là người đầu tiên mở trường tư dạy trẻ em và người lớn. Ngài không
phân biệt thành phần xã hội, không kỳ thị giai cấp. Trong cái trường tư đầu
tiên trên thế giới đó, dù là con vua cháu chúa mặc quần là áo lụa kiêu sa hay
là con em thứ dân mặc áo vải quần bô lam lũ, tất cả đều vẫn được tiếp nhận và
cùng hưởng chung một chế độ giáo dục bình đẳng. Luận Ngữ chép Hữu giáo vô loại
là nói đến chế độ giáo dục bình đẳng ấy.([7])
Đây chính là một cuộc cách mạng giáo dục trong xã hội
Trung Quốc thời cổ, bởi lẽ nhờ con đường giáo dục mà Đức Khổng Tử đã đào tạo từ
trong quần chúng bình dân một tầng lớp trí thức có đủ tâm hạnh đức tài. Các bậc
đại nho này về sau có điều kiện ra tham chính, làm quan giúp vua trị nước an
dân, và như thế họ đã thực sự thay thế hạng quý tộc cha truyền con nối. Vậy,
nhờ công lao của Đức Khổng Tử mà dân tộc Trung Hoa đã đi trước châu Âu trên hai
ngàn năm về phương diện giáo dục. Mãi đến thế kỷ thứ 13 ở phương Tây mới có một
vài nước theo kịp.
Các môn đệ của Đức Khổng Tử về sau lại noi gương
Thầy, tiếp tục mở trường tư dạy học, lưu truyền đạo lý Thánh Hiền cho muôn đời
noi theo. Theo sử quan Cao Đài, đạo Nho vốn đã có từ Nhất Kỳ Phổ Độ, nghĩa là
có trước Đức Khổng Tử. Nhưng phải đợi đến Nhị Kỳ Phổ Độ, nhờ công Đức Khổng Tử
và môn đệ mà đạo Nho được hoằng dương mạnh mẽ, hữu hiệu, và đạo Nho cũng được
đồng hóa thành đạo Khổng. Trong kinh nói Nho
Tông khai hóa (câu 16) chính là xưng tán công nghiệp hoằng đại của nhà giáo
họ Khổng.
Thời đại của Đức Khổng Tử (từ cuối đời Xuân Thu đến
cuối đời Chiến Quốc) là thời kỳ thiên hạ đại loạn. Các triết gia nô nức lập
thuyết cứu đời, tạo nên một phong trào học thuật rực rỡ mà sử sách gọi là bách gia tranh minh (trăm nhà đua
tiếng). Đức Khổng Tử chính là người đầu tiên đứng ra mở đường dọn lối cho phong
trào ấy. Sử gia khẳng định rằng bình minh triết học Trung Quốc thực sự đã khởi
phát từ chính đất Lỗ, quê hương Đức Khổng Tử (một phần của tỉnh Sơn Đông sau
này), tuy chỉ là một nước nhỏ, nhưng còn giữ lại được ít nhiều sự giáo hóa của
Chu Công, người mà Đức Khổng Tử vô cùng khâm phục và quyết tâm suốt đời nối
chí.
Dân tộc Trung Hoa ngưỡng mộ ba vị đại hiền ở đầu nhà Chu (Tây Chu) và tôn là ba ông Thánh: Chu Văn Vương (tên
Cơ Xương), Chu Võ Vương (tên Cơ Phát), và Chu Công (tên Đán, em Võ Vương). Võ
Vương diệt Trụ, làm vua bảy năm thì mất. Trật tự trong nước chưa kịp ổn định.
Con là Thành Vương nối ngôi còn nhỏ tuổi, các vụ phản loạn xảy ra. Chu Công
giúp cháu giữ yên xã tắc, lại có công định ra lễ nghi, phép tắc, chấn hưng đạo
đức... nhờ thế nhà Chu hưng thịnh, văn minh
rực rỡ.
Sang thời Chu suy (Đông Chu ),
thiên hạ đại loạn, trong gia đình nhiều kẻ chém giết nhau, dâm loạn; ở triều
đình thì bề tôi chuyên quyền lấn ép, bức hiếp chúa... Đức Khổng Tử đã lớn lên
trong cảnh nhiễu nhương cùng cực ấy, và Ngài đã mơ ước nối chí Chu Công tái lập
lại trật tự xã hội cho dân chúng thoát khỏi điêu linh. Ngài từng mong muốn đi
qua Lạc Ấp (kinh đô nhà Chu ) để khảo cứu và
học tập công nghiệp của Chu Công. Năm ba mươi bốn tuổi được Lỗ Vương trợ giúp
phương tiện, Ngài mới toại nguyện du học.
Sau chuyến đi đó, Đức Khổng Tử càng thêm thán phục
Chu Công và càng nung nấu hoài bão nối chí Thánh Nhân đời trước lập đức cứu
đời, cho nên có lần Ngài nói cùng môn đệ: Ngô
tòng Chu . (Ta theo Chu Công.) Cũng do chỗ
đồng thanh khí, đồng hoài bão lớn ấy, Đức Khổng Tử nằm mộng thấy Chu Công hiện
về.([8])
Do tích này nên bài xưng tán nói: Ứng
mộng bảo sanh (câu 9).
Cũng như Chu Công, Đức Khổng Tử nhận thấy nguyên nhân
chủ yếu làm cho xã hội rối loạn đều bắt nguồn hoặc từ trong gia đình, hoặc từ
trong triều đình. Do đó Ngài dạy con trong nhà phải hiếu, quan trong triều phải
trung. Tiên khởi Ngài dạy phải lấy bản thân từng cá nhân mà tu tập nghĩa nhân,
đạo đức. Bài xưng tán nói Khai nhơn tâm
tất bổn ư đốc thân chi hiếu / Thọ quốc mạch tất tiên ư trí chúa chi trung
(câu 7-8) tức là đã nêu ra được cương lĩnh giáo dục của Đức Khổng Tử là tu
thân, tề gia, trị quốc.
Đức Khổng Tử dạy cho học trò nhiều môn: về văn có
Thi, Thư (sử), Lễ, Nhạc, Dịch và môn thư (viết chữ), số (toán học); về võ có
môn xạ (bắn cung), ngự (đánh xe). Vì Ngài tài kiêm văn võ như vậy nên bài xưng
tán khen là Thần văn thánh võ (câu
13).
Các đời sau, trường tư của đạo Khổng ngày càng thịnh.
Cho đến đời Hán trở đi thì đã thành chế độ thi cử hẳn hoi. Nho sĩ càng lúc càng
đông, có uy tín và khí tiết, đầy đủ tài năng đức trí, có khả năng trị thế an
bang. Nhờ thi cử đỗ đạt họ đã vào triều nắm giữ các địa vị quan trọng. Lần đầu
tiên trên thế giới đã có một nền văn minh độc sáng, lại xuất hiện rất sớm, và
làm một cuộc cách mạng trong chế độ cai trị: thông qua học hành và thi cử, nhân
tài trong nước không phân biệt thành phần xã hội hay giai cấp đều được tuyển
chọn công bằng để ra làm quan, và do đó đã loại bỏ được chế độ quý tộc huyết
thống cha truyền con nối, cho dù con bất tài, vô đức. Ở các nước đồng văn với
Trung Quốc (như Việt Nam), truyền thống giáo dục và chọn nhân tài tốt đẹp, ưu
thắng ấy cũng sớm được tiếp thu có hiệu quả rất tích cực.([9])
Có nhận thức rõ ý nghĩa và vai trò to tát của Nho học
trong xã hội Trung Hoa và Việt Nam
thời xưa thì càng cảm thụ sâu sắc các câu mở đầu bài xưng tán: Cửu thập ngũ hồi, chưởng thiện quả ư thi thơ
chi phố. Bá thiên vạn hóa, bồi quế thọ ư âm chất chi điền. (câu 3-4).
Đức Khổng Tử là tấm gương sáng cho muôn đời noi theo
(vạn thế sư biểu). Ngài đã rất thành
công trong sự nghiệp giáo dục mà ảnh hưởng hãy còn truyền lưu muôn thuở, lan
truyền sang cả các nước phương Tây thời nay. Tuy nhiên Ngài lại thất bại trên
con đường chính trị. Vua chúa tuy có đón tiếp Ngài để nghe bàn về kế sách trị
quốc an dân, nhưng không một ai thực tâm thi hành chính sách vương đạo của Đức
Khổng Tử. Ngài bôn ba nhiều mà chỉ hoài công. Luận Ngữ (Chương I, 10) chép lời ông Tử Cầm bảo ông Tử Cống: Phu Tử chí ư thị bang dã, tất văn kỳ chính.
(Thầy ta đến nước nào thì ắt đều dự bàn việc chính trị của nước đó.) Bài xưng
tán nói Vương tân sách phụ (câu 15)
là liên hệ đến cuộc đời chính trị của Đức Khổng Tử.
Nhiều chỗ, bài xưng tán lặp đi lặp lại lời ca tụng
Đức Khổng Tử: đại nhơn, đại hiếu, đại
thánh, đại từ, hiếu, đức, trung, nhơn, hoằng nhơn, từ tế... Đọc kỹ Luận Ngữ, là sách do môn đệ chép lại lời
nói, hành trạng của Ngài, ai cũng thấy rõ ràng bức chân dung của Ngài: một con
người nhân bản toàn diện. Ngài luôn quán xét để dạy
đời những điều chân chánh, cao thượng (Trừng chơn chánh quan), chẳng khác gì ánh sáng quý báu soi lối giúp
đời (Bửu quang từ tế).
Biết người, biết mình, cho nên dù khiêm tốn rất
mực mà cũng có lúc Ngài vẫn thực thà khẳng định sứ mạng của Ngài, như lời nói ở
đất Khuông: Văn Vương ký một, văn bất tại
tư hồ? ([10])
(Văn Vương mất đi rồi thì cái văn của
Người chẳng phải là đã truyền lại nơi ta đấy sao?) Chữ văn 文 trong câu có thể
hiểu là cái đạo của Thánh Nhân, nhưng văn
lại còn là vẻ sáng đẹp. Hiểu như thế, thì sau Văn Vương, Đức Khổng Tử qua cuộc
đời chân thật, trong sáng, thẳng ngay của Ngài đã thể hiện trung thực một vẻ
đẹp kỳ diệu, một ánh sáng thánh khiết để làm ngọn đuốc thiêng chói lọi soi rọi
mãi mãi cho nhân loại muôn đời. Về cái ánh sáng đẹp ngời đó của Đức Khổng Tử, bài
xưng tán nói: Bửu quang từ tế Thiên Tôn
(câu 20). Hiểu như thế, rồi liên hệ đến bốn chữ Nho Tông chuyển thế trong đạo Cao Đài, sẽ xác tín thêm rằng, với
Cao Đài xuất thế, chân truyền đạo Nho sẽ được phục hưng, và Đức Khổng Tử vẫn
mãi mãi còn là một chân dung sống động trong tâm tình con người hôm nay và mai
sau.
([2]) Có anh học trò
nghèo, học giỏi, được thần nhân báo mộng sẽ đỗ đầu, làm quan to. Một đêm ngồi
dưới trăng chợt nghĩ tới người vợ lam lũ quê mùa, anh toan tính khi làm quan sẽ
bỏ vợ để cưới một tiểu thơ son trẻ quyền quý. Sau đó, thần nhân lại báo mộng
rằng Thiên Đình vừa xóa tên anh trong danh sách thi đậu vì phạm tội “Nguyệt hạ phóng thê, thất đức.” (Dưới
trăng bỏ vợ, thất đức.)