VỀ CÁCH ĐẶT
NHAN ĐỀ
BỐN BÀI KINH CÚNG TỨ THỜI
CÓ NGUỒN GỐC
CHỮ HÁN
Trong
kinh cúng tứ thời của đạo Cao Đài
có bốn bài xưng tán Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế ([1]) và
Tam Giáo Tổ Sư. Bốn bài này được in bằng chữ quốc ngữ và đọc theo âm Hán Việt
vì nguyên là chữ Hán (có nguồn gốc từ kinh tụng của đạo Lão Trung Quốc).
Các hội thánh, thánh sở hay một số tác
giả trong cộng đồng Cao Đài xưa nay có lưu hành một số bản in, bài viết về bốn
bài kinh này. Điều đáng lưu ý là việc đặt nhan đề bốn bài ấy thường không nhất
quán giữa các hội thánh, thánh sở, hay tác giả.
So sánh các dị bản này, thường thấy xuất
hiện cách đặt nhan đề như sau, thí dụ:
* Thượng
Đế chí tâm quy mạng lễ
Thượng
Đế chí tâm kinh
Thượng
Đế chí tâm
* Phật
Giáo chí tâm quy mạng lễ
Phật Giáo
chí tâm kinh
Phật Giáo chí tâm
* Thích Giáo
chí tâm quy mạng lễ
Thích Giáo chí
tâm kinh
Thích Giáo chí
tâm
* Thái Thượng chí
tâm quy mạng lễ
Thái Thượng chí
tâm kinh
Thái Thượng chí
tâm
* Tiên Giáo chí
tâm quy mạng lễ
Tiên Giáo chí tâm
kinh
Tiên Giáo chí tâm
* Nho Giáo chí tâm quy mạng lễ
Nho
Giáo chí tâm kinh
Nho
Giáo chí tâm
*
Thánh Giáo chí tâm quy mạng lễ
Thánh Giáo chí tâm kinh
Thánh Giáo chí tâm, v.v...
Trong
những cách đặt nhan đề như vậy, có đôi điều cần
xem lại:
Bài Hỗn Độn Tôn Sư trong kinh cúng tứ thời không thể gọi là Thích Giáo,
vì bài này xưng tán Đức Nhiên Đăng Cổ
Phật (Dipankara) của thời Nhất Kỳ Phổ
Độ chứ không xưng tán Đức Thích Ca Mâu Ni (Śākyamuni) của thời Nhị Kỳ Phổ Độ.
Các cách gọi chí tâm kinh, chí tâm thật ra chỉ là rút
gọn cụm từ chí tâm quy mạng lễ. Lẽ ra
không nên làm như thế.
Không nên đưa chí tâm quy mạng lễ vào làm nhan đề các
bài kinh xưng tán này.
Các bài kinh tụng
của đạo Lão Trung Quốc xưng tán công đức và oai linh các Đấng thiêng liêng
thường khởi đầu bằng cụm từ chí tâm quy
mạng lễ, như một nghi thức có tính cách nhắc nhở tín đồ phải khép mình,
cung kính khi hành lễ trước bàn thờ. Thuật ngữ đạo Lão gọi phần này là khoa nghi 科儀.
Chí tâm quy mạng lễ nghĩa là gì?
Các bản kinh chữ
Hán thường viết cụm từ này theo bốn cách như sau:
至心皈命禮 / 志心皈命禮
志心歸命禮 / 至心歸命禮
Như vậy 志 (chí: ý chí) dùng thông với 至 (chí: rất, lắm, cực độ). Tức là 志心 (chí tâm)
nên hiểu theo nghĩa 至心 (chí tâm: hết lòng, trọn cả lòng thành khẩn).
Và 皈 (quy) dùng thông với 歸 (quy),
nghĩa là đi theo, noi theo, tuân theo. 皈命 (歸命) quy mạng nghĩa là tuân phục, tin phục.
禮 (lễ): hành lễ, lạy.
Chí
tâm quy mạng lễ nghĩa là đem trọn cả lòng thành tuân phục cúi lạy.
*
Hai bài kinh cúng tứ
thời gốc chữ Hán của đạo Cao Đài rút từ quyển Huỳnh Đình Nội Cảnh Ngọc Kinh Tường Chú (để xưng tán Đức Thái
Thượng Đạo Quân) và quyển Văn Xương Đại Đỗng Chân Kinh Chú (để xưng
tán Đức Khổng Thánh Tiên Sư). Vốn
dĩ cả hai bản gốc không có nhan đề, vì đều chỉ là một phần trong khoa nghi theo
truyền thống đạo Lão Trung Quốc. Do đó, tôi mượn bốn chữ Tiên thiên khí hóa và Quế
Hương nội điện mở đầu mỗi bài để tạm làm nhan đề.