NGUỒN GỐC BÀI
TIÊN THIÊN KHÍ HÓA
Năm 1994 tôi ấn hành Tìm Hiểu Kinh Cúng Tứ Thời, một năm sau đó lại sửa chữa và tăng bổ
khá nhiều khi tái bản (Huế: Nxb Thuận Hóa). Nay, tôi mượn được trong thư viện
của Minh Lý Thánh Hội (Tam Tông Miếu, số 82 Cao Thắng, quận 3) một bản kinh
xưa, chữ Hán (số thứ tự của thư viện là 98), nhan đề Huỳnh Đình Nội Cảnh Ngọc Kinh Tường Chú. Nhờ thế tôi có điều kiện xác thực để hiệu đính và giảng lại bốn chữ đơn tích vi mang trong bản in năm 1995 của tôi.([1])
I. GIỚI THIỆU HUỲNH ĐÌNH NỘI CẢNH
NGỌC KINH TƯỜNG CHÚ
Quyển kinh này gồm 58 tờ giấy mỏng gấp đôi (13x23cm),
đánh số từ nhất (tờ 1) tới ngũ bát (tờ 58). Như vậy mỗi tờ có hai
trang. Thí dụ, tờ thứ ba có hai trang, gọi là trang 3a và 3b. Bìa trước và bìa
lưng in chữ đen trên nền màu đỏ cam của hai tờ giấy mỏng gấp đôi. Gáy sách
không dán, đóng chỉ tơ bên phải, do đó sách giở từ sau ra trước, đọc chữ theo cột
hàng dọc từ trên xuống dưới và từ trái sang phải.
Ở mặt trong bìa lưng cho biết kinh này in tại nhà in
Mỹ Hoa (My-Wa), số 52 đường Canton, Chợ Lớn.([2])
1. Trang bìa cho thấy các chi
tiết sau đây:
(1) Giữa trang bìa, nhan đề in một dòng xuôi xuống,
gồm sáu chữ Hán: Huỳnh
Đình Nội Cảnh Ngọc Kinh Tường Chú.([3])
(2) Bên phải nhan đề in một dòng xuôi xuống, gồm mười
lăm chữ Hán: Đạo Quang nhị thập thất niên
tam nguyệt sơ bát nhật. Hàm Hư Tử trứ.([4]) (Ngày mùng tám tháng ba niên hiệu Đạo Quang thứ hai mươi bảy. Hàm Hư Tử
soạn.)
* Đạo Quang là vua thứ
bảy triều nhà Thanh (Trung Quốc). Ông sinh năm 1782, mất năm 1850, trị vì
1821-1850. Vậy bản kinh này do Hàm Hư Tử soạn vào năm 1848.
* Hàm Hư Tử
tức là Tử Hà Chân Nhân. Tử Hà cho rằng ai có một điểm Chân hiển lộ khác thường
thì người đó gọi là hàm Hư tử, nghĩa
là kẻ hàm chứa Hư trong mình: Nhất Chân đặc
lộ, thử nhân danh hàm Hư tử.([5])
(3) Bên trái nhan đề in một dòng xuôi xuống, gồm mười
ba chữ Hán: Long An
Vĩnh Nguyên Tự hậu học Tín Mẫn Đường quyên tư ấn.([6])
(Hậu học chùa Vĩnh Nguyên [tại làng] Long An là Tín Mẫn Đường quyên tiền
in sách.)
* Tín Mẫn Đường có lẽ là tên một nhà
thuốc bắc.
(4) Hàng ngang trên cùng,
đọc từ trái sang phải là: Khải Định thập
niên bồ nguyệt trùng tuyên.([7]) (Khắc bản in lại vào tháng năm niên hiệu
Khải Định thứ mười.)
* Trùng tuyên là khắc ván để làm lại bản in mới (trùng là làm lại lần nữa; tuyên là khắc bản in trên ván).
* Ngày tết Đoan Ngọ (mùng
năm tháng năm âm lịch) người Trung Quốc có tục dùng lá bạch xương bồ ([8]) cắt
thành hình lưỡi gươm gọi là bồ kiếm và
treo trên cửa cùng với nắm lá dâu để làm bùa trừ tà. Vì thế tháng năm âm lịch
còn gọi là bồ nguyệt.
* Khải Định
là vua thứ mười hai triều nhà Nguyễn, sinh 1885, lên ngôi 1916, mất 1925, trị
vì mười năm. Vậy quyển Huỳnh
Đình Nội Cảnh Ngọc Kinh Tường Chú này do môn sanh Vĩnh Nguyên Tự in lại tại Chợ Lớn vào trong khoảng
từ hạ tuần tháng 6 tới trung tuần tháng 7-1925. Một năm sau thời điểm ấy, môn sanh Vĩnh Nguyên Tự mới biết đạo Cao Đài.
Theo Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, quyển thứ Nhứt,
vào đầu tháng 4 (Avril) năm 1926 có hai đàn cơ được lập tại Vĩnh Nguyên Tự:
- Vĩnh Nguyên Tự, 7 Avril 1926
Ngọc Hoàng Thượng Ðế
viết Cao Ðài Tiên
Ông Ðại Bồ Tát Ma Ha Tát
giáo ÐạoNam
Phương
giáo Ðạo
Nhiên Ðăng Cổ
Phật thị Ngã.
Thích Ca Mâu Ni, thị Ngã.
Thái Thượng Nguơn Thỉ thị Ngã.
Kim viết Cao Ðài.
Thích Ca Mâu Ni Phật giáng cơ
Thích Ca Mâu Ni
Phật chuyển Phật Ðạo, chuyển Phật Giáo, chuyển Phật Tăng quy nguyên Ðại Ðạo.
Tri hồ chư chúng sanh!
Khánh hỷ! Khánh hỷ!
Hội đắc Tam Kỳ Phổ Độ, chư Thần Thánh Tiên Phật đại hỷ phát đại tiếu. Ngã vô lự
tam đồ chi khổ. Khả tùng giáo Ngọc Ðế viết Cao Ðài Ðại Bồ Tát Ma Ha Tát.
CAO ÐÀI
Lịch! Con nghe
Phật Như Lai nói chưa?
(…) Phải mặc y
phục như [Lê Văn] Trung, mà màu hồng.
* Lịch tức là
tiền bối Lê Văn Lịch (1890-1947), nhục tử của Thái Lão Sư Lê Đạo Long
(1843-1913). Thái Lão Sư thế danh là Lê Văn Tiểng, sáng lập Vĩnh Nguyên Tự
(1908).
Trước khi tiền bối Lê Văn Lịch nhập môn Cao Đài, tại Vĩnh
Nguyên Tự ngày 20-01 Bính Dần (04-3-1926), Đức Cao Đài dạy: “Lịch, Ta cho
Tiểng là cha ngươi nhập cơ.”
Đây là lần giáng đàn đầu tiên của Đức Thái Lão Sư và Ngài
cho biết đã đắc đạo quả là Như Ý Đạo Thoàn Chơn Nhơn. Theo Đạo Sử Xây Bàn của nữ Đầu Sư Hương Hiếu (1887-1971), hôm ấy Đức
Chơn Nhơn dạy như sau:
“Ngọc Đế cảm xúc công quả thậm đa, bất lưu luân hồi tái
thế, phú Thái Ất Chơn Quân độ dẫn, thọ đắc Như Ý Đạo Thoàn Chơn Nhơn tại Tây
phương cực lạc.” ([9])
(Đức Ngọc Đế cảm thương ta công quả rất
nhiều, không cho ta luân hồi trở lại thế gian, cho Đức Thái Ất Chơn Quân độ dẫn
ta, đắc quả Như Ý Đạo Thoàn Chơn Nhơn ở cõi cực lạc phương Tây.)
Sau đàn cơ ngày 08-4-1926 nói trên, tiền bối Lê Văn
Lịch và nhiều môn sanh chi Minh Đường (Vĩnh Nguyên Tự) nhập môn Cao Đài.
Theo lệnh Đức Cao Đài, tiền bối Lê Văn Trung
(1876-1934) đến khai đàn thượng tượng cho tiền bối Lê Văn Lịch vào ngày
10-4-1926. Đến ngày 26-4-1926, tiền bối Lê Văn Lịch được Đức Cao Đài phong phẩm
vị là Đầu Sư phái Ngọc (phái Nho, thiên phục màu đỏ), thánh danh Ngọc Lịch
Nguyệt. Việc tiền bối mặc thiên phục màu đỏ đã được Đức Cao Đài dạy trước đó,
vào ngày 08-4-1926, như thánh giáo dẫn trên.
* Tiền bối Lê Văn Lịch nhập môn Cao Đài vào trung
tuần tháng 4-1926. Quyển Huỳnh Đình Nội Cảnh Ngọc Kinh Tường Chú do môn sanh chùa Vĩnh
Nguyên in vào tháng 6 hay tháng 7-1925. Bài xưng tán Đức Thái Thượng Đạo Quân trong nghi thức
cúng tứ thời của đạo Cao Đài do tiền bối Lê Văn Lịch vâng lệnh Đức Chí Tôn soạn
lại đã căn cứ theo nghi thức tụng kinh Huỳnh Đình. Tôi tạm mượn bốn chữ mở đầu
làm nhan đề bài xưng tán này, gọi là bài Tiên
Thiên Khí Hóa.
II. NGUỒN GỐC BÀI TIÊN
THIÊN KHÍ HÓA
Mở đầu quyển
Huỳnh Đình Nội Cảnh Ngọc Kinh Tường Chú, có in Huỳnh Đình Nội Cảnh Khoa Nghi từ trang
2a. Cuối trang 2b có câu văn công thức Chí tâm quy mạng lễ, qua trang 3a có sáu dòng gồm 128 chữ Hán, được chấm câu như sau:
Tiên thiên hóa khí, Thái Thượng Lão Quân, thánh bất khả tri, công bất
khả nghị, vô vi cư Thái Cực chi tiền, hữu thỉ siêu thứ vật chi thượng, nhị ngoạt
thập ngũ giáng sanh, nhứt thân ức vạn
thần biến, tử khí đông lai, truyền Đạo Đức ư Quan Doãn, lưu sa tây độ, hóa tướng
pháp vi Thế Tôn, sản Tất [Viên] ([10]) Phương Sóc chi bối đơn
tích vi mang, khai thiên địa nhơn vật chi tiên, Đạo kinh hạo kiếp, càn khôn oát
vận, nhựt nguyệt quang minh, chí thần chí thánh, chí thượng chí tôn [,] chí đại
vô ngung, chí cao vô ký, chưởng đạo lập
đức Đại Thiên Tôn, thập phương tam giới đồng xưng dương, động thiên phước địa
tề thanh tụng.([11])
Tôi tìm
thấy một vài dị bản hiện có trên Internet. Đáng nói hơn cả là có một bản văn chỉ
khác biệt không đáng kể, đăng tải ngày 11-4-2009 tại http://blog.xuite.net/kuo.winny/bloga/23288347. Xuite tức là chữ Sweet (tiếng
Anh).
Trang blog (nhật
ký) này đăng bài Thái Thượng Huỳnh Đình
Kinh. Trước tiên là Khai Kinh Huyền Uẩn Chú; kế tiếp
là Huỳnh Đình Chơn Ngôn rồi tới câu văn công thức Chí tâm quy mạng lễ mở đầu bài văn tụng gồm 130 chữ như sau (không
chấm câu):
Tiên thiên hóa khí Thái Thượng Lão Quân thánh bất khả tri
công bất khả nghị vô vi cư Thái Cực chi tiền hữu thỉ siêu thứ vật chi thượng nhị
ngoạt thập ngũ nhựt giáng sanh nhứt thần ức vạn thần biến tử khí đông lai
truyền Đạo Đức ư Quan Doãn lưu sa tây độ hóa pháp tướng vi Thế Tôn sản Tất Viên
Phương Sóc chi bối khai thiên địa nhơn lão
chi tiên Đạo kinh hạo kiếp càn khôn oát vận nhựt nguyệt quang minh chí thần chí
thánh chí thượng chí tôn chí đại vô ngung chí cao vô ký thập phương tam giới đồng
xưng dương động thiên phước địa tề thanh tụng chưởng đạo lập đức Đại Thiên Tôn (tam xưng cửu khấu).([12])
So sánh bản in của Vĩnh
Nguyên Tự (1925) và bản tại blog Xuite (2009), ta thấy:
Bản Vĩnh Nguyên Tự
|
Bản tại blog Xuite
|
nhị ngoạt thập ngũ
|
nhị ngoạt thập ngũ nhựt
|
hóa tướng pháp
|
hóa pháp tướng
|
sản Tất [in sót chữ Viên]
|
sản Tất Viên
|
nhơn vật chi tiên
|
nhơn lão chi tiên
|
“chưởng
đạo lập đức Đại Thiên Tôn” được đặt gần cuối bài.
|
“chưởng
đạo lập đức Đại Thiên Tôn” được đặt ngay cuối bài.
|
III. ĐỐI CHIẾU BẢN GỐC HUỲNH ĐÌNH NỘI CẢNH KHOA NGHI TRONG ĐẠO
LÃO VỚI BÀI TIÊN THIÊN KHÍ HÓA TRONG
ĐẠO CAO ĐÀI
ĐẠO LÃO
|
ĐẠO CAO ĐÀI
|
Tiên thiên hóa khí
|
Tiên
thiên khí hóa
|
Thái Thượng Lão Quân
|
Thái
Thượng Ðạo Quân
|
thánh bất khả tri, công bất khả nghị, vô vi cư Thái Cực chi tiền
|
Thánh
bất khả tri / Công bất khả nghị / Vô vi cư Thái Cực chi tiền
|
hữu thỉ siêu thứ vật chi thượng
|
Hữu
thỉ siêu quần chơn chi thượng
|
Ðạo
cao nhứt khí / Diệu hóa Tam Thanh / Đức hoán hư linh / Pháp siêu quần Thánh
|
|
nhị ngoạt thập ngũ giáng sanh
|
Nhị
ngoạt thập ngũ phân tánh giáng sanh
|
nhứt thân ức vạn thần biến
|
Nhứt
thân ức vạn diệu huyền thần
biến
|
tử khí đông lai
|
Tử
khí đông lai
|
truyền Đạo Đức ư Quan Doãn
|
Quảng
truyền Ðạo Ðức
|
lưu sa tây độ
|
Lưu
sa tây độ
|
hóa tướng pháp vi Thế Tôn
|
Pháp hóa tướng
tông
|
sản Tất [Viên] Phương Sóc chi bối, đơn
tích vi mang, khai thiên địa nhơn vật chi tiên, Đạo kinh hạo kiếp, càn khôn
oát vận
|
Sản
Tất Viên, Phương Sóc chi bối, Ðơn tích vi mang / Khai thiên địa nhơn vật chi
tiên, Ðạo kinh hạo kiếp / Càn khôn oát vận
|
nhựt nguyệt quang minh
|
Nhựt
nguyệt chi quang
|
chí thần chí thánh
|
Ðạo pháp bao la
|
chí thượng chí tôn
|
Cửu Hoàng Tỷ Tổ
|
chí đại vô ngung, chí cao vô ký
|
Ðại thiên thế giới
dương tụng từ ân
|
chưởng đạo lập đức Đại Thiên Tôn
|
Vĩnh kiếp quần
sanh ngưỡng kỳ huệ đức
|
thập phương tam giới đồng xưng dương
|
Ðại thần đại
thánh, chí cực chí tôn
|
động thiên phước địa tề thanh tụng
|
Tiên Thiên Chánh
Nhứt Thái Thượng Ðạo Quân Chưởng Giáo Thiên Tôn
|
Bảng đối chiếu trên đây cho thấy tiền bối Ngọc Lịch
Nguyệt đã sửa đổi khá nhiều bản văn gốc. Như thế, tiền bối thật sự tạo thêm một
dị bản khác. Điều này xét ra hoàn
toàn bình thường, vì lẽ các bài kinh cúng thuộc loại khoa nghi 科儀 giống như một công thức mở đầu các quyển kinh của đạo
Lão bắt nguồn từ Trung Quốc và truyền đi các nước, xưa nay vẫn có nhiều dị bản.
Chỉ cần gõ lại một số chữ Hán để truy cập trên Internet, chúng ta dễ dàng tìm
thấy các dị bản với nhiều mức độ từ ít tới nhiều.
Quan trọng là nhờ có bản gốc như nói trên, chúng ta
thuận tiện hơn khi chú giải bài kinh cúng tứ thời xưng tán Đức Thái Thượng Đạo Quân
trong đạo Cao Đài.
([11]) 先 天 化 炁 , 太 上 老 君 , 聖 不 可 知 , 功 不 可 議 , 無 為 居 太 極 之 前 , 有 始 超 庶 物 之 上 , 二 月 十 五 降 生 , 一 身
億 萬 神 變 , 紫 氣 東 來 , 傳 道 德 於 關 尹 , 流 沙 西 度 , 化 相 法 為 世 尊 , 產 漆 [園] 方 朔 之 輩 丹 析 微 芒 , 開 天 地 人 物 之 先 , 道 經 浩 劫 , 乾 坤 斡 運 , 日 月 光 明 , 至 神 至 聖 , 至 上 至 尊 [,] 至 大 無 隅 , 至 高 無 既 , 掌 道 立 德 大 天 尊 , 十 方 三 界 同 稱 揚 , 洞 天 福 地 齊 聲 頌 .