GEYA: DẤU ẤN CỦA ĐẠO PHẬT TRONG THÁNH GIÁO CAO ĐÀI
Bổ sung cho một số điều cần lưu ý khi bình giảng thánh giáo, như đã trình bày ở phần trước, sau đây tôi trích lại hai bài đã in trong quyển Một Góc Nhìn Văn Hóa Cao Đài (Hà Nội: Nxb Tôn Giáo 2011, tr. 23-30, và 188-200):
- Geya: Dấu Ấn Của Đạo
Phật Trong Thánh Giáo Cao Đài
- Vài Biện Pháp Tu Từ
Trong Thánh Giáo Cao Đài
Tôi chân thành cảm ơn:
- Hiền huynh Nguyễn Công Khánh (Phó Đoàn 2, Đoàn Phổ Tế Lưu
Động) cho phép trích và in lại đây bài Đôi Nét Giới Thiệu Đoàn Phổ Tế
Lưu Động Thuộc Hội Thánh Truyền Giáo Cao Đài.
- Hiền huynh Nguyễn Thế Tuấn (Trưởng Ban Phổ Tế, thánh thất
Trung Hải, Đà Nẵng) đã tặng các ảnh chụp buổi sinh hoạt của Đoàn Phổ Tế Lưu
Động tại thánh thất Từ Vân (Phú Nhuận) ngày 05-3-2016.
GEYA: DẤU ẤN CỦA ĐẠO PHẬT
TRONG THÁNH GIÁO CAO ĐÀI
Đức Phật Thích Ca có mười tôn hiệu: Như Lai,
Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ
Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn.
Trong đó, tôn hiệu thứ tám là Thiên Nhân Sư (bậc thầy của cả cõi người và cõi trời). Vị thầy siêu
phàm ấy áp dụng một nghệ thuật sư phạm riêng trong suốt bốn mươi lăm năm hoằng
giáo độ nhân trước khi nhập niết bàn.
Theo
kinh Đại Bát Niết Bàn, Đức Phật từng cho môn đệ biết phần nào nghệ thuật
sư phạm của Ngài:
Như mười hai bộ kinh mà ta đã từng thuyết,
có khi ta nương theo ý ta mà thuyết, có khi ta nương theo ý người mà thuyết,
lại có khi ta vừa nương theo ý ta và ý người mà thuyết.([1])
Mười hai bộ kinh cũng gọi thập nhị đại
thừa kinh, là mười hai thể loại kinh đại thừa.([2])
Theo kinh Đại Bát Niết
Bàn, mười hai bộ kinh hay thể loại kinh đại thừa gồm có:
1. Sūtra: tu đa la,
khế kinh, kinh trường hàng.
2. Geya: kỳ dạ,
trùng tụng, ứng tụng.
3. Vyākarana: thọ
ký.
4. Gāthā: phúng
tụng, cô khởi tụng.
5. Udāna: tự
thuyết.
6. Nidāna: nhơn
duyên.
7. Avadāna: thí dụ.
8. Itivrttaka: bổn
sự.
9. Jātaka: bổn
sanh.
10. Vaipulya:
phương quảng.
11. Adbhuta-dharma: vị tằng hữu.
12. Upadesa: luận nghị, thuyết về lý luận.([3])
Sūtra được Đức Phật diễn đạt bằng văn
xuôi. Sau
khi được các đại đệ tử kết tập, khế kinh thường mở đầu bằng công thức Như
thị ngã văn; và thường kết thúc bằng công thức Hoan hỷ phụng hành.
Kinh
Đại Bát Niết Bàn chép một thí dụ về khế kinh như sau:
Phật bảo các tỳ kheo, ngày xưa ta cùng các ông
ngu si không trí huệ, chẳng thể thấy bốn chân đế đúng như thật, nên lưu chuyển
mãi trong biển khổ sanh tử. Bốn chân đế là: khổ đế, tập đế, diệt đế, và đạo đế.([4])
Đức
Phật dạy xong, có một số người đến chậm, không kịp nghe lời ấy. Kinh Đại Bát
Niết Bàn thuật:
Ngày xưa Đức Phật vì các tỳ kheo nói khế kinh
xong lại có hàng chúng sanh căn trí sáng tỏ, vì muốn nghe pháp nên đến chỗ
Phật, hỏi mọi người: Đức Như Lai vừa rồi nói gì? ([5])
Câu
hỏi “Đức Như Lai vừa rồi nói gì?” của những người đến trễ tuy không trực tiếp
bạch với Đức Phật, nhưng Ngài vẫn biết được lòng chúng sanh (tha tâm thông), nên đã “nương theo ý
người mà thuyết” lần nữa.
Tuy
nhiên, để những người vừa mới nghe thuyết pháp khỏi nhàm chán, Đấng Thiên Nhân
Sư không nhắc lại lời dạy bằng văn xuôi mà dùng kệ (văn vần). Kinh Đại Bát Niết Bàn chép:
Lúc đó Phật
vì hàng chúng sanh ấy đem kinh vừa giảng nói thành kệ tụng:
Ta xưa cùng các ông,
Chẳng thấy bốn chân đế,
Nên phải lưu chuyển mãi,
Trong biển khổ sanh tử.
Nếu thấy được bốn đế,
Thời dứt đặng sanh tử,
Sanh tử đã hết rồi,
Theo kinh Đại Bát Niết Bàn, kệ tụng trên gọi là:
- Kỳ dạ: phiên âm từ Geya (tiếng Sanskrit).
- Trùng tụng: tụng lại lần nữa.
- Ứng tụng: Đức Phật nương theo ý chúng sanh mà thuyết
pháp lại.([7])
*
Theo sử quan Cao Đài, lịch sử triết giáo nhân loại gồm ba
thời kỳ (tam kỳ, tam nguyên):
Nhất Kỳ Phổ Độ từ thời thượng cổ tới khoảng nửa đầu thế kỷ 7
trước Công Nguyên (TCN). Đức Nhiên Đăng Cổ Phật và Moses (Do Thái Giáo)… thuộc
Nhất Kỳ Phổ Độ.
Nhị Kỳ Phổ Độ từ nửa sau thế kỷ 7 TCN tới nửa đầu thế kỷ 19.
Các tôn giáo tiêu biểu trong kỳ phổ độ lần thứ hai gồm: Thích Ca Giáo, Ki Tô
Giáo, Hồi Giáo, Bái Hỏa Giáo...([8])
Tam Kỳ Phổ Độ từ nửa sau thế kỷ 19 trở đi.
Thời đại Đức Phật Thích Ca là Nhị Kỳ Phổ Độ. Tinh hoa đạo
Phật Nhị Kỳ Phổ Độ được thừa kế và phát huy trong Tam Kỳ Phổ Độ qua phương tiện
là đạo Cao Đài. Nói cách khác, bên cạnh đạo Nho (Khổng) và đạo Tiên (Lão), đạo
Phật (Thích) đã có dấu ấn trong đạo Cao Đài. Người nghiên cứu tùy theo định
hướng sẽ tìm thấy những dấu ấn của Tam Giáo trong Cao Đài ở nhiều mặt khác
nhau.
Về mặt thuyết pháp, một dấu ấn của đạo Phật là thể loại trùng
tụng được tái hiện trong thánh giáo Cao Đài, phối hợp thể thơ lục bát hay song
thất lục bát của người Việt.
Để dẫn chứng, có thể tham khảo Thánh Giáo Sưu Tập năm
Bính Ngọ và Đinh Mùi (1966-1967).([9])
Đức Ngôi Hai Giáo Chủ Ngô Minh Chiêu,([10])
tại thánh thất Nam Thành,([11])
ngày 13-02 Bính Ngọ (04-3-1966), đã dùng văn xuôi “để giải thích danh từ Cơ Quan
Phổ Thông Giáo Lý Cao Đài Giáo Việt Nam.” ([12])
Trích
một đoạn (giải chữ Lý):
Chữ Lý nơi đây cần hiểu rõ thêm rằng, từ thuở
chưa dựng nên trời đất, ở trong khoảng không gian có một khối khí thanh, mờ
mịt, yên lặng, trống không, mà vẫn vần vần khắp chốn. trong cái khối ấy có một
điểm sáng, đó là Lý, mà cũng là ngôi Thái Cực. Lý biến hóa âm dương. Âm dương
ngưng tụ tạo thành càn khôn vạn vật. Lão Tử tạm gọi là Đạo, vì sự cao siêu mầu
nhiệm, biến hóa vô cùng, gượng kêu là Đại Đạo. Lý là Đại Đạo...([13])
Hơn nửa tháng sau đàn cơ dẫn trên, tại thánh tịnh Ngọc Minh
Đài,([14])
ngày 01-3 Bính Ngọ (22-3-1966), Đức Ngô “còn muốn giải thích bằng loại ngâm khúc”,
với mục đích “phổ biến cho toàn Đạo dễ đọc, dễ nhớ”.([15])
Trích
một đoạn (trùng tụng chữ Lý) như sau:
Thuở chưa dựng nên ngôi
trời đất,
Khoảng không gian mịt mịt mờ mờ,
Hồn nhiên một khối ban sơ,
Vần vần luân chuyển gồm cơ nhiệm mầu.
Khí khinh khinh rộng sâu tỏa khắp,
Ánh huyền huyền bền chặt lưu hành,
Vô hình, vô tình, vô danh,
Tượng một điểm tựu trung duy nhứt,
Là Lý, ngôi Thái Cực Thánh Hoàng,
Vận hành phân khí tạo đoan,
Giữa
những năm 1930, thể trùng tụng đã thấy trong Đại Thừa Chơn Giáo. Chẳng
hạn, ngày 02-8 Bính Tý (1936),([18])
Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế dạy:
Đạo là gì? Đạo là hư vô chi khí. Đạo rất mầu
nhiệm, sâu kín cao siêu. Trước khi chưa có trời đất đã có Đạo. Vậy Đạo đã tạo
dựng nên càn khôn võ trụ, hóa sanh vạn vật muôn loài. Muôn loài vạn vật phải
thọ bẩm khí hư vô mà sanh hóa mãi.
Lời
trùng tụng (thể lục bát) cho đoạn văn trên:
Đạo mầu sản tạo càn khôn
Hư vô chi khí Chí Tôn chưởng quyền
Hóa sanh Phật Thánh Thần Tiên
Muôn loài vạn vật lưu truyền thỉ chung
Đạo vô tận, Đạo vô cùng
Đạo là Mẹ đẻ khắp chung muôn loài.
Tóm lại, nhờ trùng tụng, một vấn đề uyên áo được
giảng thêm lần nữa; văn vần soi chiếu văn xuôi, văn xuôi giải lý văn vần, hai
chiều tương tác giúp con người dễ lãnh hội ý nghĩa sâu kín của thánh giáo.
Là một nghệ thuật thuyết pháp của Đức Phật, trùng tụng được
vận dụng lại trong thánh giáo Cao Đài với thể thơ lục bát hoặc song thất lục bát
nhuần nhụy Việt Nam .
Điều này ít nhiều góp phần cho thấy một khía cạnh về tính dân tộc của đạo Cao
Đài. Người nghiên cứu Cao Đài có thể khảo lại kinh sách Cao Đài để tiếp tục xác
định thêm nhiều vấn đề khác, như:
- Trùng tụng lần đầu tiên được tái hiện trong thánh giáo Cao
Đài khi nào?
- Ngoài lục bát và song thất lục bát, còn có thể thơ nào
khác?
- Tìm dấu ấn của đạo Phật trong Cao Đài, ngoài các mặt giáo
lý, nghi lễ, giới luật, v.v... vẫn còn có thể khai thác thêm một số chiều hướng
khác, mà bài này là một thí dụ.
12-6-1996
Theo Đoàn Trung Còn, sđd,
tr. 134, mục từ Kỳ Dạ, bài kệ như sau:
Ngã tích dữ nhữ đẳng / Bất kiến tứ
chân đế / Thị cố cửu lưu chuyển / Sanh tử đại khổ hải / Nhược năng kiến tứ đế /
Tất đắc đoạn sanh tử / Sanh hữu ký dĩ tận / Cánh bất thọ chư hữu. 我昔與汝等 / 不見四真諦 / 是故久流轉 / 生死大苦海 / 若能 見四諦 / 必得斷生死 / 生有既已盡 / 更不受諸有
([8]) Quan niệm về trục lịch sử của Karl
Jaspers (1883-1969) phần nào khá trùng hợp với quan niệm Nhị Kỳ Phổ Độ của Cao
Đài. Xem axe de l'histoire trong Introduction à la Philosophie,
Jeanne Hersch dịch, Paris :
Plon, 1961, từ tr. 136; hoặc xem thời trục trong Triết Học Nhập Môn,
Lê Tôn Nghiêm dịch, Sài Gòn: Trung Tâm Học Liệu, 1969, từ tr. 109.
([12]) Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý Cao Đài
Giáo Việt Nam thành lập năm Ất Tỵ (1965), không thuộc một hội thánh, tổ chức
nào; không thâu nhận tín đồ, không lập thành hàng ngũ chức sắc, nên cũng không
phải là một chi phái. Đứng đầu là Tổng Lý Minh Đạo. Danh xưng hiện nay là Cơ
Quan Phổ Thông Giáo Lý Đại Đạo (số 171B Cống Quỳnh, quận 1).
([18]) Đại
Thừa Chơn Giáo. Hà Nội: Nxb Tôn Giáo 2011,
tr. 38-39. (Quyển số 36 trong Chương Trình Chung Tay
Ấn Tống Kinh Sách Cao Đài.)
► Quý đạo hữu gần xa muốn nhận các kinh sách do Chương
Trình Chung Tay Ấn Tống Kinh Sách Đại Đạo xuất bản, được gởi biếu qua bưu điện,
xin vui lòng gởi e-mail về: daidaovanuyen@gmail.com
Và xin quý đạo hữu hoan hỷ trả giúp cước phí cho bưu điện ngay khi nhận được sách biếu.
Và xin quý đạo hữu hoan hỷ trả giúp cước phí cho bưu điện ngay khi nhận được sách biếu.
Ban Ấn Tống trân trọng cảm ơn quý đạo hữu.