Thứ Tư, 27 tháng 4, 2016

100/7. GEYA: DẤU ẤN CỦA ĐẠO PHẬT TRONG THÁNH GIÁO CAO ĐÀI / Đôi Điều Về Bình Giảng Thánh Giáo


GEYA: DẤU ẤN CỦA ĐẠO PHẬT TRONG THÁNH GIÁO CAO ĐÀI

Bổ sung cho một số điều cần lưu ý khi bình giảng thánh giáo, như đã trình bày ở phần trước, sau đây tôi trích lại hai bài đã in trong quyển Một Góc Nhìn Văn Hóa Cao Đài (Hà Nội: Nxb Tôn Giáo 2011, tr. 23-30, và 188-200):
- Geya: Dấu Ấn Của Đạo Phật Trong Thánh Giáo Cao Đài
- Vài Biện Pháp Tu Từ Trong Thánh Giáo Cao Đài
Tôi chân thành cảm ơn:
- Hiền huynh Nguyễn Công Khánh (Phó Đoàn 2, Đoàn Phổ Tế Lưu Động) cho phép trích và in lại đây bài Đôi Nét Giới Thiệu Đoàn Phổ Tế Lưu Động Thuộc Hội Thánh Truyền Giáo Cao Đài.
- Hiền huynh Nguyễn Thế Tuấn (Trưởng Ban Phổ Tế, thánh thất Trung Hải, Đà Nẵng) đã tặng các ảnh chụp buổi sinh hoạt của Đoàn Phổ Tế Lưu Động tại thánh thất Từ Vân (Phú Nhuận) ngày 05-3-2016.
GEYA: DẤU ẤN CỦA ĐẠO PHẬT
TRONG THÁNH GIÁO CAO ĐÀI
Đức Phật Thích Ca có mười tôn hiệu: Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn.
Trong đó, tôn hiệu thứ tám là Thiên Nhân Sư (bậc thầy của cả cõi người và cõi trời). Vị thầy siêu phàm ấy áp dụng một nghệ thuật sư phạm riêng trong suốt bốn mươi lăm năm hoằng giáo độ nhân trước khi nhập niết bàn.
Theo kinh Đại Bát Niết Bàn, Đức Phật từng cho môn đệ biết phần nào nghệ thuật sư phạm của Ngài:
Như mười hai bộ kinh mà ta đã từng thuyết, có khi ta nương theo ý ta mà thuyết, có khi ta nương theo ý người mà thuyết, lại có khi ta vừa nương theo ý ta và ý người mà thuyết.([1])
Mười hai bộ kinh cũng gọi thập nhị đại thừa kinh, là mười hai thể loại kinh đại thừa.([2])
Theo kinh Đại Bát Niết Bàn, mười hai bộ kinh hay thể loại kinh đại thừa gồm có:
1. Sūtra: tu đa la, khế kinh, kinh trường hàng.
2. Geya: kỳ dạ, trùng tụng, ứng tụng.
3. Vyākarana: thọ ký.
4. Gāthā: phúng tụng, cô khởi tụng.
5. Udāna: tự thuyết.
6. Nidāna: nhơn duyên.
7. Avadāna: thí dụ.
8. Itivrttaka: bổn sự.
9. Jātaka: bổn sanh.
10. Vaipulya: phương quảng.
11. Adbhuta-dharma: vị tằng hữu.
12. Upadesa: luận nghị, thuyết về lý luận.([3])
Sūtra được Đức Phật diễn đạt bằng văn xuôi. Sau khi được các đại đệ tử kết tập, khế kinh thường mở đầu bằng công thức Như thị ngã văn; và thường kết thúc bằng công thức Hoan hỷ phụng hành.
Kinh Đại Bát Niết Bàn chép một thí dụ về khế kinh như sau:
Phật bảo các tỳ kheo, ngày xưa ta cùng các ông ngu si không trí huệ, chẳng thể thấy bốn chân đế đúng như thật, nên lưu chuyển mãi trong biển khổ sanh tử. Bốn chân đế là: khổ đế, tập đế, diệt đế, và đạo đế.([4])
Đức Phật dạy xong, có một số người đến chậm, không kịp nghe lời ấy. Kinh Đại Bát Niết Bàn thuật:
Ngày xưa Đức Phật vì các tỳ kheo nói khế kinh xong lại có hàng chúng sanh căn trí sáng tỏ, vì muốn nghe pháp nên đến chỗ Phật, hỏi mọi người: Đức Như Lai vừa rồi nói gì? ([5])
Câu hỏi “Đức Như Lai vừa rồi nói gì?” của những người đến trễ tuy không trực tiếp bạch với Đức Phật, nhưng Ngài vẫn biết được lòng chúng sanh (tha tâm thông), nên đã “nương theo ý người mà thuyết” lần nữa.
Tuy nhiên, để những người vừa mới nghe thuyết pháp khỏi nhàm chán, Đấng Thiên Nhân Sư không nhắc lại lời dạy bằng văn xuôi mà dùng kệ (văn vần). Kinh Đại Bát Niết Bàn chép:
Lúc đó Phật vì hàng chúng sanh ấy đem kinh vừa giảng nói thành kệ tụng:
Ta xưa cùng các ông,
Chẳng thấy bốn chân đế,
Nên phải lưu chuyển mãi,
Trong biển khổ sanh tử.
Nếu thấy được bốn đế,
Thời dứt đặng sanh tử,
Sanh tử đã hết rồi,
Chẳng còn thọ thêm nữa.([6])
Theo kinh Đại Bát Niết Bàn, kệ tụng trên gọi là:
- Kỳ dạ: phiên âm từ Geya (tiếng Sanskrit).
- Trùng tụng: tụng lại lần nữa.
- Ứng tụng: Đức Phật nương theo ý chúng sanh mà thuyết pháp lại.([7])
*
Theo sử quan Cao Đài, lịch sử triết giáo nhân loại gồm ba thời kỳ (tam kỳ, tam nguyên):
Nhất Kỳ Phổ Độ từ thời thượng cổ tới khoảng nửa đầu thế kỷ 7 trước Công Nguyên (TCN). Đức Nhiên Đăng Cổ Phật và Moses (Do Thái Giáo)… thuộc Nhất Kỳ Phổ Độ.
Nhị Kỳ Phổ Độ từ nửa sau thế kỷ 7 TCN tới nửa đầu thế kỷ 19. Các tôn giáo tiêu biểu trong kỳ phổ độ lần thứ hai gồm: Thích Ca Giáo, Ki Tô Giáo, Hồi Giáo, Bái Hỏa Giáo...([8])
Tam Kỳ Phổ Độ từ nửa sau thế kỷ 19 trở đi.
Thời đại Đức Phật Thích Ca là Nhị Kỳ Phổ Độ. Tinh hoa đạo Phật Nhị Kỳ Phổ Độ được thừa kế và phát huy trong Tam Kỳ Phổ Độ qua phương tiện là đạo Cao Đài. Nói cách khác, bên cạnh đạo Nho (Khổng) và đạo Tiên (Lão), đạo Phật (Thích) đã có dấu ấn trong đạo Cao Đài. Người nghiên cứu tùy theo định hướng sẽ tìm thấy những dấu ấn của Tam Giáo trong Cao Đài ở nhiều mặt khác nhau.
Về mặt thuyết pháp, một dấu ấn của đạo Phật là thể loại trùng tụng được tái hiện trong thánh giáo Cao Đài, phối hợp thể thơ lục bát hay song thất lục bát của người Việt.
Để dẫn chứng, có thể tham khảo Thánh Giáo Sưu Tập năm Bính Ngọ và Đinh Mùi (1966-1967).([9]) Đức Ngôi Hai Giáo Chủ Ngô Minh Chiêu,([10]) tại thánh thất Nam Thành,([11]) ngày 13-02 Bính Ngọ (04-3-1966), đã dùng văn xuôi “để giải thích danh từ Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý Cao Đài Giáo Việt Nam.” ([12])
Trích một đoạn (giải chữ Lý):
Chữ Lý nơi đây cần hiểu rõ thêm rằng, từ thuở chưa dựng nên trời đất, ở trong khoảng không gian có một khối khí thanh, mờ mịt, yên lặng, trống không, mà vẫn vần vần khắp chốn. trong cái khối ấy có một điểm sáng, đó là Lý, mà cũng là ngôi Thái Cực. Lý biến hóa âm dương. Âm dương ngưng tụ tạo thành càn khôn vạn vật. Lão Tử tạm gọi là Đạo, vì sự cao siêu mầu nhiệm, biến hóa vô cùng, gượng kêu là Đại Đạo. Lý là Đại Đạo...([13])
Hơn nửa tháng sau đàn cơ dẫn trên, tại thánh tịnh Ngọc Minh Đài,([14]) ngày 01-3 Bính Ngọ (22-3-1966), Đức Ngô “còn muốn giải thích bằng loại ngâm khúc”, với mục đích “phổ biến cho toàn Đạo dễ đọc, dễ nhớ”.([15])
Trích một đoạn (trùng tụng chữ Lý) như sau:
Thuở chưa dựng nên ngôi trời đất,
Khoảng không gian mịt mịt mờ mờ,
Hồn nhiên một khối ban sơ,
Vần vần luân chuyển gồm cơ nhiệm mầu.
Khí khinh khinh rộng sâu tỏa khắp,
Ánh huyền huyền bền chặt lưu hành,
Vô hình, vô tình, vô danh,
Cưỡng viết Đại Đạo ([16]) hóa sanh vô cùng.
Tượng một điểm tựu trung duy nhứt,
Là Lý, ngôi Thái Cực Thánh Hoàng,
Vận hành phân khí tạo đoan,
Âm dương ngưng tụ thế gian lập thành...([17])
Giữa những năm 1930, thể trùng tụng đã thấy trong Đại Thừa Chơn Giáo. Chẳng hạn, ngày 02-8 Bính Tý (1936),([18]) Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế dạy:
Đạo là gì? Đạo là hư vô chi khí. Đạo rất mầu nhiệm, sâu kín cao siêu. Trước khi chưa có trời đất đã có Đạo. Vậy Đạo đã tạo dựng nên càn khôn võ trụ, hóa sanh vạn vật muôn loài. Muôn loài vạn vật phải thọ bẩm khí hư vô mà sanh hóa mãi.
Lời trùng tụng (thể lục bát) cho đoạn văn trên:
Đạo mầu sản tạo càn khôn
Hư vô chi khí Chí Tôn chưởng quyền
Hóa sanh Phật Thánh Thần Tiên
Muôn loài vạn vật lưu truyền thỉ chung
Đạo vô tận, Đạo vô cùng
Đạo là Mẹ đẻ khắp chung muôn loài.
Tóm lại, nhờ trùng tụng, một vấn đề uyên áo được giảng thêm lần nữa; văn vần soi chiếu văn xuôi, văn xuôi giải lý văn vần, hai chiều tương tác giúp con người dễ lãnh hội ý nghĩa sâu kín của thánh giáo.
Là một nghệ thuật thuyết pháp của Đức Phật, trùng tụng được vận dụng lại trong thánh giáo Cao Đài với thể thơ lục bát hoặc song thất lục bát nhuần nhụy Việt Nam. Điều này ít nhiều góp phần cho thấy một khía cạnh về tính dân tộc của đạo Cao Đài. Người nghiên cứu Cao Đài có thể khảo lại kinh sách Cao Đài để tiếp tục xác định thêm nhiều vấn đề khác, như:
- Trùng tụng lần đầu tiên được tái hiện trong thánh giáo Cao Đài khi nào?
- Ngoài lục bát và song thất lục bát, còn có thể thơ nào khác?
- Tìm dấu ấn của đạo Phật trong Cao Đài, ngoài các mặt giáo lý, nghi lễ, giới luật, v.v... vẫn còn có thể khai thác thêm một số chiều hướng khác, mà bài này là một thí dụ.
12-6-1996




([1]) Đoàn Trung Còn, Phật Học Từ Điển, ba quyển. Sài Gòn: Phật Học Tòng Thơ, 1963, tr. 1310, mục từ Thuyết.
([2]) William Edward Soothill và Lewis Hodous cùng các người khác, Trung-Anh Phật Học Từ Điển. Dictionary of Chinese Buddhist Terms. Đài Bắc: Phật Giáo Văn Hóa Phục Vụ Xứ, 1962, tr. 44a, mục từ Thập Nhị Bộ Kinh.
([3]) Kinh Đại Bát Niết Bàn, Tập 1, Thích Trí Tịnh dịch, 1996, tr. 489; và Đoàn Trung Còn, sách đã dẫn (sđd), tr. 1169, mục từ Thập Nhị Đại Thừa Kinh. Tuy nhiên Soothill, sđd, tr. 44a-b, mục từ Thập Nhị Bộ Kinh, liệt kê với một thứ tự khác hơn trên đây.
([4]) Kinh Đại Bát Niết Bàn, sđd, tr. 489, 490.
([5]) Kinh Đại Bát Niết Bàn, sđd, tr. 490.
([6]) Kinh Đại Bát Niết Bàn, sđd, tr. 490.
Theo Đoàn Trung Còn, sđd, tr. 134, mục từ Kỳ Dạ, bài kệ như sau: Ngã tích dữ nhữ đẳng / Bất kiến tứ chân đế / Thị cố cửu lưu chuyển / Sanh tử đại khổ hải / Nhược năng kiến tứ đế / Tất đắc đoạn sanh tử / Sanh hữu ký dĩ tận / Cánh bất thọ chư hữu. 我昔與汝等 / 不見四真諦 / 是故久流轉 / 生死大苦海 / 若能 見四諦 / 必得斷生死 / 生有既已盡 / 更不受諸有
([7]) Vì thể loại kỳ dạ (văn vần) nối tiếp tu đa la (văn xuôi), nên Soothill giảng geya là: “repeats the ideas of preceding prose passage; preceding prose repeated in verse; repetition in verse of a prose section.” (sđd, tr. 225a, 311a, 317.)
([8]) Quan niệm về trục lịch sử của Karl Jaspers (1883-1969) phần nào khá trùng hợp với quan niệm Nhị Kỳ Phổ Độ của Cao Đài. Xem axe de l'histoire trong Introduction à la Philosophie, Jeanne Hersch dịch, Paris: Plon, 1961, từ tr. 136; hoặc xem thời trục trong Triết Học Nhập Môn, Lê Tôn Nghiêm dịch, Sài Gòn: Trung Tâm Học Liệu, 1969, từ tr. 109.
([9]) Sài Gòn: Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý Cao Đài Giáo Việt Nam, 1968, tr. 37-43. Tái bản tại Nxb Tôn Giáo (Hà Nội, 2010, tr. 69-79).
([10]) Thế danh Ngô Văn Chiêu (1878-1932). Xem thêm: Huệ Khải, Ngô Văn Chiêu – Người Môn Đệ Cao Đài Đầu Tiên. Song ngữ Việt-Anh. Hà Nội: Nxb Tôn Giáo, 2008, 2009, 2012. (Quyển số 2 trong Chương Trình Chung Tay Ấn Tống Kinh Sách Cao Đài.)
([11]) Nay ở số 124-126 Nguyễn Cư Trinh, quận 1.
([12]) Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý Cao Đài Giáo Việt Nam thành lập năm Ất Tỵ (1965), không thuộc một hội thánh, tổ chức nào; không thâu nhận tín đồ, không lập thành hàng ngũ chức sắc, nên cũng không phải là một chi phái. Đứng đầu là Tổng Lý Minh Đạo. Danh xưng hiện nay là Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý Đại Đạo (số 171B Cống Quỳnh, quận 1).
([13]) Thánh Giáo Sưu Tập 1966-1967: bản in Hà Nội 2010, tr. 69.
([14]) Nay ở số 22 Nguyễn Khoái, quận 4, thuộc Hội Thánh Cao Đài Tiên Thiên.
([15]) Thánh Giáo Sưu Tập 1966-1967: bản in Hà Nội 2010, tr. 72.
([16]) Lão Tử, Đạo Đức Kinh, Chương 25: Ta không biết tên là gì, đặt tên chữ cho Nó là Đạo, gượng ép vì Nó gọi tên là Đại. (Ngô bất tri kỳ danh, tự chi viết Đạo, cưỡng vi chi danh viết Đại. 吾不知其名 , 字之曰道 , 強為之名曰大 .)
([17]) Thánh Giáo Sưu Tập 1966-1967: bản in Hà Nội 2010, tr. 72-73.
([18]) Đại Thừa Chơn Giáo. Hà Nội: Nxb Tôn Giáo 2011, tr. 38-39. (Quyển số 36 trong Chương Trình Chung Tay Ấn Tống Kinh Sách Cao Đài.)


 Quý đạo hữu gần xa muốn nhận các kinh sách do Chương Trình Chung Tay Ấn Tống Kinh Sách Đại Đạo xuất bản, được gởi biếu qua bưu điện, xin vui lòng gởi e-mail về: daidaovanuyen@gmail.com
Và xin quý đạo hữu hoan hỷ trả giúp cước phí cho bưu điện ngay khi nhận được sách biếu.
Ban Ấn Tống trân trọng cảm ơn quý đạo hữu.