Thứ Ba, 6 tháng 11, 2018

3. ĐỨC ĐỘ PTG / PHAN THANH GIẢN XƯA VÀ NAY



2. ĐỨC ĐỘ NGÀI PHAN THANH GIẢN
Tháng 8-1925 ông Nguyễn Văn Dần xuất bản Vĩnh Long Nhơn Vật Chí, 76 trang ruột, in lần thứ nhất tại imprimerie Viêt (Sài Gòn), giá bán một đồng. Ngoài bìa sách cho biết Vĩnh Long Tương Tế Hội ở số 251 đường Lagrandière, Sài Gòn.([1]) Ở trang không đánh số, ngay sau trang bìa giả (title page) in chân dung ông Nguyễn Văn Dần và cho biết ông là Chủ Hội của Vĩnh Long Tương Tế Hội, nhà số 115 đường Verdun, Sài Gòn.([2]) Nơi trang 20 cuốn sách xưa này ông Dần có kể lại tích cụ Phan Thanh Giản (1796-1867) ghé thăm thầy học cũ rất hay. Tôi trích lại nguyên văn, giữ nguyên cách chấm câu của người xưa, chỉ sửa lỗi chánh tả và vài chỗ viết hoa, đồng thời chú thích ba chỗ cần thiết. Nhân đây, tôi xin cảm ơn hiền hữu Trần Văn Chánh đã cho mượn bản sách xưa nay đã thuộc vào loại quý hiếm. (Huệ Khải, 26-8-2018)

Trích sách ông NGUYỄN VĂN DẦN

(Xem chú thích cuối bài về hai ảnh trên.)

Năm Tự Đức thứ mười lăm (1862) cụ [Phan Thanh Giản] vâng mạng hoàng đế vào trọng nhậm chức Kinh Lược ba tỉnh hướng Tây Nam Kỳ là Vĩnh Long, An Giang và Hà Tiên. Khi đến tỉnh Gia Định cụ ghé lại Gò Vắp ([3]) để viếng thăm tôn sư là cụ Võ tiên sanh.([4]) Lúc gần đến chòi tranh của thầy ở, thì cụ truyền xếp võng điều và lọng lại, xuống đi bộ vào bái thăm thầy. Thầy trò gặp gỡ nhau chẳng xiết vui mầng,([5]) vì cách nhau đã nhiều năm! Hỏi thăm việc hàn huyên xong rồi, cụ bái tạ mà đi Vĩnh Long và dâng lại cho tôn sư hai nén bạc để uống trà. Khi ấy tôn sư đáp lại cho cụ Phan một chục trái bắp! Cụ Phan thọ lãnh món vật của tôn sư cho, bèn bổn thân xách lấy bắp, chẳng để cho quân lính cầm. Đoạn đi bộ một đỗi xa xa mới truyền sửa võng lọng mà lên lại. Thiệt là người học trò có tư cách và hiếu nghĩa với thầy! Rất vẻ vang cho đạo học nhà Nam! Rất đúng đắn với câu: “Gặp vận vinh vang thêm toại chí, nhớ thương sư phụ phận con em!”
*
Năm 1927 ông Thái Hữu Võ xuất bản Phan Thanh Giản Truyện, 73 trang ruột, in tại nhà in Xưa Nay, số 62-64 boulevard Bonard, Sài Gòn.([6]). Đây là nhà in của ông Nguyễn Háo Vĩnh (1893-1941), một bậc sĩ phu Nam Kỳ, và là bổn đạo Cao Đài Chiếu Minh Tam Thanh.([7])
Tháng 8-1927, tại Ba Tri, ông Võ viết Lời Tựa cho sách trên. Ngay đầu trang 1, ông tự giới thiệu là tri phủ hạng nhứt hưu trí, thăng hàm đốc phủ sứ. Ông sinh tại làng An Bình Đông, tổng Bảo An, quận Ba Tri, tỉnh Bến Tre. Năm hai mươi bốn tuổi ông làm cai tổng Bảo An.
Ngoài Lời Tựa, sách ông Võ gồm hai phần: Phan Thanh Giản Truyện (trang 3-55), và Tây Phù Nhựt Ký (trang 56-73).([8]) Trong phần Phan Thanh Giản Truyện, tác giả không phân đoạn thành các tiểu mục, nghĩa là sau nhan đề thì ông Võ trình bày luôn một mạch. Trừ ảnh ngài Phan mặc triều phục in ở trang bìa, trong ruột sách không kèm một hình ảnh nào hết.
Lời văn người xưa ở Nam Kỳ, như ông Thái Hữu Võ chẳng hạn, ngày nay đọc lại tôi thấy chứa nhiều thú vị. Tôi trích lại đây nguyên văn một số trang trong sách ông Võ, giữ nguyên cách ông chấm câu, cách xuống hàng sau mỗi đoạn, chỉ sửa các lỗi chánh tả ([9]) và mấy chữ viết hoa. Chỗ nào cần giải thích, tôi soạn thêm cước chú. Khi trích lại sách ông Võ, tôi thêm các tiểu mục (in chữ đậm) để bạn đọc tiện theo dõi.
Nhân đây tôi xin cảm ơn hiền hữu Trần Văn Chánh đã cho mượn bản photocopy trọn quyển sách xưa mà ngày nay thuộc vào loại hiếm. Nhờ vậy, chúng ta có được một góc nhìn về bậc hiền nhân Phan Thanh Giản (1796-1867), theo cách nhìn của lớp tiền bối hãy còn khá gần gũi thời đại cụ Phan. (Huệ Khải, 21-8-2018)
Trích sách ông THÁI HỮU VÕ


1. Vác giáo ra trận
[Trang 8] Năm Minh Mạng thứ mười hai (1831), đổi ngài làm Hiệp Trấn tỉnh Quảng Nam, kế trong tỉnh có giặc mọi, tên Cao Gồng dấy loạn, cướp phá xứ Chiên Đàn, tục kêu là Nguồn Đèn. Ngài đem binh đánh giặc bị thất trận. Vua nói tại quan tỉnh hành chánh bất nghiêm, nên sanh giặc giã, ngài bị cách xuống làm tiền quân hiệu lực, rồi cũng còn ở đó đặng đái công thục tội,([10]) mỗi khi đi đánh giặc, ngài cứ vác giáo đi trước, các quan sợ ngài chết, biểu ngài đi sau, ngài nói: “Vua biểu sao thì tôi làm như vậy”, ngài cũng cứ việc đi trước, đến chừng giặc mọi yên rồi, ngài mới đặng bổ về kinh ([11]) tùng hiệu lực bá công vụ, đoạn sai ngài đi coi làm cỏ trong đền (…).
2. Vì việc nước không rẽ về nhà thăm cha ([12])
[Trang 9] Năm Minh Mạng thứ mười sáu (1835), ngài thăng chức thiệt thọ đại lý tự khanh, kiêm biện hình bộ sự vụ, sung Cơ Mật Viện [trang 10] đại thần. (…) Khi ấy có chỉ vua sai ngài đi kinh lược Trấn Tây,([13]) đặng sắp đặt các phủ huyện (…).
Khi ngài phụng chỉ đi, thì ngài có gởi thơ trước cho cha ngài hay rằng: “Con mắc lo việc nước lâu ngày nhớ cha, xin mời cha lên tại tỉnh Vĩnh Long mà chơi, chờ khi con đi Trấn Tây trở về, con sẽ lên đó lạy mừng cha cho thấy mặt, con chịu mạng vua ([14]) đương đi việc nước, không dám quanh đường ghé tắt đặng viếng cha thăm nhà.” 
Đến khi ngài sắp đặt việc Trấn Tây xong rồi, ngài trở về ghé tại tỉnh Vĩnh Long một ngày hầu bái cha ngài rồi, ngài lên đường về tới tỉnh Bình Thuận kế có giặc mọi, ngài ở lại đó dẹp cho xong giặc rồi, mới trở về triều bái mạng,([15]) kế vua sai ngài ra làm Quảng Nam bố chánh, hộ lý tuần phủ quan phòng.
3. Bị chặn ghe ở đồn Ba Lai
[Trang 15] Năm Thiệu Trị thứ hai (1842), tháng Sáu, cha ngài mất tại làng Bảo Thạnh, vua có ban vàng bạc cho ngài về tống táng cho cha, trong khi ngài đi đường cũng giữ theo phận có tang, không cho ai biết mình là quan lớn,([16]) không cho quân lính hầu hạ chi hết. Lúc ban đêm ngài đi ngang qua đồn Ba Lai thì có cai đồn tên Vân, triệc ([17]) ghe ngài lại đặng tra xét, thì mấy người chèo ghe nói rằng ghe của quan lớn. Tên cai đồn không nghe triệc lại, thấy chiếc ghe tầm thường quá mới quở mấy thằng chèo ghe rằng “Sao dám nhè tôi mà nói gạt, quan lớn gì đi ghe như vậy”? Ngài lên trình đồn thì ngài năn nỉ nói với chú cai rằng “Bạn ([18]) nó nói dại, chú đừng có chấp, xin thương tôi già cả”. Tên cai đồn cho ngài xuống ghe đi.
Đến chừng ghe ngài về tới đồn Bảo Thạnh, thấy làng tổng chực rước ngài đông, thì ngài hỏi: ngài không có cho ai hay, sao biết ngài về mà chực rước? Làng nói mỗi khi quan lớn về thì cọp dưới rừng lên trên giồng kêu om một hai đêm, đến chừng hôm sau thôi kêu, thì bữa đó có quan lớn về, mấy lần trước quan lớn về cũng vậy, nên làng tôi biết chừng mà đi hầu đón.
4. Hòa hảo với xóm giềng
[Trang 15] Đến khi về tới nhà, ngài biểu quan huyện Bảo An đòi tên cai đồn Ba Lai đến cho ngài biểu. Tên cai đồn vào thấy ngài [trang 16] thì sợ đã chết điếng, ngài day lại nói với tên ấy rằng: ngươi biết làm việc bổn phận chín chắn như vậy, ta cũng khá khen, nếu ta nói ta là quan lớn mà ta đi đặng thì người khác nói quan lớn thì họ đi cũng đặng. Rồi ngài thưởng cho nó một trăm quan tiền, đãi một bữa cơm và cho lên chức chánh đội trưởng. Còn những người trong làng đến thăm, chẳng luận già trẻ, ngài cũng chào hỏi lễ nghĩa rồi ngồi mà nói chuyện, thì ngài khuyên những việc thờ cha kính mẹ, nhỏ lo học hành, lớn lo làm ăn, cần kiệm ở đời, không nên du hí du thực. Còn những con nít đến coi, làng tổng đuổi đi, ngài cũng không cho, ngài nói để nó coi đặng nó bắt chước mình.
5. Sui gia không lạy nhau
[Trang 16] Có ông Phạm Văn Miêng ở tổng Bảo Thuận, làng Tân Trang, khi ngài làm quan ở kinh, thì ở nhà bà lớn ([19]) có gởi thơ cho ngài hay rằng, bà lớn cưới con gái của ông Miêng cho cậu ba tên là Phan Liêm, khi ngài về thì ông Miêng có đến thăm và bước ra lạy mừng thì ngài bước xuống nắm tay đỡ lên và nói rằng: “Mấy đời sui gia mà lạy nhau bao giờ,” rồi ngài mời lên ngồi nói chuyện với ngài, làng tổng đều khen rằng: quan lớn thật người lễ nghĩa. Trong khi để tang, thì ngài mặc đồ vải to,([20]) chủ việc ai bi tế lễ đủ phép, không cho làm việc phô trương, còn nhạc lễ cũng bày ra đủ mà để hầu chớ không cho đánh và điện,([21]) bổn thân ngài bưng từ món([22]) quỳ dâng lên rồi lạy khóc. Trong lúc tống táng rồi, ngài còn ở lại nhà, ban ngày lên làm cỏ mấy cái mộ của tiên nhơn, bổn thân ngài nhổ cổ, gánh đất đắp mộ, tối về coi sách cho tới mười hai giờ.
Khi ngài làm cỏ trên mộ có mấy người làng tổng thấy ngài làm, xin vô làm giùm, ngài không cho, ngài nói rằng: “Việc bổn phận tôi, để tôi làm, cha mẹ sanh mình cực khổ nhiều, còn mình làm như vậy không cực gì bao nhiêu.”
6. Bị ngọn tre quẹt rách áo, trầy da
[Trang 16] Một ngày kia ngài đi lên mộ, có tên Nguyễn Văn Cang vác tre đi trước không thấy ngài, đến chừng nó quanh vô nhà thì ngọn tre đụng nhằm ngài rách áo, trầy da rướm máu, nó ngó lại thấy ngài thì sợ quá. Ngài biểu nó để cây tre xuống, đưa cái mác cho ngài, thì nó đứng chết điếng, ngài mới lấy mác trảy ([23]) mắt cây tre sạch sẽ, và chặt ngọn cho bằng, rồi biểu nó vác đi, kẻo để đụng nhằm người khác nữa. Người ta thấy vậy đều khen rằng: “Quan lớn thiệt người hiền đức từ hòa”.
7. Đang để tang cha, không gần vợ
[Trang 17] Năm ấy [1842], tháng Mười, có chỉ vua đòi ngài trở về kinh, bà lớn thấy ngài sửa soạn đi, giả đò đau bụng, thì ngài đứng ngoài cửa buồng mà hỏi thăm, rồi lấy thuốc bảo cậu hai ([24]) đem vô cho bà uống; đến khi ngài bước lên võng, bà lớn chạy ra níu võng, xin ngài ở lại một bữa đặng nói chuyện nhà rồi sẽ đi, thì ngài nói rằng việc vua chúa trên đầu không lo, chuyện vợ chồng chẳng hết gì khi, để cho ngài đi, bà liền buông võng trở vô. (…)
Người ta thấy vậy thì biết rằng trong lúc để tang, ngài không có gần đờn bà. 
8. Một lòng thương dân
[Trang 23] Khi ngài trấn Nam Kỳ, đi tuần vãng ([25]) các tỉnh, dân sự có việc chi oan ức muốn đón ngài mà thưa, lúc đi bộ thì ngài ngừng võng, đi sông thì ngài dạy đình ([26]) thuyền, đặng tra xét việc ưng oan cho dân, xong rồi ngài mới đi. Các quan [trang 24] nhỏ đi theo ngài, bẩm với ngài rằng: “Nếu dân sự có việc chi, quan lớn cứ bảo chúng nó phải đến tỉnh mà thưa, chớ quan lớn làm như vậy thì cực cho quan lớn và mất ngày giờ đi tuần vãng.” Ngài trả lời rằng: “Mình là người giữ đất chăn dân,([27]) kêu là cha mẹ của dân,([28]) nay chúng nó có việc oan ức mà mình không tra xét cho chúng nó thì sao cho phải, còn để chúng nó đến tỉnh thì lâu ngày mà lại thất công ([29]) cho nó nhiều và mất sự trông muốn của dân”; nên ngài cũng cứ việc tra xét minh oan cho dân. Ngài thường nói với dân sự rằng: “Vi tử tận kỳ hiếu, vi thần tận kỳ trung,([30]) không đạo nào trọng cho bằng đạo thờ cha kính mẹ, không việc gì trọng cho bằng nợ nước ơn nhà. Lúc còn nhỏ phải ráng mà học hành, lớn lên phải lo làm ăn đặng mà đền bồi ơn cha mẹ và gánh vác việc nước nhà. Trong sáu tỉnh Nam Kỳ, ruộng nhiều, đất tốt hơn các tỉnh, hột lúa ngày sau là hột ngọc xứ Nam Kỳ, phải ráng mà mở rừng, vỡ ruộng cày cấy, gieo trồng, đặng nuôi dưỡng vợ con và mở mang bờ cõi chẳng nên du hí du thực.”
9. Không để thương khách Trung Quốc hối lộ
[Trang 24] Lúc nào có tàu Trung Quốc qua buôn bán, khi nhập cảng, thì mấy người chủ tàu đem lễ vật, gấm, nhiễu, dâng cho ngài, ngài không lấy; mấy chủ tàu biết ngài là một vị quan thanh liêm, sau cứ viết mực và sách sử chi lạ đem dâng cho ngài, thì ngài mới nhậm.
10. Quý trọng bạn cũ thanh bần
[Trang 24] Có một ngày kia ngài đi vãng dân ([31]) ngang qua nhà người anh em bạn của ngài tên là Phan Dĩ Thử, ở làng Hanh Thông, con cháu công thần, người nầy cũng học giỏi, mà không đi thi, nhà nghèo, ở một cái chòi tranh mà chuyên nghề làm ruộng. Khi ngài đến nhà ông đó, ổng mắc đi làm ngoài ruộng, không hay ngài đến, thì ngài nằm đó chờ cho đến tối ông ấy về thấy ngài thì mầng rỡ, rồi lật đật dọn cơm cho ngài ăn, trên mâm chỉ có một dĩa rau luộc và một dĩa mắm kho rồi day lại nói với ngài rằng: “Thưa ngài, ngày nay ngài chẳng nài ([32]) khó nhọc giá lâm ([33]) đến đây mà viếng tôi, thì tôi rất muôn ngàn cảm tạ, nhưng tôi lấy làm hổ thẹn cho phận tôi là một kẻ hàn vi mạt sĩ,([34]) cái lều cỏ nầy là một chỗ không xứng đáng mà rước một vị quan đại thần như ngài vậy, và bữa cơm rau nầy cũng chẳng phải là vật thực của kẻ có tước phẩm triều đình, mà nếu ngài không chê rằng nghèo hèn thì xin ngài vui lòng dùng cùng tôi một bữa, đạm bạc lấy thảo.”
[Trang 25] Ngài nghe ông ấy nói như vậy thì đáp lại rằng: “Cái phẩm tước ấy là để mà chầu chực nơi chốn triều đình, và để mà vỗ trị ([35]) trong hàng dân dã, chớ lẽ nào dùng cái phẩm tước ấy mà khoe với thân tộc họ hàng, và cũng chẳng phải đem nó ra mà dùng với người thân bằng cố hữu.([36]) Nay ông là kẻ cố hữu của tôi trong lúc tiền niên,([37]) dẫu rằng vách lá lều tranh, nhà cửa ông hẹp, tiền bạc ông nghèo, nhưng mà cái tình nghĩa cố giao ([38]) của tôi với ông dầu cho ngàn năm cũng không nghèo đặng, vả lại xưa có câu rằng: Bần tiện chi giao mạc khả vong! ([39]) Nay tôi đến đây mà ăn một bát canh rau cùng ông, tôi tưởng quý hơn là một mâm cao lương của người giàu có, xin ông chớ ngại.” Ông kia nghe nói thì mỉn cười ([40]) rồi đáp rằng: “Bên Trung Quốc hồi đời Hán, có ông Tống Hoằng,([41]) chẳng dè Việt Nam ta ngày nay cũng có một ông Tống Hoằng nữa là quan lớn đó vậy.” ([42]) 
11. Mười nén vàng giấu trong mười gói trà
[Trang 25] Có một người trong tỉnh Gia Định, tên là bá h([43]) Vân, bị hàm oan về việc án mạng, ngài tra minh ra thì người ấy vô tội, người ấy cám ơn ngài, bèn lấy mười nén ([44]) vàng, để trong mười gói trà mà cho ngài, ngài không chịu lấy, người đó nói rằng: “Trà nầy quý lắm, xin quan lớn dùng lấy thảo với tôi.” Ngài biết ý liền đáp rằng: “Trà chú quý bằng vàng mà tôi không quen dùng, chú đem đến, tôi thấy đây cũng như uống rồi, tôi cám ơn, chú phải đem về.” Người ấy bưng trà về nói lại với vợ con rằng: “Bấy lâu nay ta nghe nói quan Phan là người thanh liêm, đến nay ta mới biết lời ấy là rất thiệt.”
12. Xử kiện ở Châu Đốc
[Trang 26] Khi ngài đến tỉnh Châu Đốc, có một chỗ nước xoáy, tên Mạnh đố tên Hào lội đặng, thì nó cho một trăm quan tiền, như lội không đặng, chết thì chịu. Hai đàng có làm tờ giao kèo với nhau; khi tên Hào lội xuống đó thì nước xoáy mất biệt. Bà mẹ nó đi kiện tới đâu, quan cũng cứ ([45]) tờ giấy giao kèo mà xử bà thất.([46]) Đến khi bà gặp ngài đi kinh lược([47]) đến đó, bà kiện với ngài, ngài xử tên Mạnh như vầy: “Người ta có một mẹ một con, sao mi biết chỗ chết mà còn đố người ta lội, mi dĩ tài sát nhơn,([48]) vậy mi hãy nuôi bà nầy cho đến chết, và chừng bả chết mi phải tống táng bả cho tử tế.” Tên Mạnh lạy ngài mà vâng theo lời ngài xử.
13. Sửa lỗi sai của vợ
[Trang 26] Khi ngài về đến làng Bảo Thạnh thăm nhà, có một tên Hưng ở lối xóm ngài, ngài hỏi thăm nó làm ruộng khá hay không, thì nó bẩm rằng năm nay nó nghèo lắm, vì bị trâu của nó lội phá giếng của tên Được, mà ở nhà, bà lớn dạy nó thường đám thuốc,([49]) cho tên Được hết năm chục quan tiền, vì vậy nên nó mới nghèo. Ngài bèn nói trâu phá giếng thì vét giếng, chớ sao lại thường thuốc, ngài bảo quân vô buồng của bà lớn nhắt ra một trăm quan tiền cho nó lại.([50]) Từ đây, ai thưa bẩm việc chi, bà lớn không dám xử nữa.
14. Cả nhà đạo đức
[Trang 29] Năm Tự Đức thứ mười bốn (1861), vợ ngài là bà Trần Thị Hoạch chết tại làng Bảo Thạnh, thì ngài mắc ở ngoài kinh. Bà nầy tánh tình hiền đức lắm, tuy chồng làm quan lớn, song bà chẳng hề theo chồng mà dựa quyền ỷ thế, cứ ở nhà, kính thờ cha chồng, nuôi dưỡng con trẻ, ở với xóm giềng cũng hiền hòa tử tế, nhà tuy nghèo, bà cũng giữ sự cần kiệm, dệt lụa dệt vải, trồng rau tỉa bắp, dư chút đỉnh, bà có mua đặng một miếng đất chỗ thổ mộ ([51]) tiên nhơn của ngài, chừng hai mẫu; trong làng xóm ai đói, thì bà cho gạo ăn, ai đau bà cho tiền uống thuốc, còn ai đẻ con, mà nghèo nàn nuôi không đặng đem cho bà, bà nuôi làm phước, đến khi khôn lớn, bà cho về với cha mẹ. Còn việc cúng quải,([52]) thì bà cũng giữ tinh khiết, bà dạy con việc học hành lễ nghĩa, không cho xấc xược chơi bời.
Khi ngài còn ở tại kinh đô, bà lớn có kiếm cho ngài một người hầu thiếp tên là nàng Thịnh, bà bảo cậu hai là Phan Hương đưa ra ngoài kinh đặng hầu ngài. Ngài không chịu, ngài bảo nàng ấy về lấy chồng, và phải lựa người học trò hay là người làm ruộng mà lấy, đừng lấy người du hí du thực; rồi đó ngài hỏi đồ nữ trang của ai, nàng nói của bà lớn sắm cho, thì ngài cũng cho nàng ấy đồ nữ trang hết.([53])
[Trang 30] Đến chừng nàng Thịnh trở về nhà bà lớn, thuật các đều ([54]) quan lớn dạy cho bà lớn nghe, thì bà lớn cũng bảo cứ lời quan lớn mà làm theo, nàng ấy nói rằng: “Nên hư cũng một lần, tôi thấy đức hạnh bà lớn nhiều, tôi xin ở với bà lớn, kết làm chị em cho có bạn.” Mỗi khi bà lớn đau, thì nàng bổn thân bồng đỡ, cơm nước, thuốc thang, ngày đêm không rời, bà lớn thấy vậy cũng thương yêu, đến khi bà lớn bịnh nặng, có kêu các con mà trối lại rằng: “Bà thứ mẫu nầy không con, như sau mẹ có từ trần rồi thì các con phải kỉnh thờ bà thứ mẫu nầy cũng như mẹ đẻ vậy.” Các cậu sau cũng giữ theo lời mẹ dạy chẳng dám sai ngoa, còn bà thứ mẫu cũng thủ tiết cho đến chết.
Bà lớn có sanh đặng ba người con trai: Phan Hương, Phan Liêm và Phan Tôn, cả ba đều học hành giỏi, tánh hạnh tốt.
15. Quân tử yêu hoa quỳ
[Trang 37] Khi ngài về tỉnh Vĩnh Long, ngài có chở sách vở đem về nhiều lắm và ngài có làm một tập Lương Khê Thi Thảo 粱溪詩草.([55]) Nên thiên hạ đồn rằng: Quan lớn Phan là người giàu sách vở, chớ không có giàu vàng bạc chi hết.
Còn nhà thờ của tiên nhơn ngài ở tại làng Bảo Thạnh, cũng cất bằng cột mắm vách lá, phên tre, xem đó thì đủ biết ngài là một vị quan rất thanh liêm. Tánh ngài ưa sự sạch sẽ, ăn ngủ có chừng, mỗi đêm ngài thường coi sách cho đến mười hai giờ khuya. Khi ngài coi sách thì ngài bịt khăn đen, mặc áo rộng, ngồi đàng hoàng tề chỉnh mà coi, ấy là ngài có ý kỉnh trọng thánh hiền.
Từ khi ngài thi đậu ra làm quan, thì cũng cứ việc học thêm hoài và những sách lạ, truyện hay ngài đều có đọc, cho nên ngài thật là người bác lãm quần thơ.([56]) Mỗi khi ngài dùng cơm rồi, thì ngài đi đôi ba vòng, rồi ngài mới nghỉ; mỗi bữa sớm mai, ngài thường đi chung quanh thành một vòng, đặng xem xét quân lính và các dinh trại trong thành, buổi chiều cũng vậy. Tánh ngài ưa trồng bông quỳ trước nhà công đường và nơi tư dinh của ngài ở. Khi ấy có quan tổng đốc Vĩnh Long là ông Trương Văn Uyển, dinh ông nầy ở gần một bên dinh ngài, tánh ông ưa dùng hầu thiếp nhiều lắm. Ngày kia ông đến thăm ngài, thấy ngài ở có một mình thì mới hỏi: “Sao quan lớn không dụng hầu thiếp?” Ngài trả lời rằng: “Tôi không có đủ ngày giờ mà lo việc quốc gia, có ngày giờ đâu mà lo việc hầu thiếp, tôi có trồng bông quỳ chung quanh dinh nhiều lắm, khi nào tôi buồn ra xem nó chơi cũng đủ vui, vả lại cái sắc nó tốt hơn sắc người, mà cái mùi nó hửi chơi cũng thơm tho hơn cái mùi của đờn bà con gái, như vậy cũng đủ vui, lựa là ([57]) phải dùng hầu thiếp làm chi cho cực lòng rộn trí.”




([1]) Ngày 30-4-1950 đổi tên là đường Gia Long. Sau 30-4-1975 đổi tên là đường Lý Tự Trọng.
([2]) Ngày 22-3-1955 đổi tên là đường Lê Văn Duyệt. Ngày 14-8-1975 đổi tên là đường Cách Mạng Tháng Tám.
([3]) Khi xưa gọi Gò Vắp, nay gọi Gò Vấp.
([4]) tiên sanh (sinh) 先生: Tiếng gọi thầy giáo. Năm 1816, theo lời khuyên của quan Hiệp Trấn tỉnh Vĩnh Long (tên là Lương, không biết họ), nho sinh Phan Thanh Giản nán lại Vĩnh Long thọ giáo quan đốc học họ Võ (không biết tên). Thầy Võ nói ở đây không phải là xử sĩ Võ Trường Toản vì Võ xử sĩ tạ thế năm 1792; bốn năm sau (1796) Phan Thanh Giản mới chào đời.
([5]) chẳng xiết vui mầng: Mừng vui không thể kể cho hết được.
([6]) Từ năm 1952, số 62 boulevard Bonard là “librairie Khai Trí” của ông Nguyễn Hùng Trương (1926-2005). Kể từ năm 1955 trở đi, boulevard Bonard đổi thành đại lộ Lê Lợi. Cũng do xu hướng Việt hóa các tên gọi tiếng Pháp, “librairie Khai Trí” đổi thành “nhà sách Khai Trí”.
([7]) Bửu tháp của ông Vĩnh cất tại Trước Tiết Tàng Thơ (ở Thủ Thiêm), nơi ấy đã tiếp bửu kinh Đại Thừa Chơn Giáo (1936).
([8]) Tác giả là Phó Sứ Phạm Phú Thứ và Bồi Sứ Ngụy Khắc Đản. Bản quốc ngữ trong sách ông Võ do Tri Phủ Tôn Thọ Tường viết theo thể thơ lục bát. (Năm 1863, hai vị Phạm và Ngụy tháp tùng Chánh Sứ Phan Thanh Giản sang Pháp điều đình chuộc lại ba tỉnh miền Ðông Nam Kỳ.)
([9]) Sách in sai chánh tả rất nhiều. Ngay cả nhan đề in sai là Phan Thanh Giảng Truyện.
([10]) đái công thục tội 戴功贖罪: Lấy công chuộc tội.
([11]) kinh : Kinh thành Huế.
([12]) Cha ngài là ông Phan Thanh Ngạn lúc ấy sống ở làng Bảo Thạnh (nay thuộc huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre),
([13]) Tên gọi Cao Mên sau khi vua nước này thua trận, phải chịu giao hảo với Việt Nam.
([14]) mạng vua: Mệnh lệnh của vua.
([15]) bái mạng 拜命: Lạy vua và bẩm báo hoàn thành sứ mạng.
([16]) Năm trước (1841) ngài vừa thăng chức Tham Tri, được giao đảm nhiệm các việc ở Cơ Mật Viện.
([17]) triệc: (Triệt?) Phỏng đoán nghĩa là chặn lại, ngăn lại.
([18]) bạn: Bạn chèo, người chèo ghe.
([19]) bà lớn: Tiếng gọi vợ quan lớn. Theo Thái Hữu Võ (sách đã dẫn, tr. 6), bà tên là Trần Thị Hoạch, người làng Đơn Vệ, huyện Minh Linh, tỉnh Quảng Trị, con gái đầu lòng của ông Trần Công Án (quan án sát hưu trí). Bà kén chồng, mãi tới năm ba mươi ba tuổi mới kết hôn với ngài Phan Thanh Giản, rồi về quê chồng phụng dưỡng cha chồng luôn.
([20]) vải to: Vải thô, sợi vải to.
([21]) điện : Dâng lễ bằng cách cử nhạc.
([22]) từ món: Từng món.
([23]) trảy: Róc đi, róc sạch.
([24]) cậu hai: Con trai đầu lòng của ngài tên là Phan Hương.
([25]) tuần vãng 巡往: Đi tới tận nơi xem xét.
([26]) đình : Đang đi mà dừng lại nửa đường.
([27]) chăn dân: Chăn do chữ mục vừa có nghĩa chăn nuôi (mục mã 牧馬: chăn ngựa), vừa có nghĩa cai trị, cai quản (mục lê thứ 牧黎庶: chăn dân, cai trị dân chúng).
([28]) cha mẹ của dân: Dân chi phụ mẫu. Quan niệm cổ xưa này có chép trong Kinh Thi, được nhắc lại trong sách Đại Học, đoạn 12: Thi vân: “Lạc chỉ quân tử, dân chi phụ mẫu.” 詩云: “樂只君子, 民之父母.” Kinh Thi nói: “Vui thay người quân tử, là cha mẹ của dân.”
([29]) thất công 失工: Bỏ lỡ công việc làm ăn thường ngày.
([30]) Vi tử tận kỳ hiếu, vi thần tận kỳ trung 為子盡其孝, 為臣盡 其忠: Làm con hết lòng hiếu thảo, làm tôi hết lòng trung thành.
([31]) vãng dân: Đi tới tận nơi xem xét đời sống dân chúng.
([32]) chẳng nài: Không quản ngại.
([33]) giá lâm 駕臨: Giá là từ xưng hô tôn trọng người đối diện (cũng như chữ ngài). Lâm là nói người bề trên cao sang mà hạ mình đi xuống gặp kẻ dưới.
([34]) hàn vi 寒微: Nghèo hèn. mạt sĩ 末士: Kẻ tầm thường, thấp kém (lời nói khiêm tốn, hạ mình).
([35]) vỗ trị: Vỗ an và cai trị.
([36]) thân bằng : Họ hàng (thân) và bè bạn (bằng). cố hữu  : Bạn cũ.
([37]) tiền niên 前年: Năm kia.
([38]) cố giao 故交: Bạn cũ (cũng như cố hữu).
([39]) Bần tiện chi giao mạc khả vong 貧賤之交不可忘: Bạn bè kết giao lúc nghèo hèn chớ quên.
([40]) mỉn cười: Mỉm cười.
([41]) Tống Hoằng 宋弘: Đời Đông Hán, Tống Hoằng làm quan được vua Quang Vũ rất quý trọng. Chị vua là Hồ Dương góa chồng. Khi nghe chị khen ngợi Tống Hoằng, vua muốn chị cưới Tống Hoằng dù ông ấy đã có vợ. Vua vời Tống Hoằng vào gặp để dọ ý, nên hỏi khéo: “Trẫm nghe nói Quý dịch giao, phú dịch thê 貴易交, 富易妻. (Sang đổi bạn, giàu đổi vợ.) Nói thế là ý gì?” Tống Hoằng đáp: “Thần nghe nói Bần tiện chi giao bất khả vong, tao khang chi thê bất hạ đường. 貧賤之交莫可忘, 糟糠之妻不下堂. (Bạn bè kết giao lúc nghèo hèn chớ quên, vợ cưới lúc đói rách không thể hắt hủi.) Vua hiểu ý, không dám bảo ông cưới chị mình.
([42]) Đoạn đối đáp này giữa hai người bạn cũ, tôi cho rằng ông Thái Hữu Võ viết thật hay. Đọc văn xưa thấy rất thích!
([43]) bá hộ: Nhà giàu lớn.
([44]) mười nén: Một trăm lượng.
([45]) cứ: Y theo, căn cứ theo.
([46]) thất: Thua kiện.
([47]) kinh lược 經略: Đi xem xét các tỉnh.
([48]) dĩ tài sát nhơn 以財殺人: Dùng tiền giết người.
([49]) thuốc: Cây thuốc (trồng lấy lá xắt làm thuốc hút).
([50]) “… ngài bảo quân vô buồng của bà lớn nhắt ra một trăm quan tiền cho nó lại.” Chữ nhắt này khó hiểu! Hơn nữa, chi tiết cho lính vào buồng vợ lấy tiền cũng lạ. Có lẽ vì thế ông Nguyễn Duy Oanh trong sách Phan Thanh Giản: Cuộc Đời & Tác Phẩm (trang 88, bản in tháng 8-2003 của Xưa & Nay thuộc Hội Khoa Học Lịch Sử Việt Nam liên kết Đại Học Hồng Bàng) chép khác hơn: “Ông bảo bà lớn cho nó hai trăm quan tiền đã mất vì tại bà xử sai.”
([51]) thổ mộ: Đất mồ mả.
([52]) cúng quải: Cúng cơm cho tổ tiên ngày giỗ.
([53]) Nguyễn Hiến Lê (1912-1984) kể một chuyện tương tự về Vương An Thạch (1021-1086), làm quan đời Tống. Một lần không hỏi ý chồng, vợ Vương kiếm cho ông một nàng hầu. Khi nàng đó vào phòng chào, ông ngạc nhiên hỏi: “Chuyện gì vậy?” Nàng đáp: “Bà lớn bảo cháu vào hầu ông lớn.” Hỏi: “Nhưng chị là ai?” Đáp: “Bẩm chồng cháu ở trong quân đội, tải lương, lỡ để chìm một thuyền lúa. Chúng cháu bán cả nhà cửa, vườn đất để đền mà không đủ, nên chồng cháu phải bán cháu cho bà lớn.” Hỏi: “Bán được bao nhiêu?” Đáp: “Bẩm chín trăm đồng.” Vương cho gọi chồng chị ta tới, bảo dắt vợ về và giữ lấy số tiền. (Tô Đông Pha. Hà Nội: Nxb Văn Hóa Thông Tin, 2003, tr. 91-92.)
([54]) các đều: Các điều.
([55]) Lương Khê: Một hiệu của ngài. Thi Thảo: Bản thảo thơ (poems in manuscript form). Tác phẩm của ngài Phan Thanh Giản không phải chỉ có một tập này.
([56]) bác lãm quần thơ (thư) 博覽群書: Xem rộng các sách.
([57]) lựa là: Nào phải, can chi phải.


*  *  *
(Chú thích về ảnh bìa sách Vĩnh Long Nhơn Vật Chí, và chân dung tác giả Nguyễn Văn Dần.)
Quyển 119-1 trong Chương Trình Chung Tay Ấn Tống Kinh Sách Đại Đạo là tập sách của Huệ Khải, nhan đề PHAN THANH GIẢN XƯA VÀ NAY (Hà Nội: Nxb Hồng Đức, 2018, 128 trang 14,5x20,5cm).
Ở trang 22 sách này có in ảnh bìa quyển VĨNH LONG NHƠN VẬT CHÍ (1925) và chân dung tác giả là ông NGUYỄN VĂN DẦN.
Hồi soạn sách PHAN THANH GIẢN XƯA VÀ NAY, HK mượn sách VĨNH LONG NHƠN VẬT CHÍ (photocopy) của bạn hiền là Trần Văn Chánh, nên ảnh ở trang 22 nói trên không đẹp.
Thời may, tình cờ ghé KHO SÁCH XƯA của ông Huỳnh Chiếu Đẳng (Quán Ven Đường, Mỹ: http://ndclnh-mytho-usa.org/KhoChuaSachCu.htm) thì tìm thấy bản sách xưa (PDF) của ông Nguyễn Văn Dần, lưu trữ tại Bibliothèque Nationale de France (Thư Viện Quốc Gia Pháp). Nhân đây, HK xin kính lời cảm ơn ông Huỳnh Chiếu Đẳng (nguyên thầy giáo đất Mỹ Tho).
Sách PHAN THANH GIẢN XƯA VÀ NAY sẽ rất khó tái bản, nên không thể thay thế hai ảnh minh họa kém chất lượng đã in năm 2018.
HK bèn chụp lại ảnh bìa sách ông Dần và chân dung ông, và cập nhật hai ảnh này vào bản điện tử PHAN THANH GIẢN XƯA VÀ NAY tại blog huekhai.blogspot.com.

HK trân trọng chia sẻ với quý bạn đọc. (Thứ Hai, 15-6-2020)






 Quý đạo hữu gần xa muốn nhận các kinh sách do Chương Trình Chung Tay Ấn Tống Kinh Sách Đại Đạo xuất bản, được gởi biếu qua bưu điện, xin vui lòng gởi e-mail về: daidaovanuyen@gmail.com
Và xin quý đạo hữu hoan hỷ trả giúp cước phí cho bưu điện ngay khi nhận được sách biếu.
Ban Ấn Tống trân trọng cảm ơn quý đạo hữu.