HÃY TRỞ VỀ TRUYỀN THỐNG CHA ÔNG
Chí Thiện Đàn (Minh Đức Nho Giáo, Vĩnh Bình)
Tuất thời, ngày 26-8
Nhâm Tý (Thứ Ba 03-10-1972)
Thông công: Hiệp Thiên Đài Giáo
Hội Tiên Thiên Minh Đức (Mỹ Tho)
THI
THẦN thị vô phương nãi diệu huyền
HOÀNG Hà cổ đại, Đạo thư truyền
BỔN căn do tại minh minh đức
THẦN HOÀNG
BỔN CẢNH
Chào liệt vị
Thiên ân hướng đạo. Chào toàn thể đàn trung. Bổn Thần vâng lịnh báo tin có Đức
Đại Công Thần ([2]) Phan Thanh Giản lai cơ.([3]) Vậy đàn trung ([4]) thành tâm tiếp điển. Bổn Thần xin
xuất ngoại hộ đàn.
THI
Một dải giang sơn dệt gấm hoa
Ngàn năm văn hiến tổ tiên ta
Nền xưa vun đắp nhờ con cháu
PHAN THANH
GIẢN
Lão Thần ([6]) chào chư Thiên mạng hướng đạo ([7]) Tam Kỳ Phổ Độ. Chào toàn thể nam nữ lương giáo hiện tiền.([8]) Nhân ngày kỷ
niệm Đức Văn Tuyên Khổng Thánh,([9])
Lão Thần giáng cơ để trần tố ([10])
ít dòng cùng chư nam nữ. Vậy mời đồng đẳng
ngồi.
THI
Trở lại trần gian giữa cảnh này
Dựng lại nhà xưa ở Đạo Thầy.
Lão Thần rất vui
mừng được chứng kiến sự hiện diện đông đủ trước điện giờ nay, để hết tâm thành
hiến dâng lên Đấng Vạn Thế Sư Biểu,([13]) và để thể hiện tình tương hòa tương ái ([14]) giữa những người đồng bào, đồng đạo.
Cũng trong tinh
thần ấy, Lão Thần gởi nơi đây một vài hàng, những mong toàn thể chư Thiên mạng
và đạo hữu gẫm suy.
THI BÀI
1. Trước bửu điện trầm hương nhẹ thoảng
Để thông rõ những lối nhìn
3. Đời chịu lắm
chơi vơi hố thẳm
Vì tinh thần còn
đắm bể sâu
Bỏ quên truyền
thống nhiệm mầu cha ông.
4. Cha ông dạy
biết dòng biết giống
Tổ tiên truyền sự
sống văn minh
5. Để vơi bớt
niềm đau nỗi khổ
Có vun bồi gốc
cội tình thương
Không phân thành
thị thôn hương
Không phân sang
cả hay phường cùng đinh.
7. Chỉ có một tấm
tình Tạo Hóa
Từ nơi tốt giống
đẹp nòi
Đến nơi nhơn loại
cùng khơi nhơn hòa.
8. Thế nhơn hòa Kỳ
Ba đã dựng
Để đem về chỗ
đứng thanh bình
Cho người, cho Đạo, cho mình
Thôi, Đức Quan
Thánh vừa đến. Lão Thần tạm biệt nơi đây. Chư Thiên mạng và toàn thể thành tâm
nghinh tiếp [Đức Quan Thánh].
SUY NIỆM 6
6.1. Đức Chơn
Thánh Phan Thanh Giản giáng cơ dạy bài này tại Chí Thiện Đàn (Khổng Thánh Miếu,
thuộc Minh Đức Nho Giáo) ở tỉnh Vĩnh Bình. Thời Pháp thuộc, tên tỉnh là Trà
Vinh,([33])
được đổi thành Vĩnh Bình do Sắc Lệnh số 143-NV của Tổng Thống Ngô Đình Diệm
ngày Thứ Hai 22-10-1956. Sau tháng 4-1975 tỉnh trở lại tên cũ là Trà Vinh (địa
giới cũ có thay đổi).
Minh Đức
Nho Giáo hình thành qua cơ bút, khởi đầu từ
năm 1932 tại Ba Động, làng Trường Long Hòa, quận Cầu Ngang, tỉnh Trà Vinh. Người
có công gầy dựng buổi ban sơ là tiền bối Ngô Nghiêm Sanh, thánh danh Chơn Minh
Sanh, tạ thế năm 1980, đắc quả vị Thiên Minh Quang Bồ Tát. Cùng góp công đức
gầy dựng là tiền bối Ngô Minh Bè (bào huynh tiền bối Sanh) đắc quả vị Huỳnh
Quang Bồ Tát.
Do lịnh Ơn Trên qua
cơ bút, Minh Đức Nho Giáo cất Khổng Thánh Miếu ở Trà Vinh, mở Chí Thiện Đàn (ở Trà
Vinh) và Tân Dân Đàn (ở Nha Rộn, Bạc Liêu; sau dời về Sài Gòn) để Ơn Trên dạy
đạo qua cơ bút.([34])
6.2. Đức Phan Chơn Thánh giáng
đàn vào giờ Tuất, ngày 26-8 Nhâm Tý (Thứ Ba 03-10-1972); hôm sau là lễ kỷ niệm
Đức Văn Tuyên Khổng Thánh được Minh Đức Nho Giáo
tổ chức tại Khổng Thánh Miếu. Bởi vậy Đức Thánh
dạy: Nhân ngày kỷ niệm Đức Văn Tuyên
Khổng Thánh, Lão Thần giáng cơ để trần tố ít dòng cùng chư nam nữ.
Trước
khi Đức Phan Chơn Thánh lâm cơ, vị Thần trấn nhậm tại địa phương là Thần Hoàng
Bổn Cảnh đến báo đàn, xưng danh qua bài tứ tuyệt quán thủ, đọc theo âm Hán Việt.
Lê Anh Minh chuyển sang chữ Nho, và giảng nghĩa như sau:
THẦN thị vô phương nãi diệu huyền 神是無方乃妙玄:
Thần không có phương hướng cố định, đó là điều huyền diệu.
Kinh Dịch
(Hệ Từ Thượng Truyện, Chương IV, Tiết 4) nói Thần vô phương, nghĩa là Thần không bị hạn chế nơi nào cả.
HOÀNG Hà cổ đại, Đạo thư truyền 黃河古代道書傳:
Từ thời cổ, ở (sông) Hoàng Hà truyền sách dạy Đạo (tức là Hà Đồ trên thân con
long mã).
BỔN căn do tại minh minh đức 本根由在明明德:
Bản căn của ta do ở làm sáng cái đức sáng của mình. (Cái đức sáng của mình lâu
nay bị che lấp; hễ mình làm sáng cái đức sáng ấy thì thấy được bản căn của mình.
Bản căn cũng như bản thể, tự tánh, bản tánh...)
CẢNH đối ư tâm lý nhứt nguyên 境對於心理一元:
(Khi thấy được bản căn thì) không còn phân biệt tâm và cảnh, giữa tâm và cảnh
chỉ có một lý (nghĩa là tâm và cảnh không hai; tâm không còn bị cảnh chi phối).
Tại Vĩnh Nguyên Tự (xã Long
An, huyện Cần Giuộc, tỉnh Long An), ngày 15-3 Bính Thìn (Thứ Tư 14-4-1976), Đức Như Ý Đạo Thoàn Chơn Nhơn dạy:
Nếu tâm bị cảnh chi phối như dòng thác lũ cuốn lôi bao nhiêu cặn bã cuộc đời trôi theo cuồn cuộn, thì dầu tuổi đạo
là bao, tuổi đời là mấy chăng nữa, có chi gọi là chơn thường chi tánh ([35]) của người hành giả đang tìm
đường để tự giải thoát và giải thoát cho cuộc đời.
Mỗi một người tu là một thí
sinh; thi đậu là thoát kiếp phàm phu, vào hàng Tiên Thánh. Mà đề thi của người
tu là gì? Đức Bác Nhã Thiền Sư trả lời: Đề thi chỉ có tâm và cảnh /
Thắng chủ rồi vào Thánh lên Tiên. ([36])
6.3. Qua bài thánh giáo này, Đức Phan Chơn Thánh nhắn nhủ người
Việt Nam (trong đó có người đạo Cao Đài) hãy biết giữ gìn và vun đắp vốn cũ (nền xưa) của tổ tiên truyền lại, vì đó là
tiền đề (precondition) để nước Việt Nam
và đạo Cao Đài được rạng danh rỡ tiếng trong hoàn vũ: Nền xưa vun đắp nhờ con cháu / Cho rạng năm châu, rạng Đạo nhà.
Trước tệ trạng xã hội
(Tạp ô ý thức đeo sầu), Đức Phan Chơn
Thánh soi cho thấy nguyên nhân tác hại: Bỏ
quên truyền thống nhiệm mầu cha ông.
Dù đã về cõi thiêng
liêng hằng sống, Đức Phan Chơn Thánh vẫn mang mể tình dân nghĩa nước một thuở bình
sanh. Giờ đây, qua ngọn linh cơ, ngài đem gan ruột tỏ bày, tha thiết nói với hàng
hướng đạo Kỳ Ba đang thọ sứ mạng thế Thiên hành hóa: Tâm trường gởi gắm tay Thiên mạng / Dựng lại nhà xưa ở Đạo Thầy.
Bài thánh giáo này và
bài Đi Về Đâu Việt Nam Ơi! (tr. 97) cùng
chung một chủ đề tư tưởng cho thấy tính nhân bản Cao Đài (Caodai humanistic features):
Đi về đâu Việt Nam ơi!
Về nơi nhân bản của Trời trước kia.
Phú Nhuận, 11-10-2018
Huệ Khải
([9]) Khổng Thánh 孔聖: Đức Thánh họ
Khổng (tức là Khổng Tử). Văn Tuyên 文宣: Một trong những tên thụy 諡 (tên cúng cơm, tên
hèm; posthumous name) các vua Trung
Quốc truy tặng Đức Khổng Tử.
Tuyên có nghĩa là bày ra
(displaying), tuyên bố (proclaiming). Tôn hiệu của Đức
Khổng Tử thường kèm theo chữ Tuyên.
Vào năm 1 đầu Công Nguyên, vua Hán Bình Đế tôn Ngài là Bao Thành Hầu Tuyên Ni Công. Ni mượn từ tên tự của
Ngài là Trọng Ni. Các thế kỷ sau đó,
Ngài được tôn là Tuyên Ni hay Tuyên Phụ. Năm 739 vua Đường Huyền Tông
tôn Ngài là Văn Tuyên Vương. William
Frederick Mayers dịch Tuyên là lỗi
lạc (illustrious); dịch Tuyên Ni Công là Illustrious Duke Ni; dịch Văn
Tuyên là học vấn lỗi lạc (Illustrious
Learning). Năm 1008, vua Tống Chân Tông tôn Ngài là Huyền Thánh Văn Tuyên Vương; năm 1012 lại tôn là Chí Thánh Văn Tuyên Vương. Ngài cũng
được tôn là Tuyên Thánh. (Huệ Khải, Tìm Hiểu Hai Bài Tiên Thiên Khí Hóa Và Quế Hương
Nội Điện. Hà Nội: Nxb Tôn Giáo, 2012, tr. 70.) Trong đạo Cao Đài, lễ kỷ niệm
Đức Văn Tuyên Khổng Thánh được tổ chức hằng năm vào ngày 27 tháng 8 âm lịch.
([37]) Quý đạo hữu có
thể tham khảo: Diệu Nguyên, “Đề Thi Chỉ
Có Tâm Và Cảnh”, in trong Đại Đạo Văn
Uyển, Tập Nguyên (Hà Nội: Nxb Tôn Giáo, 2012, tr. 83-101).
► Quý đạo hữu gần xa muốn nhận các kinh sách do Chương
Trình Chung Tay Ấn Tống Kinh Sách Đại Đạo xuất bản, được gởi biếu qua bưu điện,
xin vui lòng gởi e-mail về: daidaovanuyen@gmail.com
Và xin quý đạo hữu hoan hỷ trả giúp cước phí cho bưu điện ngay khi nhận được sách biếu.
Và xin quý đạo hữu hoan hỷ trả giúp cước phí cho bưu điện ngay khi nhận được sách biếu.
Ban Ấn Tống trân trọng cảm ơn quý đạo hữu.