Thứ Ba, 6 tháng 11, 2018

8. ĐI VỀ ĐÂU VIỆT NAM ƠI! / PTG XƯA VÀ NAY


ĐI VỀ ĐÂU VIỆT NAM ƠI!
Trúc Lâm Thiền Điện (Vĩnh Long)
Ngọ thời, ngày 08-4 Tân Hợi (Chủ Nhật 02-5-1971)
Thông công: Bộ phận Hiệp Thiên Đài Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý Cao Đài Giáo Việt Nam. Pháp Đàn: Bảo Pháp
Chơn Quân Huỳnh Chơn. Đồng Tử: Thanh Căn (xuất khẩu).
THI
THẦN Đạo ([1]) ngửa nghiêng dải đất lành
HOÀNG môn chưa tỉnh ở ngoài canh ([2])
BỔN lai chôn chặt mồ tham vọng ([3])
CẢNH cũ còn treo tấm sử xanh.([4])
Bổn Thần chào chư liệt vị Thiên ân.([5]) Chào chư đạo tâm lưỡng phái.
Giờ này Bổn Thần đắc lịnh báo tin có Đức Công Thần Phan Thanh Giản lai đàn. Vậy chư liệt vị nghiêm trang thành tâm tiếp điển. Bổn Thần xin chào chung, xuất ngoại hộ cơ.
THI
Vạn đóa hoa thơm một cội cành
Nào người sứ mạng biết cho chăng?
Tình non đi với tình nhơn loại
Nghĩa nước chung nguồn nghĩa chúng sanh.
Phan Thanh GiẢn
Lão Thần chào chư Thiên mạng Tam Kỳ Phổ Độ. Mừng chư hiền sĩ, hiền muội trung đàn hiện diện và mừng các đại diện Hội Thánh, thánh thất, thánh tịnh tề tựu ([6]) hôm nay.
Lão được lịnh Tam Giáo Tòa và Tam Trấn Oai Nghiêm giáng đàn giờ nay thể theo lịnh dạy nơi Trước Lâm Thiền Điện này.
Nhân lễ Phật Đản,([7]) Lão hân hạnh gặp lại chư hiền sĩ, hiền muội nơi đây để chuyển đến chư hiền khắp cả một vài lời tâm huyết, tưởng cũng là một khích lệ, một đặc ân, như Đức Quan Âm đã dạy, không cần phải những đặc ân hữu hình trên danh nghĩa làm thỏa mãn lòng phàm.
Đây, sau những hồi bận rộn về tinh thần trên công vụ đạo đức, chư hiền sĩ, hiền muội hãy bình tâm trấn an sự oi bức của tiết trời mùa hạ để lắng nghe Lão trần tố ([8]) đôi câu. Miễn lễ. Chư hiền sĩ, hiền muội an tọa.
THI
Hằng mấy ngàn năm Phật đã truyền
Tiểu thừa đại hạnh đủ cơ duyên
Để cho nhơn loại về căn cội
Vạn pháp nào ra khỏi nhất nguyên.
Thật vậy, thế thường có câu tục ngữ “Trời sanh voi thì Trời sanh cỏ”. Đến như Trời sanh ra con người cũng ban cho con người một luật tắc để sống, nói đúng hơn là cái đạo sống, ngay từ buổi đầu và rồi lần lượt con người lãng quên hay làm lu mờ cái đạo sống căn bản hằng thường ấy.
Phân chia nó ra từng mảnh vụn chi li nên con người nhận thức Đạo chịu những sai biệt đủ thứ. Cách đây mấy ngàn năm, nơi đất Ấn Độ cũng đã xảy ra tình trạng này. Giai cấp phân chia hết sức là bất bình đẳng. Đời sống rất thiếu nhân bản. Đức Thích Ca đã lãnh sứ mạng làm cuộc đổi thay này từ Thiên ý, ngài đã san phẳng những hố hang gò đống về giai cấp, về tư tưởng và về tín ngưỡng đạo giáo. Giá trị của ngài là giá trị muôn thuở muôn phương nên mãi cho tới nay, cho tới khắp cả hoàn cầu, giáo lý của ngài, uy danh của ngài, đều được đời sùng thượng,([9]) hoặc xác thiệt, hoặc sai lầm.([10])
Sở dĩ được như vậy là do ngài thật sự thành công trên công cuộc truyền đạt đạo lý của Đức Thượng Đế. Ngài đã hoàn toàn đắc đạo. Ngài đã làm công việc chỉ trăng cho thiên hạ.([11]) Nhưng phần đông thiên hạ không chịu khó dò dẫm theo ngón tay chỉ hướng mà tìm thấy ánh trăng, chỉ ngưng trụ nơi ngón tay vô thường,([12]) tưởng là đủ rồi. Thảm trạng bi đát ngàn đời vì đó mà sinh sôi trong xã hội nhơn sinh.
Đức Thượng Đế giao cho Phật Thích Ca một nhiệm vụ truyền bá đạo lý chớ không phải truyền bá danh hiệu Thích Ca, cũng như ngài muốn mọi người tìm thấy vầng trăng chớ không phải chỉ tìm thấy ngón tay mà thôi.
Nói đến đây, Lão nhớ lại câu chuyện địa phương hiện tiền: Những nhà hảo tâm xây đắp nên tháp kỷ niệm cho Lão để hậu thế dân tộc lấy đó làm tấm gương hy sinh tinh thần vì Tổ Quốc, chớ không phải chỉ vì muốn Lão làm kẻ canh gác vô hình cho một địa phận. Nếu vì mục đích tầm thường như thế, hóa ra ý chí cao cả của dân tộc bị bán rẻ hay sao?
Xin trở lại vấn đề.
Chư hiền ôi! Bản tính của con người, nhất là con người đã có trên bốn ngàn năm văn hiến, vốn là hiếu hòa. Sở dĩ có chiến tranh vì bản năng tự vệ, và đáng tiếc là những cuộc nội loạn bởi con người không lo trở về mình, trở về nguồn sống đạo, hòa điệu cùng vạn vật, cùng Thượng Đế.
Thượng Đế từ vô thỉ ([13]) đã đặt để cho mọi loài mọi vật một danh vị ([14]) riêng nhau. Chẳng hạn cam là cam, không có chuyện cam là bưởi; cho dẫu cam bị lai giống bưởi mà sanh ra trái, thì trái ấy cũng không có giá trị đáng chuộng trên thị trường.
Ở nhân loại, muốn đi tới chỗ gọi là năm châu chung chợ, bốn biển chung nhà, trên bình diện tinh thần và thể chất, cũng không bỏ qua nguồn gốc dân tộc, vì nó là căn để,([15]) là phần tử của quả đất mênh mông.
Những ai vì cảm nhiễm luồng gió bên ngoài cao độ, vội vàng cởi bỏ bộ xiêm y cố hữu ([16]) để mong đồng hóa con người trở nên một đại đồng thế giới, thì nói chuyện nhân hòa([17]) chỉ là nhân hòa ảo tưởng, nói chuyện tiến bộ chỉ là tiến bộ trên nẻo vong nô ([18]) mà thôi. Chi nên,([19]) hỡi những hàng sứ mạng lớn lao xuất thân hành trình từ địa phương bé nhỏ, hãy trả lại cho chính mình cái bản chất hiếu hòa trong tiết điệu nhịp nhàng cùng thiên nhiên đạo lý. Hãy xây dựng cho chính mình một lập trường thuần nhứt nhưng chẳng đơn phương để huynh đệ chi tình ([20]) được biểu đồng thông cảm, không đố kỵ, không gây thành kiến bất hảo lẫn nhau. Hãy mở đôi mắt chơn tu từ ái mà nhìn trước muôn vàn sự kiện.
Có đứng trên đỉnh của đài cao minh triết mới nhìn thấy bao nhiêu hệ thống tư tưởng của con người, nào lớn nào nhỏ, nào cong nào thẳng, nào mới nào cũ, đều trực nhận ra cả. Khi có một lối nhìn tổng quát, một quan niệm bao hàm, thì sự hành đạo mới luôn luôn hòa đồng mà không chia phân thành bè đảng, dù là bè đảng về tư tưởng, tánh tình, đúng câu “đồng nhi bất đảng” ([21]) của cổ nhân vậy.
Không hiểu tại sao ai cũng biết rằng một thực thể bị cắt xén ra nhiều manh miếng càng bị hư hao mất mát đến độ tiêu vong, mà vẫn cắt vẫn xén, để rồi không hay ngày nào lăn vào vòng tận diệt.
Bổn phận của chư hiền sĩ, hiền muội là ngăn chận cái thảm họa đó. Ước vọng sau cùng của một dân tộc đang đau khổ là nhắm vào hàng đạo đức chơn tu. Hoài bão sau cùng của sự rạn nứt tinh thần nhân loại cũng nhắm vào chất nhựa tình thương phát nguyên từ nguồn sống đạo vô biên.
Này những con cháu Lạc Long! Này những bậc thiết tha vì tiền đồ nhân loại! Này những trang sứ mạng thái hòa trong Đại Đạo Kỳ Ba! Cách đây lâu lắm rồi, Đức Phật Thích Ca đã bảo: Hỡi chúng sinh, hãy tự thắp đuốc lên mà đi! ([22])
BÀI
Đi về đâu Việt Nam ơi!
Về nơi nhân bản của Trời trước kia
Non sông một dải kia kìa
Đừng cho ai cắt ai chia giống nòi
Tinh thần đạo đức hằng noi
Phát huy khắp chỗ cùng nơi hoàn cầu
Đời đang dao động muôn màu
Là người khoác tấm sồng nâu tháng ngày
Tâm điền ([23]) khuây lặng ([24]) sớm mai
Xứng danh cho kẻ lạt chay khổ mình
Tình dân như nước Thái Bình ([25])
Tình người như thể công trình Tạo Đoan ([26])
Trải qua bao cuộc thương tang
Đều trông tự thấy bẽ bàng cho chung
Nào người đạo đức anh hùng
Đừng bi thiết lắm mà dừng đôi chơn
Nào đâu những bậc hiền nhơn
Đừng chôn chí cả trong cơn ngặt nghèo
Dông to nhờ vững tay lèo ([27])
Sóng về lòng nước, gió vèo không trung ([28])
Đó là bĩ thới kiết hung ([29])
Thời cơ vận mệnh đắc trung ([30]) mới thành
Loạn ly danh những là danh ([31])
Trời trong gió lặng mới rành khúc nôi ([32])
Chỉ toan vững bước người ôi
Kia nguồn suối cũ chớ bồi bụi nhơ ([33])
Ta về bên cảnh trời thơ
Xây cho nhà Việt nên cơ nghiệp Trời
Bao niềm tâm sự đầy vơi
Tương phùng cửa Phật ([34]) tỏ lời thiệt hơn
Nhắn cho các bậc tu chơn
Tam Kỳ Phổ Độ keo sơn đạt thành ([35])
Có keo sơn vạn lòng thành
Mới ngăn được những sóng thần ([36]) hiểm nguy
Đường đi ta hãy cùng đi
Lời lành ta cứ vân vi ([37]) lời lành
Mặc ai trong chốn phù sanh ([38])
Đặt bày xuôi ngược toan tranh với mình
Đó là Đại Đạo chi tình.([39])
Chư hiền sĩ, hiền muội! Giờ này Lão cũng mang thánh ý từ Tam Giáo Tòa đến chứng lòng thành kỉnh của chư hiền sĩ, hiền muội khắp nơi về đây để hành lễ, và với thiện chí lo cho đạo cuộc ([40]) được ổn thỏa cùng nhau.
Nơi địa phương này, hiện nay chư hiền cứ đà cũ mà phát triển. Thiêng Liêng chưa đến lúc cần phải chỉ dạy thêm.
Cái quan trọng của đàn nay và những đàn đã có, sẽ có, được thiết lập nơi này, là để nói lên tiếng nói từ cõi vô hình để chuyển lần vào lòng nhân thế, làm động lực cảm hóa nhơn sanh, biểu dương cho tinh thần tự tin, tự tiến trên đường phục hồi nhân bản, phục hồi chơn lý đạo trong đời sống con người. Cái công dụng của Trước Lâm Thiền Điện, của Vạn Hạnh Đạo Tràng ([41]) là vậy.


Tiện đây, Lão cũng chuyển lời của Tam Trấn Oai Nghiêm([42]) về Ban Phước Thiện Tây Thành thánh thất.([43]) Hiền đệ Thiên Huyền Thanh ([44]) cố gắng phát triển tinh thần hành đạo cho mọi trách nhiệm sở tại để Ban Phước Thiện thành hình hầu bảo đảm tương lai cho cơ đạo, và bảo cùng hiền đệ được biết: Tất cả ưu tư về cuộc diện cơ đạo ([45]) hiện thời mà chư hiền sĩ, hiền muội đang giải quyết, phần Thiêng Liêng đã để cho chư hiền tận dụng khả năng sẵn có về tâm trí sáng suốt hy sinh của mình để phụng sự cho thánh sự. Lẽ dĩ nhiên là đã phụng sự cho thánh sự thì đã có thánh tâm thánh ý, để rồi một khi đã thành tựu được thánh sự nơi nào thì nơi đó ắt là thánh địa vậy.([46]) Hễ có thánh địa mới xuất được thánh nhơn hiền sĩ; bằng trái lại, thì kết quả cũng trái lại đó, chư hiền sĩ, hiền muội.
Thôi, Lão cũng ban ơn và chấm công chư hiền một lần nữa đã có tinh thần vì Đạo đến đây trong ngày này, và để không có gì làm trống trải khi mỗi hiền sĩ, hiền muội trở gót về mỗi nơi. Lão được lịnh có sự hiện hữu bằng linh điển trong giờ này và những lời tất yếu ([47]) mà Lão vừa bày tỏ qua, chư hiền có thể ghi nhớ làm niềm an ủi trên bước đường đạo xa xôi mà trở ngại phải có.
THI
Bao lời cạn tỏ hết lòng này
Ý đạo còn nhiều chửa khỏa khuây ([48])
Mượn chút mực trần ([49]) ghi chút ý
Giã từ đàn nội trở về Tây.([50])
Một lần nữa, Lão cũng ban ơn phái đoàn Cơ Quan vâng lịnh hành sự đã tròn sứ mạng. Sau khi phản hồi,([51]) tiếp tục phần vụ đạo đức đang chờ đợi.
Lão chào chung tất cả. Lão thăng.
SUY NIỆM 5
5.1. Khi giáng cơ báo đàn, Đức Thần Hoàng Bổn Cảnh xưng danh qua bài tứ tuyệt quán thủ đã than rằng Thần Đạo tại nước Việt Nam đang ngửa nghiêng, tức là truyền thống Thần Đạo của dân tộc Hồng Lạc đang hồi lung lay, suy yếu. Thần Đạo này là chi?
Thần Đạo (the Way of Deities) là Đạo của những công dân hiền đức trong một nước. Những vị này bình sanh có thể chẳng theo một tôn giáo nào, nhưng suốt đời sống lương thiện, đạo đức, trung hiếu, tiết nghĩa, biết đem tài trí ra giúp nước, đem xương máu ra giữ gìn non sông xã tắc, v.v... Như thế, khi còn sống các vị này đã trọn vẹn Nhân Đạo (đạo làm Người: the Way of Humans). Sau khi mãn kiếp lìa trần, linh hồn các vị về chầu Thượng Đế, bấy giờ sẽ được Đức Chí Tôn tùy theo công đức bình sanh mà phong cho các vị làm Thần hay Thánh.
Chẳng hạn ngài Hồ Văn Trung (1884-1958), tức nhà văn Hồ Biểu Chánh, làm quan thời Nam Kỳ thuộc Pháp, nhưng suốt đời thanh liêm, trung thực, cặm cụi soạn sách và viết tiểu thuyết, dùng văn chương chở chuyên đạo lý (văn dĩ tải đạo) với chủ đích góp phần xây dựng xã hội Nam Kỳ thời thuộc Pháp đang bị băng hoại nhiều giá trị về nhân luân phẩm tiết.([52]) Văn nhân sau khi tạ thế, được Đức Chí Tôn phong vào hàng Thánh. Sau đó ngài giáng cơ tại Chí Thiện Đàn (Minh Đức Nho Giáo) hé lộ huyền vi:
Bởi vì tôi là đại nguyên nhân lâm phàm nên biết đặt sách ra cho thế nhân xem học hỏi. Tôi làm xong phận sự ở quan trường, tôi thương dân chúng, đặt sách răn đời.
Hôm nay bỏ xác rồi, tôi được Đức Ngọc Đế chấm phê là trung hậu, nhân đức. Sách tôi để lại dù không văn hoa lý sự như bây giờ, nhưng ẩn tàng đạo đức kinh luân. Nên khai [Hội] Long Vân nầy mới được Ngọc Đế chấm phê vào hàng Thánh, được ngang với các vị Thánh trung quân ái quốc.([53])
Trường hợp ngài Hồ Biểu Chánh đã làm chứng cho lời dạy của Đức Thần Oai Viễn Trấn Quan Thánh Đế Quân trong đàn cơ ở Cần Thơ ngày 02-11 Tân Mùi (Thứ Năm 10-12-1931): Còn người văn chương quân tử mà làm đặng một pho sách dạy chúng luân thường đạo lý thì người đặng thành Thánh.([54])
Khi lãnh hội ý nghĩa Thần Đạo như trên, chúng ta hiểu vì sao Đức Thần Hoàng Bổn Cảnh than: Thần Đạo ngửa nghiêng dải đất lành. Ngài muốn nói xã hội Việt Nam đang hồi ly loạn đảo điên, các giá trị đạo đức lâu đời hiện băng hoại, con người sống không ra con Người thì biết lấy gì mà được Trời phong Thần, phong Thánh sau khi họ bỏ xác phàm.
5.2. Trong bài thơ tứ tuyệt mở đầu thánh giáo, Đức Thánh Phan Thanh Giản ví tất cả mọi sắc tóc màu da như trăm nghìn cánh hoa muôn vẻ cùng xuất phát từ một cội cành duy nhất (Thượng Đế): “Vạn đóa hoa thơm một cội cành”, và sau đó Ngài dạy con người hãy biết hòa hài giữa đất nước và thế giới, đồng bào và đồng loại: Tình non đi với tình nhơn loại / Nghĩa nước chung nguồn nghĩa chúng sinh.([55])
5.3. Đức Phan Chơn Thánh giáng đàn ngày 08-4 Tân Hợi và dạy: Nhân lễ Phật Đản, Lão hân hạnh gặp lại chư hiền sĩ, hiền muội nơi đây (...). Đó là ngài nói theo nếp cũ của Phật Giáo. Nguyên, trước năm 1950, cũng như một số nước Đông Á, Việt Nam mừng lễ Phật Đản (Vesak) vào ngày 08-4 âm lịch. Đại Hội Phật Giáo Thế Giới lần thứ Nhất (the First Conference of the World Fellowship of Buddhists) tổ chức tại Tích Lan (Sri Lanka) từ 25-5 đến 08-6-1950, quy tụ đại biểu hai mươi sáu nước thành viên (trong đó có Việt Nam) đã đồng thuận chọn ngày Phật Đản cho toàn thế giới là ngày 15-4 âm lịch. Tuy nhiên, đạo Cao Đài vẫn noi theo truyền thống cũ, hằng năm đều kỷ niệm Đức Cồ Đàm (Gautama) sanh ra đời vào mùng 8 tháng 4 âm lịch.
5.4. Đức Phan Chơn Thánh dạy: Ngài [Đức Phật] đã làm công vic chỉ trăng cho thiên hạ.
Tuy không nói rõ là dẫn từ kinh nào của nhà Phật, một số tác giả Việt Nam quen bảo rằng Đức Phật có nói: Ta là ngón tay chỉ trăng. Đừng nhìn Ta; hãy nhìn trăng. Cũng giống vậy, một số tác giả Anh, Mỹ không ghi xuất xứ, nhưng cứ bảo đây là lời Phật dạy: I am a finger pointing to the moon. Don’t look at me; look at the moon.
Riêng nữ sĩ Carolyn Myss, tác giả quyển Sacred Contracts: Awakening Your Divine Potential (New York: Three Rivers Press, 2003), lại bảo câu nói ấy là của Tổ Sư Bồ Đề Đạt Ma, và nhấn mạnh: Ta chỉ là ngón tay chỉ trăng. (I am but a finger pointing to the moon.) Trong sách ấy (tr. 233), bà viết: Các đại sư dạy về tâm linh liên tục hướng dẫn môn sanh hãy biết tới năng lực tâm linh của chính họ. Trong một nỗ lực nhằm giác ngộ các môn sanh về tiềm lực của họ, các bậc hướng đạo ấy lặp lại câu nói của Tổ Sư Bồ Đề Đt Ma: Ta chỉ là ngón tay chỉ trăng. Đừng nhìn Ta; hãy nhìn trăng.([56])
Thật ra, trong Kinh Lăng Già và Kinh Lăng Nghiêm, Đức Phật có ví von về ngón tay chỉ trăng, nhưng không bảo rằng Phật là ngón tay chỉ trăng:
- Trong Kinh Lăng Già, Đức Thế Tôn (Bhagavan) dạy Bồ Tát Ma Ha Tát Đại Huệ (Mahamati the Bodhisattva-Mahasattva) thế này: Như kẻ vô minh bám chặt đầu ngón tay thay vì mt trăng, thì cũng thế, những ai bám vào văn tự đâu biết được đạo của ta.([57])
- Trong Kinh Lăng Nghiêm, Quyển 2, Đức Phật dạy ngài A Nan như sau: Ví như có người dùng ngón tay chỉ mt trăng cho người kia thấy, người kia nhân theo ngón tay chỉ mà nhìn thấy mặt trăng. Nếu người kia cứ dòm ([58]) vào ngón tay mà cho đó là mặt trăng, thì chẳng những đã bỏ mất mặt trăng, mà còn bỏ mất cả ngón tay chỉ nữa! Vì sao thế? Vì người đó đã nhận ngón tay chỉ mặt trăng là chính mặt trăng vậy.([59])
Năm 1971, nhân lễ Phật Đản ở Vĩnh Long, Đức Phan Chơn Thánh nhắc lại sự ví von của Đức Phật, nhưng thay vì nói Phật bảo rằng ngài là ngón tay chỉ trăng, thì thánh giáo dạy rõ: Ngài [Đức Phật] đã làm công vic chỉ trăng cho thiên hạ. Quả thật, tôi rất thích khi đọc câu này, vì tính chính xác học thuật trong từng chữ mà Đức Phan Thanh Giản đã viết ra bằng ngọn linh cơ.
5.5. Có người ngộ nhận đồng nhi bất đảng” là lời Đức Khổng Tử nói. Tuy nhiên, trong thánh giáo này Đức Phan Chơn Thánh chỉ nói phiếm định là lời của “cổ nhân”.
Chúng ta biết rằng Luận Ngữ có hai câu sau đây:
a. Luận Ngữ (13:23) chép lời Đức Khổng: Quân tử hòa nhi bất đồng; tiểu nhân đồng nhi bất hòa.([60]) Nguyễn Hiến Lê (1912-1984) dịch: Người quân tử hòa hợp nhưng không a dua, kẻ tiểu nhân a dua mà không hòa hợp.
Nguyễn Hiến Lê chú thích câu dẫn trên như sau (lược trích):
- Hòa (hòa hợp) có nghĩa là đưa ý kiến của mình ra, góp với ý kiến của người để bàn bạc với nhau rồi tiến tới sự thống nhất. Đồng là phụ họa với người, người nói sao mình cũng nói theo, chứ không dám đưa ý kiến của mình ra để cùng nhau bàn bạc.
- Ngày nay hòa nhi bất đồng thường dùng với nghĩa hơi khác: Chủ trương (chính trị, tôn giáo…) của mình với người dẫu khác nhau thì mình vẫn không đả kích người, tìm cách hợp tác với người, hòa với người nhưng không thay đổi chủ trương của mình (bất đồng).
b. Luận Ngữ (15:22) chép lời Đức Khổng: Quân tử căng nhi bất tranh, quần nhi bất đảng. Lê Anh Minh dịch: Quân tử trang nghiêm nhưng không tranh chấp hơn thua với ai; sống trong cộng đồng nhưng không kéo bè kết đảng.([61])
Lê Anh Minh chú thích: Quần là hợp quần, sống trong tập thể. Đảng là kéo bè kết đảng. Ý quần nhi bất đảng bao hàm hòa nhi bất đồng.
Từ hai câu Luận Ngữ dẫn trên, dân gian ghép lại thành Quân tử hòa nhi bất đồng, đồng nhi bất đảng; và khá phổ biến trong cộng đồng người Hoa là thành ngữ đồng nhi bất đảng.([62])
Tóm lại, Đức Phan Chơn Thánh đã theo “phiên bản” dân gian (folk version) khi dạy: (S)ự hành đạo mới luôn luôn hòa đồng mà không chia phân thành bè đảng, dù là bè đảng về tư tưởng, tánh tình, đúng câu “đồng nhi bất đảng” của cổ nhân vậy.
5.6. Trong bài thánh giáo tại thánh thất Minh Đức (Phú Yên), nhan đề Phải Hoàn Toàn Cái Danh Tu Niệm, Đức Phan Chơn Thánh hỏi: Các hiền có hiểu chữ thánh thất nghĩa là chi không? (tr. 83) Trong bài thánh giáo này, khi khuyên bảo một vị đại diện cho thánh thất Tây Thành ở Cần Thơ, Đức Phan Chơn Thánh dạy: (M)ột khi đã thành tựu được thánh sự nơi nào thì nơi đó ắt là thánh địa vậy. Lời dạy này liên quan tới ý nghĩa đích thực của thánh thất.
Để hiểu rõ hơn lời dạy của Đức Phan Chơn Thánh, chúng ta ôn lại lời dạy của Đức Quan Âm Bồ Tát tại thánh thất Tây Thành vào Tý thời, ngày 12-3 Kỷ Dậu (Thứ Hai 28-4-1969):
Thánh thất là nhà thánh. Hễ là nhà thánh thì là nhà của chư thánh hội họp, thảo luận mọi việc theo thánh ý để hành thánh sự đúng theo tôn chỉ Đại Đạo.
Đừng tưởng rằng mình còn phàm trần nhục thể không khi nào dám nghĩ đến nghĩa ấy. Vì người tín hữu mà hằng ngày thảo luận âu lo việc làm theo thánh ý, mở mang được thánh tâm để thực hành được thánh sự, đó là thánh tại phàm rồi còn gì nữa.
Thử hỏi, Khổng Phu Tử ngày nay hậu thế tôn sùng là bậc Thánh Nhân, nguyên thủy Người cũng là phàm trần nhục thể, nhưng đã lãnh hội được thánh ý, mở mang được thánh tâm, thực hành được thánh sự trọn vẹn một đời không xao lãng, đương nhiên đắc vị Thánh, nào ai chối cãi được.
Chỉ e rằng mình ở trong nhà thánh, nhưng ý còn phàm phu tục tử, hờn giận, ghen ghét, đố kỵ, ố nhơn thắng kỷ,([63]) nói việc chẳng lành, làm việc chẳng lành; như vậy mới không xứng đáng là chớ.
Phú Nhuận, 10-10-2018
Huệ Khải




([1]) Thần Đạo 神道: Không phải là Thần Đạo (Shinto, Kami-no-michi) của người Nhật. Xem Suy Niệm 5.1. cuối bài thánh giáo này (tr. 108).
([2]) hoàng môn 皇門: Cổng hoàng thành (royal gate). Hoàng môn chưa tỉnh ở ngoài canh: Tạm hiểu là kẻ có phận sự canh giữ, bảo vệ đất nước vẫn còn mê muội.
([3]) bổn lai 本來: Bản lai; tâm lành tánh thiện sẵn có ở mỗi người khi sanh ra, và chưa bị cuộc đời làm cho ô nhiễm, hư mất. Bổn lai chôn chặt mồ tham vọng: Tham vọng quá lớn của con người trở thành nấm mộ chôn sâu tâm lành tánh thiện; do đó con người trở nên tham tàn, bất chấp trời cao đất dày.
([4]) sử xanh (thanh sử 青史): Lịch sử, sử ký (historical record, history). Ngày xưa chưa biết làm ra giấy, viết sử phải ghi vào các thẻ tre, do đó gọi lịch sử hay sử ký là thanh sử (thanh: màu xanh của tre). Cảnh cũ còn treo tấm sử xanh: Nơi cảnh cũ này (đất Vĩnh Long) còn nêu cao gương sáng trung hiếu tiết nghĩa (của ngài Phan Thanh Giản) trong sử sách. Bài tứ tuyệt báo đàn vừa xưng danh (quán thủ), vừa ngầm giới thiệu Đức Phan Thanh Giản sẽ giáng cơ dạy đạo.
([5]) Thiên ân 天恩: Người thọ hưởng ơn Trời (Heaven’s favour) để thi hành sứ mạng giáo dân vi thiện (dạy dân làm lành).
([6]) tề tựu 齊就: Cùng tới đông đủ.
([7]) Xem Suy Niệm 5.3. cuối bài thánh giáo này (tr. 110).
([8]) trần tố 陳訴: Bày tỏ, bộc bạch rõ ngọn ngành sự việc.
([9]) sùng thượng 崇尚: Tôn quý, coi trọng (holding in esteem, revering).
([10]) hoặc xác thiệt: Là kính ngưỡng Đức Phật theo chánh tín, tu theo chánh pháp Phật dạy. hoặc sai lầm: Là mê tín, van vái Đức Phật, cầu xin được thỏa mãn các tư dục, tham vọng bản thân.
([11]) chỉ trăng: Xem Suy Niệm 5.4. cuối bài thánh giáo này (tr. 111).
([12]) ngón tay vô thường: Ngón tay hữu hình, sẽ bị hủy hoại.
([13]) từ vô thỉ (thủy) 自無始: Từ chỗ không có khởi đầu; từ trước mọi sự khởi đầu (before the very beginning).
([14]) danh vị 名位: Tên gọi và vị thế (name and position).
([15]) căn để 根柢: Gốc rễ (root); nền tảng (foundation).
([16]) cố hữu 故有: Vốn có, sẵn có từ trước.
([17]) nhân hòa 人和: Sự hòa hiệp, hòa thuận giữa người với người.
([18]) vong nô 亡奴: Đánh mất gốc của mình mà làm nô lệ cho người.
([19]) chi nên: Thế nên, bởi thế.
([20]) huynh đệ chi tình 兄弟之情: Tình anh em.
([21]) đồng nhi bất đảng: Xem Suy Niệm 5.5. cuối bài thánh giáo này (tr. 112).
([22]) Trước khi nhập niết bàn, Đức Phật dạy cao đồ A Nan: “Vậy nên này Ananda, hãy tự mình là ngọn đèn cho chính mình (atta-dipà viharatha), (…)” Hòa Thượng Thích Minh Châu (1918-2012) chú thích rằng chữ dipà có nghĩa là ngọn đèn, nên có thể dịch: Tự mình thắp đuốc lên mà đi. (https://thuvienhoasen.org/a15432/hay-tu-minh-thap-duoc-len-ma-di)
([23]) tâm điền 心田: Ruộng lòng. Lòng người như thửa ruộng, không chăm sóc thì cỏ dại mọc hoang; biết gieo giống tốt, vun phân tưới nước thì sẽ sanh ra trái ngọt, cây lành, kết quả tốt đẹp. (The field of the mind, or heart, in which spring up good and evil.)
([24]) khuây lặng: Làm ngơ, không nghĩ tới (khuây) những biến thiên ngoại cảnh cho tâm được an tĩnh (lặng).
([25]) Tình dân như nước Thái Bình: Cái tình người chân tu đối với chúng dân hãy nên bao la như biển Thái Bình. (Thái Bình Dương là đại dương lớn nhất địa cầu.)
([26]) tạo đoan 造端: Khởi đầu, khởi sự (beginning, originating); đầu mối (the beginning). Thượng Đế là Đấng tạo hóa, là khởi đầu của vạn vật, chúng sanh; do đó cũng gọi Trời là Tạo Đoan. Tình người như thể công trình Tạo Đoan: Cái tình của người chân tu đối với đồng loại (tình người) cũng như tình Tạo Hóa hiếu sinh dựng gầy muôn loại.
([27]) tay lèo: Tay lèo (điều khiển dây buồm) và tay lái (bẻ bánh lái).
([28]) Sóng về lòng nước, gió vèo không trung: Sóng yên, gió lặng.
([29]) bĩ thới (thái) 否泰: Vận rủi, xấu () và vận may, tốt (thái). kiết hung 吉凶: Tốt lành (kiết, cát) và không tốt (hung).
([30]) đắc trung 得中: Đạt được chỗ trung, không thiên lệch bên nào.
([31]) Loạn ly danh những là danh: Đất nước chiến tranh, phần đông con người chỉ biết chạy theo danh vọng (để tìm tư lợi).
([32]) khúc nôi: Sự tình.
([33]) Kia nguồn suối cũ chớ bồi bụi nhơ: Đừng làm hư mất giá trị cao đẹp là vốn liếng dân tộc gầy dựng từ ngàn xưa.
([34]) tương phùng cửa Phật: Gặp nhau ở chùa Di Lạc (tức Trước Lâm Thánh Đức Thiền Điện).
([35]) keo sơn: Chữ Hán là tất giao 漆膠. Tất là keo nấu bằng da động vật (a dao); sơn là nhựa cây sơn. Hai thứ này có tính kết dính. Tam Kỳ Phổ Độ keo sơn đạt thành: Phải một lòng chung thủy, gắn bó không rời với sứ mạng mới có thể thành tựu mục đích cao cả của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ.
([36]) sóng thần: Dục vọng dữ dội, cường quyền bá đạo... Nói chung là những lực cản cốt làm trì trệ hoặc suy yếu chánh đạo.
([37]) vân vi: Tỏ rõ đầu đuôi.
([38]) phù sanh 浮生: Kiếp sống trôi nổi, bấp bênh, tạm bợ, nay còn mai mất (an ephemeral floating life).
([39]) Đại Đạo chi tình 大道之情: Tình Đại Đạo. Tình cảm (nhẫn hòa, vô tranh...) của người chơn tu theo đúng đường lối Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ.
([40]) đạo cuộc (đạo cục 道局): Tình hình chung, tình thế chung của đạo Cao Đài.
([41]) đạo tràng (trường) 道場: Chỗ tu học, nơi sinh hoạt tôn giáo. Trúc Lâm Thiền Điện cũng là Vạn Hạnh Đạo Tràng.
([42]) Tam Trấn Oai Nghiêm 三鎮威嚴: Có thể là ba vị Nhứt Trấn (Lý Bạch), Nhị Trấn (Quan Âm), Tam Trấn (Quan Thánh); hoặc chỉ là Tam Trấn (Quan Thánh).
([43]) Thánh thất Tây Thành: Ơn Trên ban lịnh thành lập thánh thất này năm 1950, ở mặt tiền đường Van Vollenhoven (sau đổi tên là đường Nguyễn Huỳnh Đức). Hiện nay thánh thất ở số 55 đường Nam Kỳ Khởi Nghĩa, quận Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ. Mười hai vị hướng đạo (phái nam) của Tây Thành có thánh danh là: Thiên Huyền Chơn (Nguyễn Thành Tựu), Thiên Huyền Đức (Phan Lương Báu), Thiên Huyền Huỳnh (Phan Lương Hiền), Thiên Huyền Lạc (Võ Văn Chà), Thiên Huyền Linh (Phan Lương Thiệu), Thiên Huyền Minh (Hồ Quang Sớm), Thiên Huyền Pháp (Huỳnh Quốc Lập), Thiên Huyền Quang (Lê Quang Nghi), Thiên Huyền Tâm (Nguyễn Văn Tự), Thiên Huyền Thanh (Phan Lương Bản), Thiên Huyền Vân (Phạm Thành Nam), Thiên Huyền Võ (Hồ Quang Hinh).
([44]) Thiên Huyền Thanh: Thế danh Phan Lương Bản.
([45]) cuộc diện cơ đạo: Đạo cục. Xem chú thích (40) tr. 106.
([46]) thành tựu được thánh sự nơi nào thì nơi đó ắt là thánh địa vậy. Xem Suy Niệm 5.6. cuối bài thánh giáo này (tr. 114).
([47]) tất yếu 必要: Cần thiết, không thể thiếu (essential, necessary, indispensable).
([48]) chửa khỏa khuây: Chưa vơi hết được những nỗi niềm mà Đức Phan Chơn Thánh muốn dốc cạn cùng người dân nước Việt.
([49]) mực trần: Nét mực của ban điển ký (người trần gian) ghi chép lời Đức Phan Chơn Thánh dạy qua phương tiện cầu cơ.
([50]) trở về Tây: Trở về Tây phương (cõi cực lạc).
([51]) phản hồi 返迴: Quay trở về Sài Gòn.
([52]) Huệ Khải, Hồ Biểu Chánh Xưa Và Nay. Hà Nội: Nxb Tôn Giáo, 2014, tr. 59.
([53]) Hồ Biểu Chánh Xưa Và Nay, tr. 64-65.
([54]) Kinh Tam Nguơn Giác Thế. Cần Thơ: nhà in Phương Nam, 1953, Cao Triều Trực ấn tống, tr. 36.
([55]) Huệ Khải, Cái Đẹp Theo Mỹ Học Cao Đài / Beauty in Terms of the Caodai Aesthetics. Hà Nội: Nxb Hồng Đức, 2017, tr. 13.
([56]) Great spiritual masters have continually directed their students to become aware of the power of their own spirits. In an effort to enlighten their students about their inner potential, such leaders echo the words of the Buddhist patriarch Bodhidharma: I am but a finger pointing to the moon. Don’t look at me; look at the moon.
([57]) As the ignorant grasp the finger-tip and not the moon, so those who cling to the letter, know not my truth. (The Lankavatara Sutra - A Mahayana Text, Daisetz Teitaro Suzuki trans. Delhi: Motilal Banarsidass Publishers, 2009, Chap. Six, p. 193.)
([58]) dòm: Nhìn, ngó.
([59]) Bản dịch từ Hán ra Việt của cư sĩ Hạnh Cơ. (https://thuvienhoasen.org/ p16a18841/ quyen-2)
([60]) 君子和而不同; 小人同而不和.
([61]) 君子矜而不爭, 群而不黨.
([62]) Ngày 10-10-2018, lúc 7 giờ 33, tôi thử đưa cả câu 君子和而不 同, 同而不黨 (Quân tử hòa nhi bất đồng, đồng nhi bất đảng) vào công cụ tìm kiếm Google; chỉ trong 0,23 giây có ngay 4 trường hợp người Hoa sử dụng; riêng với thành ngữ 同而不黨 (đồng nhi bất đảng), chỉ trong 1,23 giây có ngay 69 kết quả.
([63]) ố nhơn thắng kỷ 惡人勝己: Ghét người khác (vì họ) hơn mình.



 Quý đạo hữu gần xa muốn nhận các kinh sách do Chương Trình Chung Tay Ấn Tống Kinh Sách Đại Đạo xuất bản, được gởi biếu qua bưu điện, xin vui lòng gởi e-mail về: daidaovanuyen@gmail.com
Và xin quý đạo hữu hoan hỷ trả giúp cước phí cho bưu điện ngay khi nhận được sách biếu.
Ban Ấn Tống trân trọng cảm ơn quý đạo hữu.