HÃY TÌM ĐẠO LÝ Ở TÌNH THƯƠNG
Trúc Lâm Thiền Điện
(Vĩnh Long)
Ngọ thời, ngày 02-01 Bính Ngọ (Thứ
Bảy 22-01-1966)
Thông công: Bộ phận Hiệp Thiên Đài Cơ Quan
Phổ Thông Giáo Lý Cao Đài Giáo Việt Nam. Pháp
Đàn: Huỳnh Chơn.
Đồng Tử: Hoàng Mai. Độc Giả: Huệ Chơn, Bạch Tuyết.
Điển Ký: Ngọc Kiều, Diệu Long. Chưởng Nghiêm Pháp Quân: Thiện Bảo. Chứng đàn: Huệ Lương, Thiện Chơn. Hầu đàn: Ban Hành Sự và thiện tín Trúc
Lâm Thiền Điện.
TIẾP ĐIỂN
THI
Xuân sắc đượm nhuần trời đất đẹp
Bổn Thánh chào chư hiền đệ, hiền muội. Bổn Thánh vâng chỉ Tam Giáo Tòa đến viếng
Thiền Điện Trúc Lâm để cùng chư hiền đệ, hiền muội đôi lời tâm huyết. Miễn lễ. Đồng
an tọa.
Bổn Thánh xin tựa
vào đề tài của Đức Thiên Tôn ([5]) để minh định ([6]) thêm
ý nghĩa giữa tình chủng tộc nước non.
Nhân dịp xuân
sang, cơ Trời biểu lộ,([14]) Bổn Thánh cũng
muốn cho Đại Đạo sớm trung hưng ([15]) để cứu đời trong
nguy ngập, nên khuyên tất cả chư hiền đệ, hiền muội cũng như toàn dân, cố gắng
kiểm điểm lại từng hành vi trong thường nhựt, tìm đạo lý ở tình thương, để
tránh khỏi những điều tàn khốc xảy ra trong nền đạo giáo.([16])
Bổn Thánh rất vui nhận thấy những sự hy sinh của chư hiền đệ, hiền muội sở
tại,([17])
đã không vì công lực,([18])
chẳng ham vật chất của tiền, biết sử dụng vật chất để đưa lòng người vào nẻo
đạo. Chỉ còn một điều rất đáng quan tâm là hướng đạo ([19])
phải nên trang hướng đạo, tìm chánh nghĩa định chánh tâm, để chánh giáo được trung
hưng, mới có thể vãn cứu lại tình thương của gia đình, xã hội. Trong khi ấy, từ
ảnh hưởng của cá nhân đến quần chúng sẽ lan tràn khắp cả năm châu bốn biển, mới
mong mưu cuộc thanh bình cực lạc cõi thế gian.
Bổn Thánh nhớ
lại:
THI
Đổi dời lắm lúc
mấy sơn hà
Xuân vẫn riêng tình với cỏ hoa
Sắc lẫn hương xuân phơi rỡ rỡ
Mây lồng ánh nguyệt chiếu lòa lòa
Rau vi thà trọn ơn Thương Quốc
Hết hạ thu đông, xuân cũng đến
Trời xuân xuân khắp cả bao la.
Bổn Thánh rất
mừng, trong buổi loạn ly của đời, rẽ chia của đạo,([21]) Đấng Thượng Đế
lại ban rải hồng ân (…) thì cơ hội nầy là cơ hội hổ thoát
lưới rập,([22]) chim được sổ
lồng. Nếu chẳng biết rằng trời dài đất rộng thì điều tận diệt ắt phải cam.
Hỡi chư hiền đệ,
hiền muội! Hỡi toàn dân! Hỡi nhân loại! Bổn Thánh cùng tất cả đều là chơn linh
của Thượng Đế,([23]) thì nào có khác
chi. Cứ vững một niềm tin tu thân hành đạo, rồi sẽ còn nhiều cơ hội gặp gỡ và sẽ kết quả cùng nhau ở cảnh Thiên Đàng Cực Lạc chẳng
sai đâu.
(…)
Bổn Thánh ban ơn lành toàn tất ([28])
và ban phước huệ bộ phận Hiệp Thiên Đài được vui vẻ lo tròn
sứ mạng. Thăng.
SUY NIỆM 4
4.1. Đức Chơn Thánh Phan Thanh Giản giáng cơ
dạy bài này tại Trúc Lâm Thiền Điện. Tên gọi đầy đủ của thánh sở này là Trước Lâm
Thánh Đức Thiền Điện (thuộc Hội Thánh Di Lạc), nay ở số 61/10 đường Mậu Thân,
phường 3, thành phố Vĩnh Long, tỉnh Vĩnh Long.
Chữ trúc người
miền Nam
còn nói là trước; do đó, cũng gọi nước
Ấn Độ là Thiên Trúc, Thiên Trước 天竺. Tên gọi Trúc Lâm 竹林 hay Trước Lâm có
nghĩa là rừng trúc (bamboo forest), ngụ
ý là nơi ẩn tu của người tâm chí thanh cao.
Trước Lâm Thánh Đức Thiền Điện còn gọi là chùa Di Lạc
vì trong chánh điện có đại tượng Đức Di Lạc. Thời Nhị Kỳ Phổ Độ, các cao tăng
Trung Quốc chuyển âm (transliterating)
hồng danh Maitreya (tiếng Sanskrit)
sang chữ Hán là 彌勒, đọc mí lè, tức Di Lặc. (Lặc nguyên nghĩa là cái dàm chằng đầu và
mõm ngựa; còn có nghĩa là kềm chế, cưỡng bách, chạm khắc…)
Sang Tam Kỳ Phổ Độ, đạo Cao Đài không dùng lại tên gọi Di Lặc mà gọi là Di Lạc 彌樂, với ý nghĩa vui vẻ tròn đầy và dài lâu (complete and lasting happiness).
4.2. Trong cặp luận bài thơ bát cú, câu 5 nói: Rau vi thà trọn ơn Thương Quốc.
Rau vi 薇 là một loại dương xỉ (royal fern), danh pháp khoa học là Osmunda regalis. Thương Quốc 商國 là nước Thương, tức nhà Thương. Triều đại này kế tiếp nhà Hạ 夏 và sau
cùng bị nhà Chu 周 thay thế. Nhà Thương bắt đầu với vua Thành Thang 成湯 (minh
quân) và kết thúc vào đời vua Ðế Tân 帝辛 (hôn quân). Đế Tân
quá tàn ác, bất nghĩa nên bị gọi là vua Trụ 紂. (Trụ là người tàn ác, bất nghĩa.)
Bá Di 伯夷 và
Thúc Tề 叔齊 là con vua Á Vi 亞微 nước Cô Trúc (chư hầu nhà
Thương). Khi Cơ Phát 姬發 (cũng là chư hầu nhà Thương) mang quân đánh vua Trụ, hai anh
em Bá Di và Thúc Tề cùng can gián vì cho rằng Cơ Phát bất trung với nhà Thương.
Cơ Phát diệt Trụ, lên ngôi thiên tử, lập ra nhà Chu, tức là Chu Vũ Vương. Vì trước
kia đã trót can Cơ Phát đừng đánh Trụ, nên Bá Di và Thúc Tề thề không ăn thóc
nhà Chu, bỏ lên núi Thủ Dương 首陽 ở ẩn,
hái rau vi ăn qua bữa. Có người bắt gặp, bảo rau vi ấy cũng mọc trên đất nhà
Chu, hai anh em bèn nhịn ăn, chịu chết đói trên núi Thủ Dương.
Có thể nói Bá Di, Thúc Tề là hai người tiêu biểu cho lòng
ngu trung (blind loyalty: trung thành
mù quáng). Tuy nhiên, cổ văn dùng hình tượng Bá Di, Thúc Tề (hay rau vi) không
phải để đề cao ngu trung mà cốt mượn tích xưa như kiểu ẩn dụ (metaphor) ngõ hầu nói bóng gió tới tiết
tháo kẻ sĩ. Chẳng hạn, Nguyễn Trãi (1380-1442) trong bài Côn Sơn Ca 崑山歌 có hai câu này: Hựu
bất kiến: Bá Di dữ Thúc Tề / Thủ
Dương ngạ tử bất thực túc? 又不見: 伯夷與叔齊 / 首陽餓死不食粟? (Lại chẳng thấy ư: Bá Di cùng Thúc Tề không ăn thóc, chết
đói trên núi Thủ Dương?)
Câu thơ Rau vi thà trọn
ơn Thương Quốc của Đức Chơn Thánh nên hiểu theo nghĩa ẩn dụ ấy: Thương Quốc ở đây hàm nghĩa nước Việt nhà
Nam; rau vi ở đây ám chỉ việc nhịn đói
chờ chết. Câu thơ nhắc lại sự kiện ngài Phan Thanh Giản tuyệt thực liên tục từ
Thứ Sáu 19-7 tới Chủ Nhật 04-8-1867, quyết lấy cái chết tự xử trọng tội mình đã
để ba tỉnh miền Tây (Vĩnh Long, An Giang
và Hà Tiên) rơi
vào tay giặc. Rau
vi thà trọn ơn Thương Quốc có ẩn ý là quyết
lấy cái chết để báo ơn nước Việt, tỏ rõ một lòng trung thành với sông núi nhà
Nam chứ không phải phường buôn dân bán nước, tham sống sợ chết.
4.3. Trong cặp luận bài thơ bát cú, câu 6 nói: Độc dược cho nên nghĩa Kiến Hòa.
Nhịn đói
hơn nửa tháng vẫn chưa chết, ngài Phan Thanh Giản pha cho mình
chén độc dược. Theo nhiều trang sử cũ,
thuốc độc ấy là á phiện hòa với giấm thanh. Huình Tịnh Paulus Của (Đại Nam Quấc Âm Tự Vị) giải thích giấm
thanh là giấm thiệt chua mà dịu.
Trong phép
đối của cặp luận, câu 5 nói Thương Quốc thì
qua câu 6 chúng ta phải hiểu Kiến Hòa cũng
là một địa danh. Vậy, cho nên nghĩa Kiến
Hòa tức là cho thành nghĩa khí, cho trọn đạo nghĩa của người con đất Kiến Hòa.
Nhưng Kiến Hòa là đất nơi đâu?
Ngài Phan
Thanh Giản sinh ra tại làng Tân Thạnh, huyện Vĩnh Bình, phủ Định Viễn, trấn
Vĩnh Thanh (sau đổi là làng Bảo Thạnh, tổng Bảo Trị, huyện Bảo An, phủ Hoằng
Trị, tỉnh Vĩnh Long; nay là xã Bảo Thạnh, huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre). Mộ của
ngài hiện tại vẫn nằm ở xã Bảo Thạnh, huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre.
Khi Đức
Phan Thanh Giản giáng cơ dạy bài thánh giáo này thì Bến Tre đang là
tỉnh Kiến Hòa.
Vào năm
1895, Nam Kỳ Lục Tỉnh (sáu tỉnh cũ của nhà Nguyễn: Gia Định, Biên Hòa, Định Tường,
Vĩnh Long, An Giang, và Hà Tiên) bị Pháp chia nhỏ thành hai mươi mốt hạt (arrondissements). Do một Nghị Định ngày Thứ
Hai 16-01-1899, hạt thay bằng tỉnh (provinces);
đứng đầu mỗi tỉnh là chủ tỉnh (chef de
province). Bấy giờ, riêng tỉnh Vĩnh Long cũ gồm ba tỉnh là Bến Tre, Trà
Vinh, và Vĩnh Long.([29])
Tỉnh Bến
Tre được đổi tên thành Kiến Hòa vào ngày Thứ Hai 22-10-1956, theo Sắc Lệnh số
143-NV của Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa Ngô Đình Diệm. Sau tháng 4-1975, tên tỉnh
trở lại là Bến Tre như trước.
Độc dược cho nên nghĩa Kiến Hòa. Tuẫn tiết bằng thuốc độc để giữ trọn cái
nghĩa của bậc sĩ phu. Tiết tháo này phải chăng là do nhà Nho Phan Thanh Giản đã
thấm nhuần câu nói trong sách Mạnh Tử
(Cáo Tử, Thượng)? Câu đó như sau: Sống, cũng là thứ ta muốn; nghĩa, cũng là
thứ ta muốn. Không thể được trọn cả hai, thì bỏ sống mà giữ lấy nghĩa vậy.([30])
4.4. Năm 1865, khi cử ông quan văn sinh năm 1796 (bảy mươi tuổi
ta) về miền Tây làm Kinh Lược Sứ ba tỉnh Vĩnh Long, An Giang và Hà Tiên, phải
chăng vua Tự Đức đã đẩy vị lão thần ấy vào một bi kịch cuối đời?
Theo nhiều
trang sử cũ, lý do quan Phan quyết định giao ba thành Vĩnh Long, Châu Đốc, Hà
Tiên cho quân Pháp là muốn cho dân chúng và quân binh trong thành khỏi phải chịu
hy sinh thân mạng, thương vong thảm khốc nếu lâm vào cảnh giao tranh không cân
sức mà thế yếu thì nghiêng về bên quân Nam.
Mất thành,
mất đất, mất một phần xã tắc, làm trái lệnh vua sai đi giữ gìn ba tỉnh chỉ vì
muốn ưu tiên giữ lấy người dân. Quyết định ấy của ngài Phan Thanh Giản nhắc chúng
ta nghĩ tới câu nói trong sách Mạnh Tử
(Tận Tâm, Hạ) mà chắc chắn nhà Nho
Phan Thanh Giản đã thuộc lòng từ thuở: Dân
là quý, xã tắc đứng sau, vua nhẹ hơn.([31])
Giữ lấy
dân, đó giá trị nhân bản (humanistic
value) của đạo Nho, cái Đạo ngài Phan suốt đời tu dưỡng. Giữ lấy sự sống
cho dân và quân dưới quyền mình, đó đức nhân (thương người) của bậc đại quan. Và
đức nhân đó được làm chứng bằng sự kiện ngài Phan tuẫn tiết. Cái chết tự chọn của
ngài Phan nhắc chúng ta nhớ đến lời Đức Khổng Tử chép trong Luận Ngữ (15:9): Bậc chí sĩ và người có lòng nhân không thể ham sống mà làm hại đức
nhân, chỉ có hy sinh tính mạng để hoàn thành đức nhân thôi.([32])
Phú Nhuận, 08-10-2018
Huệ Khải
([23]) tất cả đều là chơn linh của Thượng Đế:
Thượng Đế là Đại Linh Quang 大靈光 (Macro Sacred
Light), vạn vật và chúng sanh là tiểu linh
quang 小靈光 (micro sacred light); do đó, tất cả cùng chung bản thể là linh quang (ánh sáng thiêng
liêng). Nguyên lý này được diễn tả là thiên
địa vạn vật đồng nhất thể 天地萬物同 一體 (muôn vật trong trời đất cùng chung một bản thể: myriads of things in the universe sharing
the same substance).
([32]) Chí sĩ nhân nhân,
vô cầu sinh dĩ hại nhân, hữu sát thân dĩ thành nhân. 志士仁人, 無求生以害 仁, 有殺身以成仁.
► Quý đạo hữu gần xa muốn nhận các kinh sách do Chương
Trình Chung Tay Ấn Tống Kinh Sách Đại Đạo xuất bản, được gởi biếu qua bưu điện,
xin vui lòng gởi e-mail về: daidaovanuyen@gmail.com
Và xin quý đạo hữu hoan hỷ trả giúp cước phí cho bưu điện ngay khi nhận được sách biếu.
Và xin quý đạo hữu hoan hỷ trả giúp cước phí cho bưu điện ngay khi nhận được sách biếu.
Ban Ấn Tống trân trọng cảm ơn quý đạo hữu.