PHAN THANH GIẢN NAY
Tôi trích lục sau đây sáu
thánh giáo do Đức Chơn Thánh Phan Thanh Giản giáng cơ:
A. Ngài dạy đạo ở miền Trung (do các tiền khai Hội Thánh Truyền Giáo Cao Đài thông
công). Có ba thánh giáo:
1. CỔ ĐỘNG NÔNG VIỆN. Thứ Tư
08-02-1939, ở Đà Nẵng, Đức Phan Thanh Giản giáng cơ tại thánh thất Trung Thành
(thuộc Hội Thánh Truyền Giáo Cao Đài).
2. NÊN QUÊN MÌNH XẢ THÂN CẦU
ĐẠO. Thứ Tư 11-7-1945, ở Đà Nẵng, Đức Phan Thanh Giản giáng cơ tại thánh thất
Trung Thành.
3. PHẢI HOÀN TOÀN CÁI DANH TU
NIỆM. Thứ Sáu 13-4-1956, ở Phú Yên, Đức Phan Thanh Giản giáng cơ tại thánh thất
Minh Đức (thuộc Hội Thánh Truyền Giáo Cao Đài).
B. Ngài dạy đạo ở miền Nam (do bộ
phận Hiệp Thiên Đài thuộc Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý Cao Đài Giáo Việt Nam thông công).
Có ba thánh giáo:
4. HÃY TÌM ĐẠO LÝ Ở TÌNH
THƯƠNG. Thứ Bảy 22-01-1966 (mùng 2 Tết Bính Ngọ), ở Vĩnh Long, Đức Chơn Thánh Phan Thanh Giản giáng cơ tại Trúc Lâm Thiền Điện (Hội Thánh Di Lạc).
5. ĐI VỀ ĐÂU VIỆT NAM ƠI! Chủ
Nhật 02-5-1971, ở Vĩnh Long, Đức Phan
Thanh Giản giáng cơ tại Trúc Lâm Thiền
Điện.
6. HÃY TRỞ VỀ TRUYỀN THỐNG CHA
ÔNG. Thứ Ba 03-10-1972, ở tỉnh Vĩnh Bình (nay là Trà Vinh), Đức Phan Thanh Giản
giáng cơ tại Chí Thiện Đàn (thuộc Minh Đức Nho Giáo).
Các thánh giáo này được đánh
số thứ tự từ 1 tới 6, và tôi chú thích một số từ ngữ.
Nhan đề sáu bài thánh giáo do
tôi tạm đặt, nương theo ý chánh của Đức Phan Thanh Giản hàm chứa trong mỗi bài.
Ngoài phần chú thích, cuối mỗi
bài thánh giáo, tôi viết thêm những dòng Suy
Niệm, gọi là chia sẻ với quý đạo hữu chút ít thấm thía từ lời dạy của Đức
Phan Chơn Thánh.
Những chú thích trong sách này
cũng như mấy lời Suy Niệm khó mà
tránh khỏi sai sót trong muôn một. Kính mong quý đạo hữu hoan hỷ góp ý để tôi
sửa chữa khi có duyên lành tái bản.
Trân trọng cảm ơn quý đạo hữu.
Huệ Khải
CỔ
ĐỘNG NÔNG VIỆN
Thánh thất Trung
Thành (Đà Nẵng)
ngày 20-12 Mậu Dần (Thứ Tư 08-02-1939)
PHAN THANH GIẢN
Đồng bào ôi! Lão Thần
không ngờ rằng hôm nay còn có thể đến trước mặt đồng bào để cùng nhau tỏ bày
những nỗi thương tâm thảm mục ([4])
từ lâu. Lão Thần những tưởng bảy thước thân sinh ([5])
này đã đành phụ nghĩa non sông, một bầu tâm sự này đã đành quên dòng quên giống
đi rồi. Không! Không đâu! Lão vẫn còn, còn thương còn
tiếc, còn thở còn than.
Còn con còn cháu Hồng Bàng
Còn trời còn đất, Lão còn như xưa.([6])
THI
Danh lợi gây nên cuộc bất bình
Tư bản, bần dân tranh đấu mãi
Việt Nam thay đổi
mấy phong trào
Biết phải làm
sao, phải tính sao?
BÀI
Biết lo kinh tế
thực hành
Kém phần đạo đức
mà thành thế ư?
Đã sanh trên đống
đất vàng
Tạo nên nước, nước thành nước bại
Đúc ra người,
người dại người khôn
Hễ sanh giống
trắng thì không giống vàng.
Bốn nghìn năm kẻ
kéo người lôi
Non sông bồi đắp,
đắp bồi
Lập rồi lại xóa,
xóa rồi lập lên.
Mở miệng kêu này
hỡi đồng bào
Cớ sao mà tại vì
sao
Dân ta hèn yếu, phong trào kéo xoay.
Cũng uống ăn, sinh đẻ như người
Á Đông cũng một phương trời
Riêng chi Úc, Mỹ, chi người Tây Âu.
Cũng sống chung
trên quả địa cầu
Người sao dân
mạnh nước giàu
Có tàu vượt bể,
có tàu lên mây.
Chế máy móc dựng gầy công nghệ
Nào là điện tín, phi công
Nghe xa nghìn dặm, đi không đầy giờ.
Dân tộc ta sao khờ
sao dại
Nước nhà ta sao bại sao hư
Sĩ trau chuốt văn
chương thi phú
Rồng bớt cẳng, rắn thêm chân
Công tư vét sạch phần dân của làng.
Mạnh hiếp yếu lòng
toan gớm ghiếc
Giàu dọa nghèo chi xiết rên than
Hỡi ôi con cháu Hồng Bàng
Cũng là máu đỏ, da vàng, đầu đen.
Cướp giựt nhau vì ăn
vì mặc
Chém giết nhau vì ghét vì thương
Đọc quốc sử dầu sôi
sục sục
Sống chưa đẹp, thác chưa ưng
Thôi thôi nhơn sự vui buồn cười khuây.
Dại vì dại mà gây
cấu xé
Khôn vì khôn mà đẻ thị phi
Khốn thay khôn dại ra gì
Dại khôn, khôn dại ích chi chăng là.
Dưới hạ dân bủn rủn tinh thần
Cái mầm vạn quốc chiến tranh
Bởi không đạo đức mà sanh dập dồn.
Tính cũng tính bảo
tồn dân tộc
Lo cũng lo bồi đắp dân sinh
Chế ra máy móc thực hành
Không ngờ tư bản tung hoành tóm thâu.
Đứng lên
hỡi, kẻ sau người trước
Ngồi xuống than, này nước này non
Ăn chi mà chịu hao mòn thân sinh.
Ruộng bỏ
hoang cây giành cỏ đoạt
Chẳng thiếu chi mỏ bạc mỏ vàng
Không lo khai phá mở mang
Để lo rỉa góc vạt đàng gọi khôn.
Suy ngoài xác thịt, kém trong linh hồn.
Đại đồng gốc bởi rèn lòng tu thân.
Nga là Đức, Đức là Nga
Nam là Pháp đó, Pháp là Nam đây.
Toan đại đồng cần nhất tu thân
Đồng bào ai có biết không đồng bào?
Chưa dịp nào chánh giáo phục khai
Cơ hội này Lão toan
tận lực
Quyết làm cho hết sức bình sanh
Làm cho nòi giống khỏi giành giựt nhau.
Kêu một tiếng đồng
bào ai hỡi
Kẻ lo của, người lo công
Gầy chung cái cuộc đại đồng sau đây.
Người Nam
Bắc, Đông Tây mau lại
Hỡi than
ôi! Có không, không có
Có ai nào
Phải làm sao?
Làm sao
dân đặng no lòng
Thôi, Ta
chào lui.
SUY NIỆM 1
1.1. Đức Chơn Thánh Phan
Thanh Giản giáng cơ dạy bài này tại thánh thất Trung Thành vào Thứ Tư
08-02-1939 (20-12 Mậu Dần). Bấy giờ thánh thất ở trên
đường Đỗ Hữu Vị,([67])
nay là đường Hoàng Diệu, quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng. Địa điểm này từ năm
1960 là thánh tịnh Trung Tông. Thánh thất Trung Thành hiện nay (đủ tam đài) tại
số 101 đường Lê Đình Dương,([68])
quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng, được khánh thành năm 1998 (xem ảnh dưới).
Vào
năm 1960, khi từ đường Đỗ Hữu Vị dời ra đấy (số cũ là 43 đường Lê Đình Dương), thánh
thất chưa đủ tam đài (xem ảnh dưới).
Ban sơ, các bậc hướng đạo Cao Đài ở Trung Kỳ mua được khu đất (khoảng 4.000
thước vuông) trên đường Đỗ Hữu Vị. Tiền khai Ngọc Chưởng Pháp Trần Đạo Quang (1870-1946)
thay mặt bổn đạo đứng tên làm chủ khu đất và dùng họ tên theo giấy tờ tùy thân của
ngài là Hà Văn Thuần (thật ra đây là tên một người khác). Năm 1937 các vị hướng
đạo Trung Kỳ cất ba gian nhà gỗ lợp tranh để tạm làm thánh thất Trung Thành.
Gian giữa thiết trí Thiên Bàn, phía sau có phòng khách, và nơi ngơi nghỉ của
tiền khai Trần Đạo Quang. Đông lang dành cho phái nữ và nhà bếp. Tây lang
dành cho các hướng đạo và khách phương xa lưu trú.
Thánh thất Trung
Thành sau đó được xây dựng kiên cố và khánh thành ngày 14-4 Mậu Dần (Thứ Sáu
13-5-1938) theo thánh lịnh Đức Chí Tôn. Ngày hôm trước, đại hội Long Vân Đệ Bát
do Liên Hòa Tổng Hội tổ chức được khai mạc tại thánh thất này (xem ảnh trên).
1.2. Trước nỗi dân trí
yếu kém, dân sinh sa sút, và đất nước cứ mãi lạc hậu so với các nước phương Tây,
Đức Chơn Thánh Phan Thanh Giản giáng cơ than thở như sau:
Cũng đồng sinh trong bầu Tạo Hóa
Cũng sống chung
trên quả địa cầu
Người sao dân
mạnh nước giàu
Có tàu vượt bể,
có tàu lên mây.
Chế máy móc dựng gầy công nghệ
Lập thương nông,
cứu tế, quốc phòng
Nào là điện tín, phi công
Nghe xa nghìn dặm, đi không đầy giờ.
Dân tộc ta sao khờ
sao dại
Nước nhà ta sao bại sao hư
Không nghề nghiệp, không thiên tư
Văn minh công nghệ ai chừ khuếch trương?
Những dòng thánh thi
tha thiết này khiến chúng ta nhớ lại vào năm 1863 quan đại thần Phan Thanh Giản
làm chánh sứ dẫn đầu sứ bộ sang kinh đô Paris hoa lệ của Pháp. Nhờ vậy ngài có
dịp tận mắt nhìn thấy và được dài ngày trải nghiệm những tiến bộ khoa học - kỹ thuật của phương Tây.
Thật vậy, Quan Phan
và đoàn sứ thần đã biết thế nào là tàu thủy tân tiến của Pháp thời đó khi lần
lượt đi nhờ các tàu của họ từ cảng Đà Nẵng vào cảng Sài Gòn (ngày 21-6), từ đấy
ghé cảng Alexandrie (Ai Cập, ngày 04-7), cập cảng Toulon (phía nam nước Pháp, ngày
09-9), được thăm xưởng đóng tàu và cuộc diễn tập thủy chiến của họ, rồi dừng ở
cảng Marseille (phía nam nước Pháp, ngày 12-9).
Sau đó, sứ bộ Việt lần
đầu tiên được đi xe lửa trên hành trình từ Marseille đến Paris (ngày 13-9). Trong
thời gian lưu lại Paris để chờ yết kiến hoàng đế Napoléon, sứ bộ được đưa đi
thăm xưởng dệt thảm, nhà máy, v.v…([69])
Nhưng một sự kiện
rất ấn tượng với sứ bộ có lẽ là việc các vị được chụp ảnh. Trong sáu thập niên đầu
thế kỷ 19, từ Nicéphore Niépce (1816, Pháp) tới James Clerk Maxwell (1861, Tô Cách
Lan), kỹ thuật nhiếp ảnh dần dần được các nhà khoa học nối tiếp nhau cải thiện,
để đến năm 1863 thì những ông quan Việt Nam vốn chỉ biết nghệ thuật vẽ truyền
thần phương Đông đã sửng sốt khi mục kích những tấm ảnh chụp diện mạo, hình
dáng của họ sắc sảo như thể được tạo ra bằng ma thuật. Và người chụp ảnh cho
quan Phan và sứ bộ tại kinh thành Paris chính là Jacques-Philippe Potteau
(Pháp, 1807-1876).
Những ấn tượng về
tiến bộ khoa học - kỹ thuật của Pháp (hay phương Tây) trong nhiều lãnh vực
đã khiến quan Phan khi hồi hương, vào triều tấu trình mọi việc với vua Tự Đức
đã kết luận bằng hai câu ngắn gọn:
Bá ban xảo kế, tề thiên địa
Duy hữu tử sanh, Tạo Hóa quyền.([70])
(Mọi nghề khéo léo
ngang trời đất
Chỉ riêng sống chết phải nhường
Trời.)
Đã trông rộng thì ắt
nhìn xa. Quan Phan hẳn thấy trước cái họa vong quốc của Việt Nam, nên đã tâu
lên vua Tự Đức những việc cần kíp phải làm ngay, canh tân ngay những chính sách
thủ cựu. Thế nhưng triều đình đều bỏ ngoài tai tất cả. Vị lão thần rốt cuộc
đành cam than thở:
Thấy việc Âu châu phải giật mình
Hết lời năn nỉ chẳng ai tin.
Rõ ràng, lúc vận
nước lâm nguy, quan Phan đã lãnh vai trò một nhà “tiền hô” (precursor), nhưng thất bại.
1.3. Trong thánh giáo
này, cả thảy có bốn lần Đức Chơn Thánh Phan Thanh Giản tự xưng Lão Thần; chỉ duy lúc chào lui thì ngài
mới xưng Ta.
Lão Thần nghĩa là người bề tôi già. Sau bảy mươi hai năm,
từ khi nâng chén đắng rời xa cơn trường mộng, lúc giáng cơ năm 1939, Đức
Thánh Phan không còn là vị quan cao tuổi với áo mão cân đai; vậy sao ngài vẫn
tự xưng Lão Thần?
Đừng nghĩ lầm rằng
một anh linh đã rũ bỏ xác thân tứ đại, bấy lâu đã tự tại tiêu dao nơi non Bồng
nước Nhược mà còn “luyến” chút danh vị hư ảo trần ai. Không, không phải thế
đâu.
Qua phần Đức Độ Ngài Phan Thanh Giản trên đây, chúng
ta biết rằng khi ghé qua làng Hanh Thông thăm bạn học cũ là Phan Dĩ Thử, để
giúp bạn hiền xóa bỏ nỗi ái ngại vì khoảng cách giữa một nông phu thanh bần và
một đại thần phẩm cao tước trọng, ngài Phan đã nói thế này:
Cái phẩm tước ấy là để mà chầu chực nơi chốn
triều đình, và để mà vỗ trị trong hàng dân dã, chớ lẽ nào dùng cái phẩm tước ấy
mà khoe với thân tộc họ hàng, và cũng chẳng phải đem nó ra mà dùng với người
thân bằng cố hữu.(tr. 32)
Quả thật, ngài vốn
chẳng xem phẩm tước triều đình là cái để mà cao ngạo, để mà vênh vang như phần
đông thói tục. Bình sinh đã thế, thì lúc từ cõi trời trở lại hồng trần, há đâu
Đấng Chơn Thánh lại dễ dàng vướng bụi.
Vậy, khi tự xưng Lão Thần trên ngọn linh cơ, phải chăng
ngài ngầm gởi gắm chúng ta một ẩn ý? Vâng, có hai ẩn ý.
Một là, ngài muốn
chúng ta hiểu rằng tuy đã thoát tục, nhưng ngài vẫn luôn nặng lòng với tình dân
nghĩa nước như thuở nào mảnh thân già mãi oằn vai gầy một gánh giang sơn. Thế
nên, trước khi dạy đạo, Đức Thánh Phan bộc lộ can tràng:
Lão Thần những tưởng bảy thước thân sinh này đã đành phụ nghĩa non sông, một bầu tâm
sự này đã đành quên dòng quên giống đi rồi. Không! Không đâu! Lão vẫn còn, còn thương còn tiếc, còn thở còn than.
Còn con còn cháu Hồng Bàng
Còn trời còn đất, Lão còn như xưa.
Hai là, ngài được
Thiên Đình ban ơn cho phép trở lại với con dân nước Việt để tiếp tục nghĩa vụ
một “nguyên công dân” (ex-citizen). Thế thì, những môn đệ Cao Đài đang quỳ trước
ngọn linh cơ há có thể quên bổn phận công dân trong thời ly loạn, nhà tan nước
mất hay sao? Những người con áo trắng luôn tự hào với sứ mạng Kỳ Ba há có thể
thờ ơ được chăng trước tiếng gọi tha thiết của ngài?
Kêu một tiếng đồng
bào ai hỡi
Đưa tay lên giúp với Lão Thần
Kẻ lo của, người lo công
Gầy chung cái cuộc đại đồng sau đây.
Người Nam
Bắc, Đông Tây mau lại
Khách trẻ già, trai gái bươn vô
Nào ai đã thác xuống mồ
Cũng mau dậy giúp
cơ đồ canh nông.
Trên dải đất
Trung Kỳ thiên nhiên khắc nghiệt, nơi mà hầu như thường xuyên lâm vào cảnh mùa đông thiếu áo, hè thời thiếu ăn,([73]) thì tất nhiên phải ưu tiên chăm
lo vấn đề dân sinh trước hơn dân trí và dân đức (có thực mới vực được đạo); thế nên Đức Thánh Phan nêu ra mục tiêu
cụ thể:
Làm sao
dân đặng no lòng
No lòng ấm cật
còn mong mỏi gì.
Và trong một xã
hội vốn có truyền thống lâu đời là dĩ
nông vi bản, để giải quyết vấn đề dân sinh phải lấy canh nông làm đầu mối.
Đó là lý do khi dạy bổn đạo Trung Kỳ bài này, Đức Phan Chơn Thánh đã cổ động
Nông Viện:
Cơ hội này
Lão toan tận lực
Quyết làm cho hết sức bình sanh
Làm cho Nông Viện đạt thành
Làm cho nòi giống khỏi giành
giựt nhau.
1.4. Về Nông Viện của
bổn đạo miền Trung thuở trước, khái quát mấy nét cần ghi nhớ như sau:
Quyền Hội Thánh
Trung Kỳ (tiền thân của Hội Thánh Truyền Giáo Cao Đài, hình thành năm 1956) ra
đời ngày 15-01 Kỷ Mão (Chủ Nhật 05-3-1939). Nhưng giữa năm Mậu Dần (1938), Ơn
Trên đã giáng cơ hướng dẫn việc tổ chức Nông Viện (nằm trong Cửu Viện), giao
tiền bối Trần Nguyên Chất (1893-1950) phụ trách. Nông Viện có nhiệm vụ phát
triển dân sinh, xây dựng đời sống mới trong cộng đồng Cao Đài.
Đức Thánh Trần Hưng
Đạo giáng cơ, dạy tìm địa điểm để thiết lập nông trang hay nông xã (là cơ sở của
Nông Viện). Các bậc hướng đạo miền Trung chọn được ở quận Quế Sơn (tỉnh Quảng
Nam) vùng đất Cờ Vĩ (rộng 250 mẫu), thuộc làng Phước Hội (dân địa phương gọi là
Sé), cách làng Tứ Trung (dân địa phương gọi là Tý) một khe sông. Nơi đây sẵn có
bổn đạo Thiên bàn Tứ Trung hậu thuẫn,([74])
có sông Thu Bồn thuận lợi cho việc vận chuyển.
Các bậc hướng đạo phụ trách Nông Viện khuyến khích những “lực nông” không
có đất ruộng tham gia chương trình khuếch trương canh nông. Họ được tổ chức
thành đội ngũ. Mỗi lực nông được cấp hai sào làm đất thổ cư và một mẫu làm đất
canh tác. Cứ mười hai lực nông lập thành một tiểu nông xã, và họ cố gắng góp
vốn, góp sức canh tác chung.
Mỗi tiểu nông xã được phân chia
theo phép tỉnh điền 井田 như thời cổ; nghĩa là chia đất theo hình chữ tỉnh 井 gồm chín khu: Khu chính giữa là đất chung của Hội Thánh; tám khu
chung quanh là của các lực nông tham gia khai phá.([75])
Bao nhiêu nước chảy qua cầu, chương
trình Nông Viện giờ đây chỉ còn vang bóng trong những trang sử đạo kiêu hùng
của Hội Thánh Truyền Giáo Cao Đài, từng được viết lên bằng cả những dòng máu
thắm đỏ của hàng hàng lớp lớp những người con áo trắng bất khuất, trung kiên
với Thầy, với Đạo.
Ôn học, tìm hiểu thánh giáo Đức Chơn
Thánh Phan Thanh Giản, và có dịp nhìn về những dấu chân phía trước của tiền
nhân, liệu đàn hậu tấn có vương vấn chút tâm tư, tình cảm nào chăng?
Phú Nhuận, 25-9-2018
Huệ Khải
([41]) Đông Châu: Nhà Châu (Chu 周) cai trị Trung Quốc cổ đại trong khoảng tám thế kỷ,
phỏng từ năm 1046 tới năm 256 trước Công Nguyên (TCN). Từ năm 771 TCN trở về
trước gọi là Tây Châu 西周. Từ năm 770 TCN trở về sau gọi là Đông Châu 東周. Thời Đông Châu lại
chia làm hai thời kỳ nữa là Xuân Thu 春秋 (770–476 TCN) và Chiến
Quốc 戰國 (475–221 TCN). Đức Khổng Tử (551-479
TCN) sống trong thời Đông Châu, trải qua nửa sau thời Xuân Thu. Do đó, thánh
giáo dạy: Kia Đông Châu, Nho Giáo nhân
luân / Trọng Ni kiến thiết đại đồng…
([67]) Đỗ Hữu Vị sinh ngày 17-02-1883 tại Chợ
Lớn, là con út của Tổng Đốc Đỗ Hữu Phương (1841-1914), người giàu hàng thứ nhì
tại Nam Kỳ thuộc Pháp, đứng sau Huyện Sỹ Lê Phát Đạt (1841-1900). Năm 1904 ông
Vị trúng tuyển vào trường võ bị Saint-Cyr (Pháp) và tốt nghiệp năm 1906 với hàm
thiếu úy bộ binh. Khoảng năm 1910 ông học lái máy bay quân sự, được cấp bằng
phi công (cơ phó) năm 1911. Sau vụ rớt máy bay năm 1915 ông mất sức, và chuyển
sang bộ binh năm 1916 với hàm đại úy. Ngày 09-7-1916 trong khi giao chiến với
quân Đức, ông tử trận tại chiến trường sông Somme (ở Picardy ,
miền bắc nước Pháp). Người Pháp đặt tên ông cho một con đường ở Đà Nẵng. Con
đường Đỗ Hữu Vị ở quận 1, Sài Gòn, có từ ngày 29-3-1917, sau đổi thành đường
Huỳnh Thúc Kháng từ ngày 22-3-1955.
([68]) Lê Đình Dương
người làng Đồng Mỹ (Phú Mỹ), tổng Phú Khương, phủ Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam . Ông là bào
huynh bác sĩ Tâm Minh Lê Đình Thám (1897-1969, cư sĩ nhà Phật). Ông Dương tốt
nghiệp y sĩ (1915), làm việc tại bệnh viện Hội An, gia nhập Việt Nam Quang Phục
Hội. Năm 1916 thực dân Pháp bắt ông, giam ở Khánh Hòa, rồi đày lên Ban Mê Thuột.
Chí sĩ Lê Đình Dương hy sinh trong tù năm 26 tuổi.
► Quý đạo hữu gần xa muốn nhận các kinh sách do Chương
Trình Chung Tay Ấn Tống Kinh Sách Đại Đạo xuất bản, được gởi biếu qua bưu điện,
xin vui lòng gởi e-mail về: daidaovanuyen@gmail.com
Và xin quý đạo hữu hoan hỷ trả giúp cước phí cho bưu điện ngay khi nhận được sách biếu.
Và xin quý đạo hữu hoan hỷ trả giúp cước phí cho bưu điện ngay khi nhận được sách biếu.
Ban Ấn Tống trân trọng cảm ơn quý đạo hữu.