3. CHRISTNA HAY
I. KHÁI NIỆM VỀ THÔNG CÔNG TẠI ĐÀN CƠ
CAO ĐÀI
Trong một đàn cơ,
vừa chú ý lắng nghe đồng tử xuất khẩu hay nghe độc giả đọc các chữ từ ngọn cơ
viết ra, điển ký vừa chép lại thành văn bản (giống như học trò tiểu học viết
chánh tả trong lớp).
Phần đông bộ phận
thông công (đồng tử, độc giả, điển ký) là người miền Nam , lúc phát âm không phân biệt được
các từ. Thí dụ, sáu chữ oan/oang,
hoan/hoang, quan/quang, bà con mình chỉ đọc một giọng y như nhau là [waƞ].
Chẳng hạn, nói về quan/quang, trong kinh cúng tứ thời của đạo Cao Đài, bài Quế Hương nội điện, Văn Thỉ thượng cung . . . được tiền khai Đầu Sư
Ngọc Lịch Nguyệt (Lê Văn Lịch, 1890-1947) mượn trong Văn Xương Đại Đỗng Chân Kinh 文昌大洞眞經 của đạo Lão.([1]) Hai câu chót
theo bản gốc chữ Hán là 澄 眞 正 觀 / 寶 光 慈 濟 天 尊. Lẽ ra phải đọc và viết
phân biệt là Trừng chơn chánh quan (quán) / Bửu quang từ tế Thiên Tôn;
nhưng xưa nay bổn đạo vẫn đọc, và các bản kinh vẫn in là Trừng chơn chánh quang /
Bửu quang
từ tế Thiên Tôn. Đây chỉ là một trong nhiều sai sót chữ nghĩa mà người đạo
Cao Đài chưa quan tâm khắc phục.
Do đặc điểm giọng
miền Nam, gặp từ Hán Việt, hoặc không hiểu rõ nghĩa từ ngữ, điển ký dễ chép sai
mà bộ phận kiểm duyệt của Hiệp Thiên Đài sơ ý sẽ để lưu hành một bản thánh giáo
có chỗ chép sai nên khó hiểu, hoặc khiến hiểu sái nghĩa.
Nếu bộ phận thông
công không có người rành ngoại ngữ (Anh, Pháp chẳng hạn) thì chắc chắn việc
chép thánh giáo càng dễ mắc lầm lỗi về ngoại ngữ như đã xảy ra với bài Di Lạc Chơn Kinh. Nhân đây xin kể một
trường hợp Thiêng Liêng ban ơn cho một vị biết tiếng Anh bổ sung vào ban điển
ký giữa buổi hầu đàn:
Năm 1959 có
hai vị nổi tiếng trong giới Thông Thiên Học (Theosophical Society) thế giới là ông Geoffrey Hodson (1886-1983,
người Anh) và cô Sandra Chase (người Úc) ghé Sài Gòn để thăm Hội Thông Thiên Học
Việt Nam (trụ sở ở Phú Nhuận, trên đường Võ Di Nguy nối dài).([2]) Dịp này, để tìm hiểu cơ bút Cao Đài, ông Hodson và cô Chase cùng một
số hội viên Hội Thông Thiên Học ở Phú Nhuận đã xin hầu đàn tại Huờn Cung Đàn (Tam
Giáo Điện Minh Tân, Bến Vân Đồn, quận Tư, Sài Gòn).
Thế là
vào giờ Tý ngày 15-8 Kỷ Hợi (Thứ Năm 17-9-1959), đàn cơ được thiết lập với bộ
phận thông công thuộc Hiệp Thiên Đài của Văn Phòng Trung Ương Cao Đài Thống Nhứt,
gồm có các tiền bối: Hải Thần (pháp đàn); Huệ Đức (chứng đàn); Huệ Thanh (đồng tử).
Ban điển ký có các tiền bối: Thái Quới, Bạch Mai, Hoa Thọ (chép phần tiếng Việt),
sau đó bổ sung Thiên Vương Tinh (chép phần tiếng Anh).([3])
Đàn hôm ấy
Đức Giáo Tông Vô Vi Đại Đạo Lý Thái Bạch giáng cơ. Sau khi dạy một số việc đạo
bằng tiếng Việt, trong lẽ tùy duyên hóa độ, trước lúc thăng, Đức Lý từ bi để lời
dạy riêng hai người khách nước ngoài bằng tiếng Anh. Bởi thế, Đức Giáo Tông ban
ơn cho một vị cũng đang hầu đàn hôm ấy được làm điển ký.
Trích lời
dạy của Đức Lý:
... Nhưng giờ đây Lão muốn cho chư hiền nội bộ cũng như
tân khách (4) được thỏa
mãn một phần tế vi; còn cơ huyền bí là điều rất khó, muốn thấu đạt phải lắm
công phu và nhiều khổ hạnh, chư hiền khá hiểu.[4] Vậy,
Thiên Vương,([5]) hiền đệ lãnh nhiệm vụ điển ký để
Lão dạy đôi lời gọi là kỷ niệm buổi hôm nay.
Sau đó, Đức
Lý dạy hai vị đạo hữu Thông Thiên Học (ông người Anh và cô người Úc) như sau:
Dear Geoffrey Hodson and Sandra Chase. What accident! What
happiness! It isn’t this time, but several times I have come to you in some
cases in which you should use your intuition to know that.
Certainly, the connections between you and I, and also
between you and Christ are always mixed up in each other. If you know that your
duty in this world is to help all creatures with your heart by the way to
propagate religious dogmas of God, that is you establish a bridge on which you
should come back to God.
I always live in your heart. Many times, you were astonished to know
that. As soon as I come out, you have a good thought to help mankind. There is
nothing which could last for ever on the earth, except religious dogmas and
love. You help everybody, that is you help yourselves. You love everyone, that
is you love yourselves and love God. God loves all and saves all. When mankind
love one another, there is no more war and they live a peaceful life.
The meeting of today is a precious memory and an occasion
for you to know some good friends of the same way. That is enough. I hope to
meet you next time. Good-bye.
Bản thánh
giáo in ronéo năm xưa chỉ chép phần tiếng Anh,([6]) Huệ Khải dịch như sau:
Geoffrey Hodson và Sandra Chase nhị hiền. Bất ngờ thay! Diễm
phúc thay! Đây không phải là lần đầu tiên, mà đã nhiều lần Lão đến với nhị hiền
trong vài trường hợp và nhị hiền nên lấy trực giác để biết điều ấy.
Quả thực, những mối liên lạc giữa Lão với nhị hiền, cũng
như giữa nhị hiền với Đức Ki-tô ([7]) luôn luôn hòa quyện lẫn nhau. Nếu
nhị hiền biết rằng nhiệm vụ của nhị hiền trên đời này là hết lòng trợ giúp tất
cả chúng sanh bằng cách phổ thông phổ truyền lẽ đạo Trời, thì đó là nhị hiền bắc
một nhịp cầu đưa nhị hiền trở lại với Thượng Đế.
Lão luôn luôn sống trong tâm nhị hiền. Nhiều phen, nhị hiền
đã ngỡ ngàng khi biết ra điều đó. Rồi liền ngay khi Lão xuất ra, nhị hiền có được
một tư tưởng lành để trợ giúp loài người. Chẳng có gì trường tồn miên viễn trên
đời này, ngoại trừ đạo lý và tình thương. Nhị hiền giúp mọi người, đó là nhị hiền
giúp bản thân mình. Nhị hiền yêu mọi người, đó là nhị hiền yêu mình và yêu Thượng
Đế. Trời yêu thương tất cả và cứu độ tất cả. Khi con người thương yêu nhau, chiến
tranh không còn nữa và họ sẽ sống thái bình.
Cuộc gặp gỡ hôm nay là một ghi nhớ quý báu và là một cơ hội
để nhị hiền biết được một số bạn lành cùng chung đường lối. Thôi đã đủ. Lão hy vọng
gặp nhị hiền lần sau. Chào nhị hiền.
*
Trở lại với
đặc điểm của bộ phận thông công như trình bày ở đầu bài viết này. Rõ ràng là
cách phát âm, khả năng ngôn ngữ của các vị trong bộ phận thông công ảnh hưởng rất
nhiều tới việc ghi chép lời dạy của Thiêng Liêng qua cơ bút. Do đó, bản văn Di Lạc Chơn Kinh gồm
1051 từ Hán Việt, cùng với hai lần chép ba danh hiệu Brahma, Shiva, và Krishna đã không tránh khỏi chép nhầm chữ.
Nơi đây
xin nói tới chữ Christna in sai trong
các ấn bản đã lưu hành bao nhiêu năm qua.
II. CHRISTNA NÊN
SỬA LẠI LÀ
1. Ấn Độ Giáo 印度教 (Hinduism) là
tôn giáo của người Ấn, cũng là tôn giáo cổ xưa nhất hoàn vũ, nhưng không biết
ai là giáo tổ sáng lập. Hiện nay tôn giáo này lớn vào hàng thứ ba trên thế
giới, với hơn 1,25 tỷ tín đồ, chiếm khoảng 15-16% số dân toàn cầu.
Ấn Độ
Giáo còn gọi là Bà La Môn Giáo 婆羅門教 (Brahmanism). Thuật ngữ Brahmanism do giáo sĩ Dòng Tên (Jesuit) người Bồ Đào Nha là Gonçalo
Fernandes Trancoso tạo ra trong thế kỷ 16. Trong hai thế kỷ 18 và 19, tiếng Anh
dùng Brahmanism phổ biến hơn Hinduism. Ở đây, tạm coi Ấn Độ Giáo đồng
nghĩa với Bà La Môn Giáo.
Theo
Ấn Độ Giáo (Bà La Môn Giáo), có một thể ba ngôi (tam vị nhất thể 三位一體: trimūrti) là
Brahma (tiếng Anh, tiếng Pháp), Vishnu (tiếng Pháp: Vishnou), và Shiva (tiếng
Pháp: Çiva,
Shiva).
Brahma là đấng
minh triết sáng tạo vũ trụ càn khôn (the
Creator of the universe). Người Hoa dịch Brahma là 梵天 (Phạm Thiên) hay 梵摩 (Phạm Ma). Ấn Độ Giáo minh họa đấng sáng tạo là một vị có bốn cái đầu, từ mỗi đầu này sinh
xuất ra một quyển kinh Veda; do đó bộ kinh Veda gồm bốn quyển: Rig Veda, Yajur Veda, Sama Veda, và Atharva Veda. Theo tiếng Phạn (Sanskrit), Veda nghĩa là minh triết (wisdom).
Người Hoa dịch âm (transliterating) Veda là 吠陀 (Phệ
Đà); Rig Veda là 梨俱吠陀 (Lê Câu Phệ Đà); Yajur Veda là 夜柔吠陀 (Dạ Nhu Phệ Đà); Sama Veda là 娑摩吠陀 (Sa Ma Phệ Đà), và Atharva Veda là 阿闥婆吠 陀 (A Thát Bà Phệ Đà).
Vishnu là đấng
thứ hai, đấng bảo tồn vũ trụ càn khôn (the
Preserver). Người Hoa dịch âm Vishnu là 毗濕奴 (Bì Thấp Nô).([8]) Vishnu có
mười hóa thân 化身 (avatars);
Shiva là đấng thứ ba,
đấng hủy diệt (the Destroyer). Người Hoa dịch âm Shiva là 濕婆 (Thấp Bà).
Sở dĩ
gọi Brahma, Vishnu, Shiva là tam vị nhất
thể hay nhất thể tam phân 一體三分 vì tuy ba mà
một; cả ba không tách rời nhau. Vũ trụ luôn luôn diễn ra đồng thời cả ba lực (powers) sáng tạo, bảo tồn, và hủy diệt (creation, preservation,
destruction).
Trong
lần giáng cơ đầu tiên tại Tam Tông Miếu (Minh Lý Thánh Hội, 82 Cao Thắng, phường
4, quận 3), ngày 07-6 Tân Dậu (Thứ Tư 08-7-1981), ngài Quảng Đức Chơn Tiên, thế
danh Trần Văn Quế (1902-1980), thánh danh Huệ Lương,([9]) dạy về ba lực sáng
tạo, bảo tồn, và hủy diệt trong luật Trời (Thiên lý) như sau:
Dầu sáng tạo, bảo tồn, hủy diệt
Một mà ba, ai biết lẽ Trời . . .
2. Theo sử quan Cao Đài, Ấn Độ Giáo (Bà
La Môn Giáo) ra đời vào Nhất Kỳ Phổ Độ, phát triển cho tới ngày nay.
Đức
Cồ Đàm (Gautama) thuộc thị tộc Thích
Ca (Śākya) xuất thân trong truyền thống Bà La Môn, nhưng ngài tự
mình tìm ra con đường tu hành riêng. Sau khi đắc đạo, Đức Phật phổ truyền một
giáo pháp khác. Ngài là giáo tổ sáng lập Phật Giáo (Thích Ca Giáo, Thích Giáo).
Theo sử quan Cao Đài, Phật Giáo ra đời vào Nhị Kỳ Phổ Độ, phát triển cho tới
ngày nay.
Trước
khi đạo Cao Đài ra đời, thế gian chỉ mới quan niệm về Tam Giáo (Khổng, Lão, Thích; hay Nho, Tiên, Phật). Ngày nay đạo Cao
Đài đưa ra quan niệm mới là Tam Giáo Đạo,
gồm Thánh Đạo, Tiên Đạo, và Phật Đạo với ý nghĩa rộng hơn Tam Giáo.
Chẳng hạn, sử quan Cao Đài xem Ki-tô Giáo (Thiên Chúa Giáo, Tin Lành…) và Hồi
Giáo (Islam) cùng một hệ, gọi là
THÁNH ĐẠO; xem Bà La Môn Giáo, Thích Ca Giáo, Pythagore Giáo (Pythagoreanism: Tất Đạt Ca Lạp Tư Giáo 畢達哥拉斯教) cùng một hệ, gọi là PHẬT ĐẠO.([10])
Do mở rộng thuật ngữ Tam Giáo thời Nhị Kỳ Phổ Độ thành Tam Giáo Đạo trong Tam Kỳ Phổ Độ, nên thành ngữ Tam Giáo Đồng Nguyên, hay Tam Giáo Quy Nguyên (nhắc tới Nho, Lão,
Thích) ngày nay được giáo lý Cao Đài mở rộng thành mệnh đề: Từ Đại Đạo phát sinh Tam Giáo Đạo, từ Tam
Giáo Đạo trở về nguồn gốc Đại Đạo.
Phương Tây gọi tam vị nhất thể của Ấn Độ Giáo
(Bà La Môn Giáo) là Triad Gods hay Triad Deities. Người Việt thường gọi ba
vị là Thượng Đế Ba Ngôi. Ngày nay, đạo Cao
Đài xem Ấn Độ Giáo (Bà La Môn Giáo)
thuộc Phật Đạo, và Di Lạc Chơn Kinh gọi
ba đấng thiêng liêng tối trọng của Ấn Độ Giáo
(Bà
La Môn Giáo) là Phật (Buddhas), gồm
có: Brahma Phật, Shiva Phật, Krishna
Phật.
Tóm
lại, từ nay trở đi, khi tụng hay in ấn Di
Lạc Chơn Kinh, thay vì CHRISTNA hãy sửa cho đúng là
Nhiêu Lộc, 05-9-2020
HUỆ KHẢI
([1]) Để hiểu rõ hơn
nguồn gốc bài kinh này, có thể tham khảo: Huệ Khải, Tìm Hiểu Hai Bài “Tiên Thiên Khí Hóa” Và “Quế Hương Nội Điện”. Hà
Nội: Nxb Tôn Giáo, 2011, 2012.
([3]) Pháp đàn (seance protector) giữ nhiệm vụ trấn đàn,
họa phù (vẽ bùa) không cho tà quái xâm nhập, v.v… và chịu trách nhiệm chung
trong buổi lập đàn. Những người chứng đàn (seance
testifiers) có trách nhiệm làm chứng rằng đàn cơ đã lập và thánh giáo đã
tiếp nhận được là chân thật, đúng như họ đã chứng kiến. Đồng tử có thể là một người
(medium), nếu gồm hai người, gọi là
song đồng hay đồng tử âm dương (pair of
mediums). Đồng tử thủ cơ (cầm cơ), hoạt động như một điện đài (radio transmitter). Nếu đồng tử viết ra
chữ trên mặt bàn (writing medium),
thì cần một độc giả (dictating person)
nhìn vào chữ, xướng lên rõ tiếng cho điển ký chép lại. Nếu là đồng tử xuất khẩu
(speaking medium), chính miệng đồng
tử phát ra tiếng nói, thì không cần độc giả. Một ban điển ký (jotting team) có nhiệm vụ chép lại những
lời đồng tử xuất khẩu, hoặc độc giả xướng lên. Ban điển ký thường gồm từ hai
tới bốn người, để ngay sau buổi lập đàn, đối chiếu các phần ghi chép mà hiệu
chính cho khỏi sai sót. Trong đàn cơ ngày 17-9-1959 nêu trên, khi đồng tử xuất
khẩu, chuyển sang nói tiếng Anh thì đương nhiên cần người biết tiếng Anh để ghi
chép lại. Do đó ban điển ký lúc đầu chỉ có ba vị, sau được bổ sung vị nữa là
tiền bối Thiên Vương Tinh.
([6]) Huệ Khải được tiền bối Chơn Tâm trao tặng thánh giáo
này vào giữa thập niên 1980. Tiền bối thế danh Nguyễn Triệu Kha (1908-1995), thọ
Thiên ân làm Phụ Tá Bảo Pháp Chơn Quân, thuộc Hiệp Thiên Đài Cơ Quan Phổ Thông
Giáo Lý Cao Đài Giáo Việt Nam. Tiền bối được thăng lên Bảo Pháp Chơn Quân
(1985), đắc quả Viên Thông Chơn Tiên (2009).
([8]) Còn dịch Vishnu là: 違紐
(Vi Nữu), 違紐天 (Vi Nữu Thiên), 毘紐 (Bì Nữu), 毘瑟紐 (Bì Sắt Nữu), 毘搜紐 (Bì Sưu Nữu), v.v…