Thứ Ba, 17 tháng 11, 2020

DI LẶC HAY DI LẠC? / DI LẠC CHƠN KINH SƠ GIẢI

 


2. DI LẶC HAY DI LẠC?

I. Nhị Kỳ Phổ Độ gọi là Di Lặc

Maitreya (tiếng Phạn, Sanskrit) có nghĩa là thân thiện hay nhân từ (friendly, benevolent).([1])

Người Hoa khi dịch hồng danh Maitreya hay Metteyya (tiếng Pali) ra chữ Hán đã viết là 彌勒. Người Việt đọc và viết là Di Lặc. Đây là truyền thống kinh điển Phật Giáo Hán tạng trong Nhị Kỳ Phổ Độ.

Cách dịch của người Hoa không liên quan chi tới nghĩa thân thiện, nhân từ của từ Maitreya. Bản thân chữ lặc này trong chữ Hán có nhiều nghĩa như sau:

1. (Danh từ) Cái dàm để chằng đầu và mõm ngựa. Thí dụ, mã lặc 馬勒 (bridle): Dây cương ngựa.

2. (Động từ) Ghì, gò. Thí dụ, lặc mã 勒馬 (reining in a horse): Ghì (gò) cương ngựa cho đi chậm lại. Từ nghĩa này, có thêm các nghĩa như:

2.1. (Động từ) Kềm chế, bắt buộc. Thí dụ, giáo lặc tử tôn 教勒子孫 (disciplining one’s offspring): Dạy dỗ, kềm chế con cháu (bắt chúng vào khuôn phép).

2.2. (Động từ) Đè nén, áp chế (throttling, supressing); bóp cổ cho chết ngạt (strangling). Thí dụ, lặc tử 勒死 (strangling, throttling): bóp cổ hoặc thắt cổ cho nghẹt thở đến chết.

3. (Động từ) Khắc chữ (carving, engraving). Thí dụ, lặc thạch 勒石 (carving words in stone): Khắc chữ lên đá; lặc bi 勒碑 (carving a stele): Khắc chữ lên bia.

4. (Động từ) Cầm quân. Thí dụ, lặc binh lai kinh 勒兵來京 (leading soldiers to the capital); Thống lĩnh quân binh kéo về kinh thành.

Qua những nghĩa dẫn trên, quả thật chữ lặc không liên quan gì tới hồng danh Maitreya. Người Hoa khi nói mí lè (Di Lặc) có lẽ cũng chả nghĩ gì tới bộ cương ngựa hay ý nghĩa trói buộc, áp bức hàm chứa trong đó.

Vậy, nói hay viết DI LẶC, tức là noi theo truyền thống kinh điển Phật Giáo Hán tạng trong Nhị Kỳ Phổ Độ.

II. Tam Kỳ Phổ Độ gọi là Di Lạc

1. Trong Tam Kỳ Phổ Độ, thánh ngôn và thánh giáo Cao Đài thoát ra khỏi cách dịch trong kinh Phật Hán tạng, mang lại cho hồng danh Maitreya (Metteyya) một ý nghĩa đẹp. Thật vậy:

- Di có những nghĩa này: Trọn, đầy (full, complete); khắp cả (everywhere); lâu dài (lasting); thêm hơn (more).

- Lạc là vui sướng (cheerful, happy).

Theo kinh điển từ Nhị Kỳ Phổ Độ sang qua Tam Kỳ Phổ Độ, Đức Di Lạc làm chủ mở Hội Long Hoa, lập đời thánh đức, nhân loại thái hòa. Thế thì Di Lạc mà mang nghĩa sướng vui tràn đầy, lâu dài, khắp cả thì rất phù hợp.

2. Trong đạo Cao Đài, nhiều lần Đức Di Lạc giáng cơ, xưng danh qua các bài thơ quán thủ (khoán thủ) hay quán tâm (khoán tâm). Những dịp đó, Ngài dùng chữ Lạc theo nghĩa vui sướng như nói trên. Chẳng hạn:

2.1. Vào năm Ất Hợi (1935), Ơn Trên ban cho quyển kinh Thánh Đức Chuyển Mê. Ngày 03-6 Ất Hợi (Thứ Tư 03-7-1935), Đức Di Lạc Thiên Tôn giáng đàn, xưng danh qua bài thơ quán tâm như sau:

Đạo đức DI truyền máy nhiệm sâu

Huyền vi LC cảnh đạt cơ mầu

Hào quang THIÊN mạng soi trần tối

Chiếu sắc TÔN oai diệt tận sầu.

Trong câu 2, LẠC là vui; lạc cảnh 樂景 là cảnh vui (cheerful scenery).

2.2. Năm Bính Tý (1936), Ơn Trên ban Thánh Đức Chơn Kinh. Trong một đàn cơ (không ghi ngày), Đức Di Lạc Thiên Tôn giáng lâm, xưng danh qua bài thơ quán thủ như sau:

DI luân chuyển động mối cơ Trời

LC thú thông đồng đặng thảnh thơi

THIÊN võng khôi khôi nào có lậu

TÔN truyền yếu nhiệm sửa cơ đời.

Trong câu 2, LẠC là vui; lạc thú 樂趣 là thú vui, niềm vui (pleasure, joy).

2.3. Cũng trong quyển Thánh Đức Chơn Kinh này, bài thứ mười (nhan đề Chơn Truyền Đạo Giáo), Ngài xưng hồng danh Di Lạc Tuyên Quang Phật như sau:

DI truyền chơn giáo buổi tang thương

LC đo nhàn tâm kẻ biết đường

TUYÊN bố mối giềng cùng chúng khổ

QUANG minh chơn lý với tai ương

PHẬT Đà pháp nhiệm chưa ai rõ

Giáng thế huyền vi mấy kẻ tường

Ngọc điệp lưu ly trau quý giá

Đàn Tiên học tập lánh trần dương.

Trong câu 2, LẠC (động từ) là vui; lạc đạo 樂道 là vui với đạo (feeling pleasure in following righteous principles).

2.4. Đầu tháng 2 Mậu Dần (1938), Ơn Trên ban cho quyển kinh Thánh Đức Chơn Truyền. Trong một đàn cơ (không ghi ngày), khi giáng dạy đề tài Dại Khôn, Đức Di Lạc xưng danh qua bài thơ bát cú với hai câu mở đề như sau:

DI truyền chơn giáo buổi Tam Kỳ

LC đo tâm thành khả đắc tri . . .

Trong câu 2, lạc đạo 樂道 cùng nghĩa như câu 2 bài 2.3 dẫn trên.

Tóm lại, nói hay viết DI LẠC là theo Tam Kỳ Phổ Độ, với ý nghĩa Lạc là vui. Nghĩa vui này cũng phù hợp với hình ảnh rất quen thuộc trong dân gian: Đức Di Lạc là vị Phật dáng ngồi thoải mái, miệng cười rạng rỡ, như các ảnh tượng lưu truyền xưa nay (và được chọn in lại rải rác trong tập Sơ Giải này).

3. Tuy nhiên, cần lưu ý: Khi viết DI LẠC ra chữ Hán, không thể lúc nào cũng viết Di (tròn đầy, đầy đủ: full, complete). Chẳng hạn, theo chữ Di trong ba bài 2.1, 2.3. và 2.4 trên đây, thì Di là lưu truyền, truyền lại (handing down). Trong bài 2.2, có thể hiểu Di là biến đổi, di dời, chuyển dịch (changing, moving, removing…).

Đạo Cao Đài dùng tiếng Việt làm pháp ngữ (法語: Dharma language) để dạy đạo Kỳ Ba. Ơn Trên thường dùng từ Hán Việt đồng âm dị nghĩa (homonymous) trong các thánh thi xưng danh, mặc dù những từ Hán Việt đó viết chữ Hán khác nét và ý nghĩa khác hẳn. Thí dụ:

Trên đây giảng chữ Lạc trong Di Lạc là vui. Nhưng trong một đàn cơ tại Trúc Lâm Thánh Đức Thiền Điện,([2]) giờ Tuất, ngày 17-7 Tân Hợi (Thứ Hai 06-9-1971), Đức Di Lạc Thiên Tôn ban cho bài thánh thi xưng danh quán thủ như sau:

DI chúc ngàn năm để lại rồi

LẠC Hồng Viêm Việt chúng dân ôi

THIÊN nhân tác hợp càn khôn định

TÔN chỉ Cao Đài chỉ thế thôi.

Chữ Di trong câu 1 trên đây cũng là Di trong ba bài 2.1, 2.3. và 2.4. Chữ Lạc trong câu 2 không phải là lạc (vui) đã nói ở 2.1, 2.2, 2.3, 2.4. Nơi đây, lạc là chim lạc 雒鳥 (lạc điểu); Lạc Hồng 雒鴻 là chim lạc, chim hồng. Thành ngữ con Lạc cháu Hồng là nói tới dòng giống người Việt Nam.

Vài diễn giải như trên để chúng ta lưu ý tới cách dùng từ Hán Việt (cùng âm khác nghĩa) trong các bài thánh thi xưng danh ngõ hầu có thể hiểu đúng nghĩa.

Nhiêu Lộc, 20-9-2020

HUỆ KHẢI



([1]) https://sanskritdictionary.com/?q=maitreya&iencoding=iast&lang=sans. Truy cập 20-9-2020. Xem thêm Phụ Đính 5 (tr. 107).

([2]) Còn gọi là Chùa Di Lạc, số 61/10 Phường 3, đường Mậu Thân, thành phố Vĩnh Long, tỉnh Vĩnh Long.