Thứ Ba, 17 tháng 11, 2020

DI LẠC XƯA VÀ NAY / DI LẠC CHƠN KINH SƠ GIẢI

 


5. VÀI NÉT VỀ ĐỨC DI LẠC XƯA VÀ NAY

1. Theo tiếng Phạn, hồng danh Đức Phật là Maitreya, do gốc maitrī nghĩa là từ ái (loving-kindness).([1]) Nhưng khi dịch âm Maitreya thành Di Lặc 彌勒 người Hoa đã không giữ được ý nghĩa này của từ gốc (xem thêm Phụ Đính 2, tr. 81).

Đức Di Lạc là Đức Phật vị lai theo giáo thuyết về hạ nguơn mạt kiếp,([2]) nói rằng từ cõi trời Đâu Suất (兜率: Tuṣita Heaven) một Đấng Bồ Tát sẽ giáng sanh cõi thế gian, giác ngộ viên mãn, và trung hưng chánh pháp. Là Đức Phật kế tiếp Đức Thích Ca Mâu Ni, Ngài cai quản toàn thế giới tương lai.

Lời tiên tri về thế giới hoàng kim của Ngài được nói tới rất sớm trong quyển kinh Phật tiếng Phạn (Sanskrit) nhan đề Maitreyavyākaraṇa. Tam Tạng Pháp Sư Nghĩa Tịnh 義淨 (635-713) phụng mệnh vua Đường dịch sang chữ Hán là 說彌勒下生成佛經 (Pht Thuyết Di Lc H Sanh Thành Pht Kinh). Kinh này miêu tả thế giới hoàng kim tương lai trong thời đại Đức Di Lạc làm chủ như sau:

Chúng sanh ở cõi ấy / Đầy đủ và sung mãn / Cõi nước giàu, tốt đẹp / Không hình phạt, tai nạn / Các nam nữ cõi này / Sanh ra từ thiện nghiệp / Đất không có gai góc / Cỏ xanh mọc mềm mại / Như trải thảm nhung êm / Người đi rất vừa ý / Tự nhiên sanh gạo thơm / Đầy đủ chất thơm ngon / Các cây sanh y phục / Màu sắc đều tốt đẹp / Cây cao ba câu xá ([3]) / Hoa quả rất sum suê / Người trong cõi nước này / Tuổi thọ tám vạn năm / Không có các bệnh khổ / Thân tâm thường an lạc / Đủ các tướng đoan nghiêm / Sắc lực đều viên mãn, v.v…([4])

2. Tuy thế giới hoàng kim của Đức Di Lạc chưa hình hiện, nhưng khi Đức Chí Tôn mở đạo Cao Đài thì trong số rất nhiều Đấng thiêng liêng giáng trần, mượn cơ bút dạy đạo Kỳ Ba có Đức Di Lạc. Tại Trước Lâm Thánh Đức Thiền Điện (Vĩnh Long), đàn cơ giờ Tuất ngày 17-7 Tân Hợi (Thứ Hai 06-9-1971), Đức Di Lạc Thiên Tôn giáng lâm dạy đạo. Dịp này Ngài giảng về lý do Di Lặc thời xưa đổi thành Di Lạc ngày nay. Đức Di Lạc Thiên Tôn dạy về lẽ biến dịch ấy như sau (trích):

Thật sự câu Phật pháp bất ly thế gian pháp [佛法不離世 間法] là một câu có giá trị muôn đời. Vậy, Phật pháp là chi? Và thế gian pháp là chi?

Chư hiền đệ ôi! Nếu nói là pháp, dù thế gian pháp hay Phật pháp đều phải vướng mắc trong vòng luân chuyển biến thiên. Bởi chữ pháp, nếu phát xuất từ Đạo vô thượng mà thị hiện xuống thế gian thì trở thành cái pháp tùy thời tùy lúc để giúp cho các pháp của thế gian đi đúng chiều hướng của nó trong định luật thiên nhiên.

Tại sao pháp phải biến đổi không ngừng? Vì nó viết lên bởi chữ thủylà nước và chữ khứ là đi. Dòng nước cứ mãi mãi trôi đi từ thời gian này đến thời gian khác, từ nơi này đến nơi kia, nên đời thường nói dòng thế sự, dòng thiên diễn, dòng định mệnh. Tất cả những hình thái ấy không hẳn cố định một nơi. Đến cả cái pháp của Phật thể hiện bên ngoài là giới luật, là điều quy, nào Thập Nhị Nhân Duyên, Tứ Diệu Đế, và Bát Chánh Đạo, v.v... cũng tùy thời gian và tùy địa phương mà ứng nghiệm.

Còn thế gian pháp là chi? Là những sự nghiệp giả tạm của cõi đời nhiều ý tưởng tham dục – những ý tưởng tham dục ảo hóa ngự trị trong tâm hồn nhơn loại. Nếu nó không được gần gũi với Phật pháp, hay nếu Phật pháp ly thế gian pháp thì nhơn loại muôn đời vẫn phải luân hồi trong sáu nẻo trầm kha khổ lụy và không thiết đến sự quay về với căn rễ của con người, của điểm linh quang sáng suốt nơi Thượng Đế phát ban.

Chư hiền đồ thấy chăng? Danh hiệu của Thiên Tôn từ lâu thì gọi là Di Lặc, và ý nghĩa trong nó có khác, ngoài cái tên để gọi một vị Phật. Rồi ngày nay ở ven trời này nhiều người lại gọi là Di Lạc. Nếu phân tích nội dung nghĩa lý thì có khác – ngoài hai tiếng gọi tên một vị Phật đó – cho chư hiền đồ thấy vạn pháp đều biến đổi không ngừng như dòng nước, như dòng đời, như dòng thiên diễn.

(Pháp đàn: Thiện Đức. Đồng tử: Thanh Căn)

HUỆ KHẢI



([1]) Shuhmacher, Stephan, and Gert Woerner. The Encyclopedia of Eastern Philosophy and Religion: Buddhism, Hinduism, Taoism, Zen. Boston: Shambala, 1994, p. 217. Dẫn theo https://www.newworld encyclopedia.org/ entry/Maitreya. Truy cập 22-9-2020.

([2]) Thần học phương Tây gọi giáo thuyết này là eschatology, người Hoa gọi là 終世論 (chung thế luận) hay 末世學 (mạt thế học); theo đó, toàn nhân loại (người sống) và các linh hồn (người chết) sẽ cùng chịu chung cuộc phán xét cuối cùng.

([3]) Thụ cao tam câu xá. 樹高三俱舍. Chưa biết câu xá tương đương bao nhiêu mét. (Huệ Khải)

([4]) Bản dịch của Thích Nữ Như Phúc (chùa Kim Quang, Nha Trang).

http://www.buddhamountain.ca/VT0455.php. Truy cập 22-9-2020.