Thứ Ba, 17 tháng 11, 2020

TỤNG 54 HỒNG DANH ĐỂ TU THÂN / DI LẠC CHƠN KINH SƠ GIẢI

 


4. TỤNG 54 HỒNG DANH ĐỂ TU THÂN

I. Tụng kinh tìm lý

Chơn Ngôn Yếu Quyết 真言要訣 (quyển thứ nhứt) có câu này: Độc kinh giả vi cầu kỳ lý. 讀經者為求其理. (Người đọc kinh là tìm lý lẽ của kinh.) Quyển này lại nói thêm: Bt gii đc kinh cu lý dĩ chiếu tâm, hà kỳ ngu tai! 不解讀經求理以照 , 何其愚哉! (Không hiểu rằng đọc kinh là tìm lý lẽ của kinh để soi sáng lòng mình, kẻ ấy sao ngu muội vậy!)

Trong Nhị Kỳ Phổ Độ, người xưa nói như trên tuy nặng lời, nhưng chỉ vì từ bi muốn soi sáng lòng chúng sanh, giúp bá tánh hiểu rõ mục đích thật sự của việc tụng kinh.

Sang Tam Kỳ Phổ Độ, tại Giáo Hội Tiên Thiên Minh Đức, ngày 20-9 Đinh Mùi (Thứ Hai, 23-10-1967), Đức Nhị Trấn Oai Nghiêm Thường Cư Nam Hải Quan Âm Như Lai giáng cơ dạy như sau:

Sách kinh là đuốc rọi đàng

Dạy đời học đạo hành tàng thế nao.

Vì lẽ đó cùng nhau ráng hiểu

Đọc kinh coi Phật biểu làm chi

Ráng làm ăn ở cho y

Tánh tình cùng những hành vi Phật Trời.

Đọc kinh rồi hiểu lời Phật dạy

Thì chớ làm trái lại sách kinh . . .

Đức Bồ Tát nhắc nhở như thế bởi vì hầu như phần đông tín hữu tuy thuộc lòng từng câu từng chữ, tuy siêng năng tụng kinh trong các thời cúng, nhưng hầu như ít người hiểu rõ ý nghĩa (nhất là các kinh hoàn toàn dùng từ Hán Việt), do đó miệng đọc ra tiếng mà trong trí rất mơ hồ. Đức Bồ Tát nêu rõ chỗ đáng thương này của bổn đạo như sau:

Tụng kinh như thể nói vè

Nghĩa sâu không biết, lối lề không thông.

Chẳng khác nào như ong vò vẽ

Tiếng nhỏ to thỏ thẻ vu vu

Tụng nhiều mới gọi rằng tu

Đọc nhiều cho Phật công phu mới nhiều.

Đó là tu theo chiều mê tín

Biết bao giờ tâm thánh mở mang . . .

Nói cách khác, tụng kinh là để noi theo kinh cố gắng sửa đổi tâm phàm tánh tục trở nên tâm thánh tánh hiền, bằng cách hiểu rõ nghĩa câu kinh mà ứng dụng cho bản thân. Tụng kinh thật ra là tụng cho mình, nào phải tụng cho Phật Trời, Tiên Thánh nghe. Đức Bồ Tát Quan Âm xác định:

Không phải Phật thiếu kinh thường dụng

Bảo chúng sanh đem tụng Phật nghe . . .

Thế thì, khi tụng 54 hồng danh Phật, Bồ Tát trong Di Lạc Chơn Kinh nào phải để xưng tán công đức các Đấng. Các Đấng cần chi những xưng tán ấy. Trái lại, mỗi hồng danh đều có một ý nghĩa. Tụng một hồng danh tức là tự nhắc nhở rằng muốn tu thành Tiên Phật thì bản thân người tín hữu cần nói, nghĩ và làm đúng theo ý nghĩa ẩn chứa trong hồng danh ấy.

Sau đây là chút ý thô thiển, thử đề nghị tín hữu chúng ta cùng suy niệm về nghĩa lý từng hồng danh. Với công trình tu tập sâu dày và công phu tịnh luyện tinh nghiêm, mỗi vị tín hữu Cao Đài sẽ tự khám phá thêm nhiều lẽ sâu kín.

II. Nam mô là gì?

1. Khi chắp tay thành kính niệm một hồng danh, chúng ta mở đầu với hai chữ Nam. Hai chữ này do tiếng Sanskrit là Nama, tiếng Pali là Namo. Tiếng Anh thường không dịch, mà mượn luôn tiếng Pali là Namo.

Theo Trung Anh Phật Học Từ Điển (中英佛學辭典 A Dictionary of Chinese Buddhist Terms), của William Edward Soothill và Lewis Hodous, Nam có nghĩa như sau:

Nam 南無 đồng nghĩa với quy mạng 歸命. Quy mạng là dâng hiến sinh mệnh của mình cho Đức Phật, phó thác đời mình cho Đức Phật, vâng theo lời Đức Phật dạy (devoting one's life to Buddha, entrusting one’s life to Buddha, obeying Buddha's teaching). Nam mô Phật 南無佛 nghĩa là “Con xin phụng hiến trọn vẹn bản thân con cho Đức Phật.” (I devote myself entirely to Buddha.)

2. Khi cúng trước Thiên Bàn, chúng ta làm dấu trên trán, và niệm: Nam mô Phật. Nam mô Pháp. Nam mô Tăng. Như vậy có nghĩa chúng ta quy mạng Tam Bảo, tức là đem cả thân và tâm quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng. Mà “Quy y là trở về để nương tựa”.([1])

- Nam mô Phật quy y Phật, tức là trở về và nương tựa vào Đức Chí Tôn.([2])

- Nam mô Phápquy y Pháp, tức là trở về và nương tựa vào chánh pháp Thầy truyền dạy Kỳ Ba.

- Nam mô Tăngquy y Tăng, tức là trở về và nương tựa vào các bậc Thiên ân hướng đạo chơn tu giúp Thầy dìu dắt đàn em (các tín hữu). Chức sắc đủ đầy tâm, hạnh, đức, tài Tăng cho tín hữu trở về và nương tựa vào.

III. Thực hành niệm hồng danh để tu thân

Khi chắp tay cung kính niệm hồng danh mỗi vị Phật, Bồ Tát trong Di Lạc Chơn Kinh, tức là người tín hữu nguyện trở về và nương tựa vào mỗi Đấng để nói, nghĩ và làm theo ý nghĩa hồng danh của Ngài. Mỗi hồng danh là một hạnh để tu tập. Tụng Di Lạc Chơn Kinh là thực hành 54 hạnh để tu thân.

1. Nam mô Di Lạc Vương Phật. Con nguyện trở về và nương tựa vào Đức Phật là Vua các điều vui sướng tràn đầy, lâu dài và rộng khắp. Vì vậy, con không gây tội lỗi để sống vui, và con còn biết làm cho người khác được vui.

2. Nam mô Brahma Phật. Con nguyện trở về và nương tựa vào Đức Phật là Đấng Sáng Tạo. Vì vậy, con không sát sanh, không hủy hoại sự sống được Ngài tạo ra.

3. Nam Shiva Phật. Con nguyện trở về và nương tựa vào Đức Phật là Đấng Hủy Diệt. Vì vậy, con luôn xem xét bản thân để hủy diệt những lời nói, ý nghĩ, việc làm tà vạy.

4. Nam mô Krishna Phật. Con nguyện trở về và nương tựa vào Đức Phật là Đấng Bảo Tồn. Vì vậy, con luôn giữ cho chân thiện mỹ trường tồn.

5. Nam mô Thanh Tịnh Trí Phật. Con nguyện trở về và nương tựa vào Đức Phật bằng cách giữ tâm trí con trong sạch.

6. Nam mô Diệu Minh Lý Phật. Con nguyện trở về và nương tựa vào Đức Phật bằng cách khéo làm sáng lẽ Đạo để con hiểu rõ và giúp nhơn sanh hiểu rõ.

7. Nam mô Phục Tưởng Thị Phật. Con nguyện trở về và nương tựa vào Đức Phật bằng cách phục hồi cách nghĩ, cách nhìn của con đúng theo chánh đạo.

8. Nam mô Diệt Thể Thắng Phật. Con nguyện trở về và nương tựa vào Đức Phật bằng cách diệt cho xong những cám dỗ của thể xác.

9. Nam mô Phục Linh Tánh Phật. Con nguyện trở về và nương tựa vào Đức Phật bằng cách tinh tấn công phu để phục hồi tánh linh của con.

10. Nam mô Trụ Thiện Phật. Con nguyện trở về và nương tựa vào Đức Phật bằng cách sống với lời lành, ý lành, việc lành.

11. Nam mô Ða Ái Sanh Phật. Con nguyện trở về và nương tựa vào Đức Phật bằng cách rất yêu quý sự sống Đức Thượng Đế ban cho.

12. Nam mô Giải Thoát Khổ Phật. Con nguyện trở về và nương tựa vào Đức Phật bằng cách tinh tấn tu tập để giải thoát đau khổ cho con và cho người khác.

13. Nam mô Diệu Chơn Hành Phật. Con nguyện trở về và nương tựa vào Đức Phật bằng cách thực hành lẽ thật huyền diệu để không trao cho đời bánh vẽ.

14. Nam mô Thắng Giới Ác Phật. Con nguyện trở về và nương tựa vào Đức Phật bằng cách khéo ngăn ngừa con khỏi gây điều ác.

15. NamNhiên Đăng Cổ Phật. Con nguyện trở về và nương tựa vào Đức Phật bằng cách tinh tấn công phu để thắp sáng ngọn đèn trí huệ trong con.

16. Nam Tiếp Dẫn Phật. Con nguyện trở về và nương tựa vào Đức Phật bằng cách tiếp nhận và dẫn dắt người có tâm tu tìm được chánh đạo.

17. Nam Phổ Tế Phật. Con nguyện trở về và nương tựa vào Đức Phật bằng cách cứu giúp rộng khắp.

18. Nam Tây Quy Phật. Con nguyện trở về và nương tựa vào Đức Phật bằng cách tinh tấn tu tập để linh hồn được trở về Tây phương cực lạc.

19. Nam Tuyển Kinh Phật. Con nguyện trở về và nương tựa vào Đức Phật bằng cách chọn lựa kinh sách đúng chánh pháp để tu học.

20. Nam Tế Pháp Phật. Con nguyện trở về và nương tựa vào Đức Phật bằng cách thực hành pháp môn cứu độ.

21. Nam Chiếu Duyên Phật. Con nguyện trở về và nương tựa vào Đức Phật bằng cách soi rọi các duyên, noi theo duyên lành giúp con tinh tấn, tránh xa duyên không lành để khỏi vấp ngã trên đường tu.

22. Nam Phong Vị Phật. Con nguyện trở về và nương tựa vào Đức Phật bằng cách tu chứng để được Đức Chí Tôn ban phong ngôi vị thiêng liêng.

23. Nam Hội Chơn Phật. Con nguyện trở về và nương tựa vào Đức Phật bằng cách siêng chăm tu học để hiểu rõ các lẽ thật.

24. Nam Kim Bàn Phật Mẫu. Con nguyện trở về và nương tựa vào Đức Phật Mẫu bằng cách luôn ghi nhớ Đức Mẹ hằng trông ngóng con tu chứng để về được Diêu Trì Cung dự Hội Yến Bàn Đào.

25. Nam Quảng Sanh Phật. Con nguyện trở về và nương tựa vào Đức Phật bằng cách sống rộng mở.

26. Nam Dưỡng Dục Phật. Con nguyện trở về và nương tựa vào Đức Phật bằng cách nuôi dưỡng thân xác lành mạnh làm phương tiện tu hành.

27. Nam Chưởng Hậu Phật. Con nguyện trở về và nương tựa vào Đức Phật bằng cách vun trồng lòng nhân nơi con và rộng rãi cứu giúp người hoạn nạn.

28. Nam Thủ Luân Phật. Con nguyện trở về và nương tựa vào Đức Phật bằng cách giữ gìn nhân luân trong đời sống.

29. Nam Cửu Vị Nữ Phật. Con nguyện trở về và nương tựa vào Chín Vị Nữ Phật Diêu Trì Cung để được hộ trì.

30. Nam Từ Hàng Bồ Tát. Con nguyện trở về và nương tựa vào Đức Bồ Tát bằng cách góp sức chèo chống thuyền từ Kỳ Ba là tôn giáo Cao Đài.

31. NamÐa Pháp Phật. Con nguyện trở về và nương tựa vào Đức Phật bằng cách tri hành các pháp.

32. NamTịnh Thiện Giáo Phật. Con nguyện trở về và nương tựa vào Đức Phật bằng cách siêng chăm tu học để nắm được giáo lý hoàn toàn tốt đẹp.

33. NamKiến Thăng Vị Phật. Con nguyện trở về và nương tựa vào Đức Phật bằng cách tinh tấn tu tập để tự lập cho con ngôi vị cao thăng.

34. NamHiển Hóa Sanh Phật. Con nguyện trở về và nương tựa vào Đức Phật bằng cách tinh tấn tu tập để biến đổi rõ ràng sự sống của con được nên thiện lành.

35. NamTrục Tà Tinh Phật. Con nguyện trở về và nương tựa vào Đức Phật bằng cách xua đuổi tà quái yêu tinh ra khỏi lời nói, ý nghĩ, việc làm của con.

36. NamLuyện Ðắc Pháp Phật. Con nguyện trở về và nương tựa vào Đức Phật bằng cách tu luyện cho được các pháp đã học.

37. NamHộ Trì Niệm Phật. Con nguyện trở về và nương tựa vào Đức Phật bằng cách bảo vệ và nâng đỡ việc tụng niệm của người tu hành.

38. NamKhai Huyền Cơ Phật. Con nguyện trở về và nương tựa vào Đức Phật để được khải ngộ cơ Trời huyền diệu.

39. NamHoán Trược Tánh Phật. Con nguyện trở về và nương tựa vào Đức Phật bằng cách thay đổi tánh chất dơ bẩn nơi con trở thành trong sạch.

40. NamÐa Phúc Ðức Phật. Con nguyện trở về và nương tựa vào Đức Phật bằng cách gây tạo được nhiều phúc đức.

41. Nam Chuẩn Đề Bồ Tát. Con nguyện trở về và nương tựa vào Đức Bồ Tát bằng cách giữ lòng thanh tịnh.([3])

42. Nam Phổ Hiền Bồ Tát. Con nguyện trở về và nương tựa vào Đức Bồ Tát bằng cách tinh tấn tu tập cho nên tài đức để phụng sự Đạo.([4])

43. Nam Diệt Tướng Phật. Con nguyện trở về và nương tựa vào Đức Phật bằng cách diệt trừ hình tướng, không chấp các tướng.

44. Nam Ðệ Pháp Phật. Con nguyện trở về và nương tựa vào Đức Phật bằng cách truyền bá chánh pháp.

45. Nam Diệt Oan Phật. Con nguyện trở về và nương tựa vào Đức Phật bằng cách không gây oan trái, sống công bình với mọi người.

46. Nam Sát Quái Phật. Con nguyện trở về và nương tựa vào Đức Phật bằng cách tiêu trừ lời nói, ý nghĩ, việc làm tà quái nơi con.

47. Nam Ðịnh Quả Phật. Con nguyện trở về và nương tựa vào Đức Phật bằng cách tinh tấn tu tập để quyết định kết quả cho con.

48. Nam Thành Tâm Phật. Con nguyện trở về và nương tựa vào Đức Phật bằng cách thành tâm tu học và sống thành thật với mọi người.

49. Nam Diệt Khổ Phật. Con nguyện trở về và nương tựa vào Đức Phật bằng cách diệt trừ những nguyên nhân gây khổ cho con và con cũng không gây khổ cho người khác.

50. Nam Kiên Trì Phật. Con nguyện trở về và nương tựa vào Đức Phật bằng cách kiên trì vượt qua mọi chướng ngại trên đường tu.

51. Nam Cứu Khổ Phật. Con nguyện trở về và nương tựa vào Đức Phật bằng cách tinh tấn tu học để cứu khổ cho con và cho người khác.

52. Nam Xá Tội Phật. Con nguyện trở về và nương tựa vào Đức Phật bằng cách tha tội cho người khác và xin Ngài tha tội cho con.

53. Nam Giải Thể Phật. Con nguyện trở về và nương tựa vào Đức Phật bằng cách giải thoát thân thể con khỏi những trói buộc vì dục vọng.

54. Nam mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát. Con nguyện trở về và nương tựa vào Đức Chí Tôn bằng cách tôn kính bình đẳng các tôn giáo, và làm sáng tỏ lẽ thật rằng Thầy đến Kỳ Ba để đưa Tam Giáo Đạo trở về nguồn gốc Đại Đạo.([5])

Nhiêu Lộc, 22-9-2020

HUỆ KHẢI



([1]) Phật Quang Đại Từ Điển 佛光大辭典, bản dịch của Hòa Thượng Thích Quảng Độ (1928-2020), mục từ quy y 歸依.

([2]) Đức Chí Tôn dạy: Thầy là chư Phật. Chư Phật là Thầy. (ThánhNgôn Hiệp Tuyển. Quyển I. Chủ Nhật 24-10-1926.)

([3]) Chuẩn Đề nghĩa là thanh tịnh. (Từ Điển Phật Học Huệ Quang, tập I, tr. 962). https://giacngo.vn/PrintView.aspx?Language=vi&ID=7EE241

([4]) Phổ Hiền nghĩa là tài đức trải rộng khắp.

([5]) Câu chú của Thầy hàm chứa Tam Giáo: Cao Đài (Nho), Tiên Ông (Lão), Đại Bồ Tát Ma Ha Tát (Phật).