1. TỪ TỨ
CÚ KỆ ĐẾN KHAI KINH KỆ
Kệ 偈 là bài tụng 頌 có vần điệu, đọc ngân nga. Thuật ngữ này gốc tiếng Phạn (Sanskrit) là gāthā và chuyển âm Hán là cà
đà 伽陀, cà tha 伽他, kệ đà 偈陀/偈佗, gọi tắt là kệ; hoặc ghép âm Phạn với nghĩa Hán gọi
là kệ cú 偈句, kệ ngôn 偈言, kệ ngữ 偈語, kệ tụng 偈頌, kệ văn 偈文. Tiếng Anh thường dịch là hymn, verse, hoặc mượn
luôn gốc Phạn là gatha.
I. TỨ CÚ KỆ 四句偈 gồm bốn câu (mỗi câu có bốn, năm, hay bảy chữ). Thí dụ:
1. Kinh Pháp Cú tóm lược hết giáo lý nhà Phật trong bốn câu
kệ (mỗi câu bốn chữ) như sau:
諸 惡 莫 作 眾 善 奉 行 自 淨 其 意 是 諸 佛 教 |
Chư ác mạc tác Chúng thiện phụng hành Tự tịnh kỳ ý Thị chư Phật giáo. |
(Các
điều ác chớ làm
Vâng làm các điều
lành
Giữ tâm ý trong sạch
Là lời chư Phật dạy.)
2. Đức
Phật kết thúc Kinh Kim Cang bằng bốn
câu kệ (mỗi câu năm chữ) như sau:
一 切 有 為 法 如 夢 幻 泡 影 如 露 亦 如 電 應 作 如 是 觀 |
Nhất thiết hữu vi pháp Như mộng, huyễn, bào, ảnh Như lộ diệc như điện Ưng tác như thị quán. |
(Tất cả
pháp hữu vi
Như mộng, huyễn,
bọt, bóng
Như sương, như chớp
lóe
Hãy quán chiếu như thế.)
3. Bài kệ nổi tiếng của Đức Lục Tổ Huệ Năng (638-713) chép
trong Pháp Bảo Đàn Kinh (Hành Do phẩm đệ nhất), gồm bốn câu (mỗi
câu năm chữ) như sau:
菩 提 本 無 樹 明 鏡 亦 非 臺 本 來 無 一 物 何 處 惹 塵 埃 |
Bồ đề bản vô thụ Minh kính diệc phi đài Bản lai vô nhất vật Hà xứ nhạ trần ai? |
(Bồ đề
chẳng phải cây
Gương sáng chẳng
phải đài
Xưa nay không một
vật
Chỗ nào vướng trần
ai?)
4. Bài
kệ của Đức Vạn Hạnh Thiền Sư (?-1018) dạy môn đệ trước khi liễu đạo gồm bốn câu (mỗi câu bảy chữ) như sau:
身 如 電 影 有 還 無 萬 木 春 榮 秋 又 枯 任 運 盛 衰 無 怖 畏 盛 衰 如 露 草 頭 鋪 |
Thân như điện ảnh hữu hoàn vô Vạn mộc xuân vinh, thu hựu khô Nhậm vận thịnh suy vô bố úy Thịnh suy như lộ thảo đầu phô. |
Hòa
thượng Thích Mật Thể (1913-1961) dịch:
Thân như
bóng chớp chiều tà
Cỏ xuân tươi tốt thu
qua rụng rời
Sá chi suy thịnh
việc đời
Thịnh suy như hạt
sương rơi đầu cành.
5. Theo Đoàn
Trung Còn (Tự Điển Phật Học, quyển 3),
tứ cú kệ chứa đựng hết ý nghĩa đạo lý tóm lược trong bốn câu. Chư Phật, chư Tổ
thường dùng tứ cú kệ truyền cho đệ tử hoặc để khai ngộ hay để phó chúc. Người
hữu duyên nghe một tứ cú kệ, có thể giác ngộ, tu cho tới lúc thành đạo.
II. KHAI KINH KỆ 開經偈 là tứ cú kệ được đọc trước khi tụng một quyển kinh hay một bài
kinh theo nghi thức tụng kinh Phật. Nghi thức này có thể thay đổi nội dung tùy
theo tụng kinh gì, và tùy theo chư tăng mỗi nơi khác nhau. Chẳng hạn nghi thức
tụng Kinh Kim Cương ở Đài Loan ([1]) có chút khác biệt với nghi thức được ghi trong bản dịch Kinh Kim Cương của Hòa Thượng Thích Trí
Tịnh (1917-2014) tại Việt Nam.([2]) Kể vắn tắt như sau:
1. Trước
tiên chắp tay (合掌 hợp chưởng) tụng bài Lô Hương Tán 爐香讚 (tán lư nhang): Lô
hương sạ (xạ) nhiệt, v.v… (爐香乍爇, v.v…) Rồi niệm ba lần:
2. Đọc ba
lần Tịnh Thân Nghiệp Chân Ngôn 淨身業真言. Bản Thích Trí Tịnh không có.
3. Đọc ba
lần Tịnh Khẩu Nghiệp Chân Ngôn 淨口業真言.
4. Đọc ba
lần Tịnh Ý Nghiệp Chân Ngôn 淨意業真言. Bản Thích Trí Tịnh không có, nhưng lại có “Tịnh Tam Nghiệp
Chân Ngôn”. (Tam nghiệp: Ba nghiệp
thân, khẩu, ý.)
5. Đọc ba
lần Án Thổ Địa Chân Ngôn 安土地真言.
6. Đọc ba lần Phổ
Cung Dưỡng ([3]) Chân Ngôn 普供養真言.
7. Đọc một
lần Phụng Thỉnh Bát Kim Cương 奉請八金 剛: Phụng thỉnh Thanh
Trừ Tai Kim Cương, v.v… (奉請青除災
金剛, v.v…) Khi tụng kinh khác thì thay
mục 7.
8. Đọc một
lần Phụng Thỉnh Tứ Bồ Tát 奉請四菩薩: Phụng thỉnh Kim
Cương Quyến Bồ Tát, v.v… (奉請金剛眷菩薩, v.v…) Khi tụng kinh khác thì thay mục 8. Như
tụng Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai Bổn
Nguyện Công Đức Kinh 藥師琉璃 光如來本願功德經, thì hai mục 7 và 8 này được thay bằng Phụng Thỉnh Thập Nhị Dược Xoa Đại Tướng 奉請十二 藥叉大將: Phụng thỉnh Cung Bì La Đại Tướng … (奉請宮毘羅 大將…)
9. Đọc một
lần Phát Nguyện Văn 發願文: . . . Ngã kim phát hoằng
nguyện / Trì thử Kim Cương Kinh . . . (. . . 我今發宏願 / 持此金剛經
. . .) Khi tụng kinh khác thì thay mục
9. Như tụng Dược
Sư Lưu Ly Quang Như Lai Bổn Nguyện Công Đức Kinh, thì đọc: . . . Ngã kim phát hoằng
nguyện / Trì thử Dược Sư Kinh . . . (.
. . 我今發宏願 / 持此藥師 經 . . .)
10. Đọc một
lần Vân Hà Phạm 云何梵: Vân hà đắc trường
thọ / Kim cương bất hoại thân ... (云何得長壽 / 金剛不壞身...) Rồi niệm ba lần:
11. Đọc một
lần Khai Kinh Kệ. Theo bản Thích Trí
Tịnh, đọc xong thì niệm ba lần:
12. Kế đến,
bắt đầu tụng chánh văn Kim Cương Kinh:
Như thị ngã văn … 如是我聞 …
Tóm lại,
theo nghi thức tụng kinh bên Phật Giáo, trước khi tụng một quyển kinh hay một
bài kinh thì đọc Khai Kinh Kệ, và trước
đó còn có một số mục nữa, được thay đổi tùy theo tụng kinh gì và tùy theo quy ước
của từng nơi (thí dụ: ở Việt Nam làm hơi khác bên Đài Loan, như dẫn trên).
Nghi thức
tụng Di Lạc Chơn Kinh trong đạo Cao
Đài được giản lược rất nhiều, mở đầu chỉ tụng Khai Kinh Kệ, và bài kệ này có ba chữ khác hơn bài kệ bên Phật Giáo
(câu 3, 4):
PHẬT
GIÁO: Ngã kim kiến văn đắc thọ trì / Nguyện giải Như Lai ([4]) chơn thiệt
nghĩa. (Kiến 見: Thấy.)
CAO ĐÀI:
Ngã kim thính văn
đắc thọ trì / Nguyện giải tân kinh chơn thiệt nghĩa.
Nhiêu Lộc, 04-9-2020
HUỆ KHẢI