Thứ Bảy, 1 tháng 12, 2018

2. TẤM LÒNG MỘT NGƯỜI THẦY


TẤM LÒNG MỘT NGƯỜI THẦY
Đầu năm 1993 tôi xuất bản Giải Mã Truyện Tây Du.([1]) Người bạn đời của thầy Hiến Lê mân mê quyển sách biếu trên tay, giọng như trầm hẳn đi: Phải chi ổng còn sống, ổng mừng cho cháu lắm. Trong số mấy thanh niên, cháu là người ổng mến nhứt! Tôi im lặng, chia sẻ cùng cô khoảnh khắc cảm xúc bất chợt. Cô đâu biết, khi đặt bút nắn nót ghi lời biếu cô quyển sách, tôi cũng ngậm ngùi nhiều, vì chính lúc ấy tôi nhớ thầy biết mấy. Trong những điều bất như ý đời mình, tôi cứ tiếc hoài một nỗi thầy đã đi xa khiến tôi không thể xin thầy đề tựa cho quyển sách đầu tay năm ấy...
Trong Hồi Ký, có đoạn thầy viết: Số thanh niên không học tôi mà coi tôi như thầy, thỉnh thoảng viết thư cho tôi thì rất nhiều... ([2]) Tôi đến với thầy trong tình cảm như vậy. Cho đến bây giờ, trong tâm tôi chỉ có hình ảnh một người thầy, chứ không phải một học giả hay nhà văn.
Quyển Tự Học – Một Nhu Cầu Của Thời Đại của thầy, do Thanh Tân xuất bản, tôi được đọc từ những năm đầu tiên của bậc trung học đệ nhất cấp (nay gọi cấp hai, hay trung học cơ sở). Sách này ảnh hưởng đến tôi nhiều nhất. Cũng từ đó, dù chưa biết Nguyễn Hiến Lê là ai, thấy sách nào có tên Nguyễn Hiến Lê thì mua. Cuốn nào đọc không thích cũng không tiếc, nhủ thầm: Để dành, biết đâu sau này sẽ thích.
Cũng theo hướng dẫn của thầy trong quyển Tự Học – Một Nhu Cầu Của Thời Đại, dần dần tôi biết lựa cho mình một tủ sách riêng khá lớn, hằng trăm cuốn, bằng cách để dành tiền ăn sáng. Cứ thế cho tới khi tôi vào đại học.
Giọng văn riêng của thầy. Cách nói khiêm tốn mà xác tín. Sự giải thích rõ ràng dễ hiểu những vấn đề trừu tượng... Tất cả những đức tính ấy ngày một ảnh hưởng nhiều đến tôi. Yêu sách rồi yêu người viết sách, cuối cùng tôi có suy nghĩ rằng sau này tôi sẽ chọn nghề dạy học và sẽ tập tành viết, để tiêu khiển. Tôi cũng biết mình không có khiếu văn chương, nhưng trong sách thầy khuyên rằng không viết được thì dịch. Do đó tôi ráng học lấy một sinh ngữ.
Đọc sách của thầy nhiều tôi lại thích việc biên khảo. Cuối năm 1974, đang học năm thứ hai (cũng là đầu niên khóa chót) ở Ban Thương Mại thuộc trường Đại Học Trung Cấp Chuyên Nghiệp,([3]) tôi soạn thử một cuốn mỏng: Khía Cạnh Tâm Lý Trong Việc Soạn Thảo Thư Từ Thương Mại,([4]) rồi lại làm gan gửi thầy một bản đẹp in trên giấy fort trắng mịn.
Qua mấy ngày, tôi nhận được thư thầy viết trên tờ pelure mỏng manh, xanh nhạt gấp đôi:
Saigon 29.12.74 ([5])
Cháu Lê Anh Dũng,
Cảm ơn cháu cho một bản giấy tốt tập Soạn thảo thư từ thương mại.
Đọc xong tôi thấy cháu viết được lắm, sáng sủa, dễ hiểu, ý sắp đặt khéo mà cũng xác đáng. Chưa phải là một công trình dĩ nhiên, nhưng thanh niên viết loại biên khảo được như vậy, không phải có nhiều người đâu. Cháu cứ tiếp tục đi, phải đọc nhiều, kinh nghiệm nhiều rồi viết mới hay, khoảng 40 tuổi trở đi, chứ muốn cho sâu sắc ngay thì không được. Ngành biên khảo như vậy.
Cháu khỏi phải xin lỗi tôi về những bức thư tôi dịch, cháu trích lại và thêm ít chữ ở cuối thư.
Tiếng Anh cháu có khá không?
Mấy năm nữa thì xong ban Thương Mại?
Chúc cháu vui.
(Chữ ký)

Trên phong bì, thầy viết ba dòng:
Ông Lê Anh Dũng
87/3 Lê Văn Duyệt
Gia Định
Chữ Ông dành cho chàng trai mười chín tuổi rưỡi (theo dương lịch) khiến tôi suy nghĩ nhiều, và tôi được học thêm một cách viết phong bì thư.
*
Tháng 4-1975, tôi soạn xong cuốn Danh Từ Quan Thuế - Thuế Vụ Đối Chiếu (Anh-Việt), đã tự đánh máy tất cả trên giấy sáp, chưa kịp quay ronéo thì lịch sử sang trang.
Mấy ngày hồi tháng 5-1975, thầy trò chúng tôi hằng ngày vào trường cứ lơ ngơ láo ngáo. Tiếc tập sách lỡ làng, nhân lúc quá rảnh rỗi, tôi ghé nhà sách mua ít rames giấy fort trắng, rồi đem vào văn phòng Ban Thương Mại mượn máy Gestetner, một mình đứng quay đúng mười cuốn Danh Từ Quan Thuế - Thuế Vụ Đối Chiếu. Nhân viên văn phòng ngồi nói chuyện phiếm, để mặc tôi tự do làm việc. Tôi quay ráo riết một buổi sáng thì xong, lẹ lẹ ôm hết giấy má về nhà tự bắt cuốn, đóng kim, mang đi xén, sau cùng mới vô bìa.
Rồi tôi mang đến đường Kỳ Đồng, cũng như tháng 12 năm trước, chỉ đứng ngoài cổng, qua trung gian cô mà gởi biếu thầy một bản đẹp. Ba tháng trôi đi chẳng có thư của thầy. Nhưng hoàn cảnh xã hội bấy giờ khiến tôi không thắc mắc.
Mấy tháng “thất học” tôi hay la cà ở đường Cá Hấp (tức Bùi Quang Chiêu, nay là Đặng Thị Nhu, quận 1) và mua vài cuốn sách bỏ túi (pocket books) viết về Trung Quốc bằng tiếng Anh. Đọc thử mấy trang, tôi không khỏi lúng túng vì gặp các nhân danh và địa danh chữ Hán được chuyển sang mẫu tự Latin theo hệ thống Wade-Giles.
Hạ tuần tháng 8-1975, tôi viết thư hỏi thầy, rồi dán tem gởi qua bưu điện. Thầy hồi âm liền. Thư thầy gởi tôi chỉ là mẩu giấy thô 12,5x10cm, viết kín hai mặt, hết chỗ thì thầy xoay ngang viết chen vào lề trái. Thứ Tư 27-8-1975, thư tới Gia Định:


Saigon 26.8.75
Cháu Lê Anh Dũng,
Tôi đã đọc tập Danh từ quan thuế... in rất đẹp mà cháu đã trang trọng gởi cho tôi. Tôi khen cháu: cháu làm việc có phương pháp và cẩn thận đấy. Cứ tiếp tục, sau này cháu sẽ giúp được nhiều về khu vực đó.
Hôm cháu đem tập đó lại cho tôi, tôi đau khá nặng. Tôi đau gần hết nửa năm nay, bây giờ mới khá, nhưng không thấy hăng hái làm việc nữa.
Trung Hoa là cả một lục địa lớn như châu Âu mà có lịch sử, văn minh từ 3000-4000 năm nay nên sách vở của họ nhiều vô kể, nhân danh và địa danh của họ nhiều vô kể. Người Âu phiên âm mỗi nước một khác, ngay một nước cũng có 2 cách như Anh có 2 cách, Pháp cũng vậy. Mới đây lại thêm cách phiên âm chính thức của chính quyền T.H. lục địa, thành thử không có qui tắc nào cả, không tra cách đọc ở đâu được cả, không có bảng đối chiếu nào tạm đủ dùng được cả. Đành phải đọc cho nhiều rồi đoán thôi. Như Anh phiên âm là li, có thể là chữ lê, lễ, lí, lợi, lị Trung Hoa. Mà cũng có mấy chữ. Như vậy chỉ thấy Anh phiên âm là li, phải đoán ra được là chữ nào của T.H. Tôi chỉ có một bảng nhỏ để tra ít đa danh quan trng của T.H. (tên tỉnh, thị trấn, sông, núi lớn). Khi nào cháu muốn tra, lại nhà tôi mà tra. Cuốn đó tôi không thể cho mượn được. Còn về nhân danh thì tôi không có. (Chữ ký)
T.B. Phải. Kansu = Cam Túc, Shansi = Sơn Tây, Shensi = Thiểm Tây.
Mấy năm sau đó, một hôm thầy viết thư bảo tôi ghé nhà ở đường Kỳ Đồng chơi. Rồi thầy mang tập Danh Từ Quan Thuế - Thuế Vụ Đối Chiếu (Anh-Việt) gởi lại tôi, giải thích rằng thầy đang thu dọn sách vở ở Sài Gòn để đem bớt một ít về Long Xuyên; cuốn này thầy trao tôi giữ thì biết đâu sẽ có ích hơn.
Về nhà, tôi giở ra xem, thấy rải rác bên lề thầy có ghi một số nhận xét bằng bút chì, rồi thầy còn cộng xem mỗi trang có bao nhiêu mục từ, cả tập sách tổng cộng được bao nhiêu.
Mở đầu thư dẫn trên, thầy viết: Tôi đã đc tập Danh từ quan thuế... in rất đẹp mà cháu đã trang trọng gởi cho tôi. Quả thật, thầy không hề nói xã giao. Một tập sách khá dày, khổ A4, cầm chẳng gọn, lại cực kỳ khô khan, vậy mà…
Thứ Ba 26-6-1979, cũng bởi đang tập đọc sách tiếng Anh viết về Trung Quốc, tôi biên thư hỏi về tài liệu mà bốn năm trước, trong thư Thứ Ba 26-8-1975, thầy bảo: Tôi chỉ có một bảng nhỏ để tra ít đa danh quan trng của T.H. (tên tỉnh, thị trấn, sông, núi lớn). Khi nào cháu muốn tra, lại nhà tôi mà tra.
Thứ Năm 02-8-1979, tôi nhận được thư thầy từ quận 3 gởi về Bình Thạnh.
01.8.79
Cháu Anh Dũng,
Tôi về Long Xuyên nghỉ từ 4.6, thư 26.6 của cháu gởi về Kỳ Đồng, ngày hôm nay lên đây, tôi mới được đọc, trả lời ngay cho cháu.
Chắc cháu mong lắm.
Tôi vẫn còn nhớ cháu. Cháu có chí và làm việc đàng hoàng.
Hiện nay cháu làm việc ở sở nào mà cần nghiên cứu các sách Anh Hán?
Những tài liệu hồi đó tôi muốn đưa cho cháu chép đó, tiếc rằng mấy năm trước tôi đã cho một ông bạn ở Hà Nội, khi ông vào đây thăm tôi. Tôi nghĩ mình đã già rồi, không còn nghiên cứu gì nữa, để cho người khác giữ, có ích hơn.
Tôi nhớ những tài liệu đó ở trong một cuốn China Yearbook in ở Đài Loan trước 1970, gồm 1 bản đồ Trung Quốc, vài ngàn địa danh (chữ Hán và phiên âm theo Anh), với một mục Who’s Who gồm khoảng 500-600 nhân danh Trung Hoa hin đi; còn nhân danh thời xưa như Lí Bạch, Tư Mã Thiên v.v… thì chỉ lác đác, ít lắm, trong mục tóm tắt lịch sử T.Q. vài chục trang. Như vậy không thấm gì đâu, nhưng cũng giúp ta được mt đôi khi.
Cháu lại chợ sách cũ ở đường Cá hấp (sau hãng Sinco – máy may – góc đường Trần Hưng Đạo và đường Calmette), tìm một vài quán sách cũ, nhờ người ta kiếm giùm cho. Tốn công vì phải chờ có khi cả năm, may ra người ta kiếm được.
Chúc cháu may mắn.
(Chữ ký)
Thầy xoay ngang lá thư (một mẩu giấy hẹp chừng non tờ A5) viết thêm hai dòng, như một tái bút:
Tôi gần 70 tuổi rồi, suy về thể chất lẫn tinh thần, lúc này chẳng viết lách gì nữa.
Một lần Thầy biên thư bảo tôi lại chơi vào buổi chiều. Đó là lần đầu tiên tôi gặp mặt thầy. Thấy tôi đeo kính, Thầy bảo có ai đó viết sách nói về chữa tật cận thị. Thế rồi vào Thứ Bảy 13-10-1979, tôi nhận được thư của thầy gởi từ Kỳ Đồng:
11.10.1979
Cháu Dũng,
Tôi đã tìm được cuốn L’art de voir của Aldous Huxley mà hôm đó tôi nói với cháu.
Huxley có một phương pháp luyện mắt để trị cận thị. Cháu muốn đọc thì lại mà lấy. Buổi chiều nào tôi cũng có nhà.
Thân ái
Nguyễn Hiến Lê
Việc dù nhỏ nhưng thầy đều luôn ân cần, chu đáo. Thư thầy viết cho tôi thường ngắn gọn. Có khi chỉ là một phần tư hay một phần tám của tờ giấy khổ A4. Viết một hoặc hai mặt. Hết chỗ thì xoay ngang viết chen vào lề. Trông giống như một memo. Nhưng khi giải đáp cho tôi những vấn đề về học thuật thì thầy không tiếc công ngồi viết tỉ mỉ. Thầy thường hoàn lại tôi thư tôi hỏi, các câu trả lời thầy viết bằng mực khác màu với tôi, bên cạnh chỗ tôi hỏi. Cụ thể mà tiện cho tôi lắm. Rồi thầy thấy cần thì biên thêm cho nửa trang A4 nữa.
Thường, ở Long Xuyên lên thầy hay gửi thư báo cho biết, dặn tôi ghé chơi buổi chiều. Chẳng hạn:
- Thư Sàin, Thứ Ba 11-11-1980:
Cháu Lê Anh Dũng,
Tôi đã nhận được từ lâu thư cháu cảm ơn tôi. Lúc này cháu học đại học sinh ngữ đấy chứ. Có nghiên cứu gì thêm không? Bác sĩ Thọ đi chưa? ([6]) Tôi còn ở Saigòn tới cuối tháng 11 tây lịch rồi lại về L.X. Chiều nào đó cháu lại chơi nói chuyện văn học.
(Chữ ký)
- Thư Kỳ Đồng, Thứ Năm 26-5-1983:
Cháu Dũng,
Tôi đã nhận được thiệp chúc Tết của cháu. Hai tháng sau mới tới! Cảm ơn cháu.
Tôi mới lên đây, còn ở đây tới 15 juin. Hôm nào lại chơi tôi, buổi chiều, tôi đưa cho cháu một cuốn sách.
Thân
(Chữ ký)
Cuối thư trên, thầy viết lại chơi tôi (thay vì lại tôi chơi), khiến tôi mỉm cười. Thư 30-8-1984 cũng vậy (xem tr. 81).
- Thứ Ba 15-11-1983, thư thầy tới Gia Định:
Kỳ Đồng 12/11/83
Cháu Lê Anh Dũng,
87/3 Đinh Tiên Hoàng, Gia Định.
Tôi đã lên, sẽ ở đây tới cuối Nov. Hôm nào cháu lại lấy bộ Muốn giỏi toán Hình học Không gian.
Thân
(Chữ ký)
- Thư Long Xuyên, Thứ Bảy 26-5-84, thầy viết trên hai mặt tờ pelure khổ A5:
Cháu Dũng thân,
(…) / Khoảng cuối tháng juin tôi mới lên được, mà còn tùy sức khỏe nữa. / Thân ái / (Chữ ký)
Vào khoảng đó hay đầu juillet cháu ghé tôi buổi chiều.
Sau này cô cũng vậy, cũng hay nhắn tôi đến như thuở thầy sanh tiền. Có cuốn sách nào của thầy mới tái bản, thỉnh thoảng cô lựa ra một hai quyển, dặn người nhà để dành cho tôi.
Biết ý thầy, đến chơi tôi không dám ngồi lâu. Có lần tôi ghé lúc thầy đang tiếp ba văn hữu cao niên ngoài Bắc vào thăm. Tôi vội xin phép về thì thầy vui vẻ giữ lại và giới thiệu: Đây là anh bạn trẻ vong niên của tôi. Làm tôi ngượng. Khách về rồi, thầy nhăn mặt: Cả ngày hôm nay ngồi tiếp khách mệt quá. Cầm lon thuốc rê cố hữu, thầy bảo tôi lên lầu, chỗ thầy làm việc. Hôm đó tôi có cảm giác thầy rất vui. Thầy nằm ở chiếc giường một, bằng gỗ đơn sơ, không nệm, kê ở một góc phòng. Góc kia là cái bàn nhỏ để ngồi viết. Mọi thứ ngăn nắp, sạch sẽ. Thầy bảo tôi kéo ghế lại bên giường ngồi cho gần, dễ nói chuyện. Thấy tôi chú ý vài món trang trí nho nhỏ trong phòng, thầy vui vẻ giải thích. Đó là những kỷ vật mà độc giả nơi xa, học trò cũ, bạn văn tặng. Ấy là lần duy nhất tôi trò chuyện rất lâu với thầy, vì khi tôi xin cáo từ thì thầy cầm lại thêm, mà liền sau đó, cơn mưa chiều khá dai dẳng lại bất chợt ập xuống thành phố.
Thư cho tôi, thỉnh thoảng thầy báo sơ cho biết về bệnh tật, giọng nhẹ nhàng:
Tôi gần 70 tuổi rồi, suy về thể chất lẫn tinh thần, lúc này chẳng viết lách gì nữa. (Thư Sài Gòn, Thứ Tư 01-8-1979)
Thời tiết mùa mưa này ở Long Xuyên (miền ngập nước) không tốt đâu. Nhà nào cũng có người đau. Tôi một tháng nay đau nhiều bệnh vặt, cứ vài ngày ăn cơm lại vài ngày ăn cháo và ngày nào cũng uống thuốc. (Thư Long Xuyên, Thứ Năm 18-8-1983)
Thứ Tư 15-02-1984, tôi viết thư hỏi thầy một số việc nhân biên khảo một quyển sách chú giải.([7]) Thư Long Xuyên, Thứ Sáu 23-3-1984, thầy trả lời hết các câu hỏi. Nhiều chỗ, thầy ghi ngay bên cạnh câu tôi hỏi: Chịu. Chịu thôi. Hoặc: Tôi không biết. Đồng ý cách tôi giải, thầy viết: Đồng ý với cháu. Hoặc: Tôi cũng nghĩ như cháu. Khi phủ nhận thì rất gọn: Không tin được, bỏ đi. Hoặc: Tôi không tin thuyết đó.
Hôm viết thư ấy, thầy không được khỏe: Tôi nửa năm nay sức suy nhiều, hay đau lưng: thận thủy và hỏa đều suy. Cháu uống toa nào trị thận thủy suy đó? Phải toa địa hoàng lục vị không? Suốt ngày tôi nằm võng. (Thư này viết trên võng đây.) Mắt lại bị cataracte: tra tự điển T.H. phải ra chỗ thật sáng và dùng loupe (…).([8]) Thế mà thầy vẫn ân cần kèm theo một tờ tờ A5, viết kín hai mặt giấy, chỉ dẫn thêm cho tôi ngoài những phần đã giải đáp.
Luận Ngữ (7:38) chép rằng Đức Khổng Tử ôn hòa mà nghiêm trang, có uy nhưng không dữ (ôn nhi lệ, uy nhi bất mãnh). Đọc câu này, tôi sực nhớ tới thầy, vì thầy nghiêm nghị mà khoan hòa. Trò chuyện với thầy tôi thường dè dặt; thế nhưng một hôm, nhân vừa đọc bản dịch bài Ngẫu Tác của một học giả ở miền Bắc (in tại Hà Nội năm 1974), tôi cao hứng nói với thầy rằng lúc dịch hai câu Ðường trung đoan tọa tịch vô ngôn / Nhàn khán Côn Luân nhất lũ yên, thì vị ấy đã hiểu sai ý thơ của Tuệ Trung Thượng Sĩ nên giải thích rằng thiền sư ngồi lặng thinh giữa nhà ở nước Nam và nhìn thấy khói của tiều phu đốt lửa tỏa trên đỉnh núi Côn Luân tận bên Trung Hoa; lẽ ra nên giảng là trong lúc nhà sư tọa thiền, trên đỉnh đầu (núi Côn Luân) có luồng khí bốc lên như một sợi khói (nhất lũ yên). Nghe tới đó, thầy cười xòa, hỏi liền: Sao cháu biết điều ấy? Cách thầy cười hôm xưa tôi nhớ hoài; thầy nào phải quá nghiêm đâu.
Khoảng cuối tháng 12-1983, xảy ra một việc mà tôi rất có lỗi với thầy. Hôm ấy, tôi được thư thầy cho biết đã lên Sài Gòn, bảo chiều đến chơi. Giữa chừng câu chuyện, thầy hỏi tôi có tin tử vi thì đưa giờ sinh, ngày sinh chính xác để thầy chấm cho lá số. Biết tôi đã có sẵn lá số, thầy tươi cười nói mau: Như thế tôi khỏi mất công chấm. Cháu về mang lại cho tôi đoán. Lúc tiễn tôi ra tận ngoài thềm hiên, thầy còn nhắc đem lá số đến gấp vì thầy sắp về Long Xuyên.
Bây giờ nhớ lại tôi vẫn tự trách, ân hận cho tính thanh niên nông nổi, cạn nghĩ. Tưởng đâu tôi không đến thì thầy bỏ qua chuyện tử vi đi (dù tôi đã ghi lại giờ và ngày sinh cho thầy trước khi về). Ngờ đâu, thư Long Xuyên, Chủ Nhật 15-01-1984, thầy viết:
Cháu Lê Anh Dũng,
Tôi về đây được trên nửa tháng. Trước khi về có ý mong cháu tới, tôi đoán lá số cho. Cháu không đem tới, thành thử tôi phải lấy.
Đọc thư và lời thầy giải lá số lòng tôi quá thẹn. Tôi nhớ chuyện cũ:
Xưa có Ngô Quý Trát đi sứ sang nước Từ, vua nước này tỏ vẻ ưa thích thanh gươm của sứ thần mà không dám mở lời. Quý Trát biết thế, định bụng hễ xong chuyến đi sứ các nước, lúc trở về sẽ ghé nước Từ và tặng gươm báu. Nào ngờ khi về thì vua nước Từ đã mất, Quý Trát bèn treo gươm ở mộ vua để giữ trọn ý định tặng gươm.
Không ai mở miệng xin mà chẳng ai hứa tặng, thế nhưng đã đến mức như vậy. Tôi giật mình sợ hãi, thầy đã nói ra lời, làm sao quên được. Tôi nghiệm ra rằng, cho dù a tăng kỳ kiếp về trước hay là a tăng kỳ kiếp sau này, dù ở Tây phương thế giới hay Đông thổ trần gian, các bậc chính nhân quân tử cũng đều có một cung cách sống mà thôi. Như thầy Hữu Tử bảo: Tín cận ư nghĩa, ngôn khả phục dã.([9])
Khi viết về Đức Khổng Tử, thầy nhận định: Học thì không biết mệt mỏi mà dạy người khác thì tận tâm tận tụy. Chính thầy cũng có đức tính đó. Thầy còn một đức tính mà nhờ gần thầy nhiều, tôi nghiệm ra được, đó là không bao giờ thầy nói điều gì bất lợi cho một người vắng mặt.([10])
Đức Khổng Tử dạy: Tri chi vi tri chi, bất tri vi bất tri, thị tri dã.([11]) Đọc sách thầy, qua thư từ với thầy, trò chuyện cùng thầy, tôi nhận thấy thầy luôn luôn trong sáng trong tư tưởng, học thuật. Cái gì biết, dù tôi hỏi ít, thầy cũng liệu theo sức của tôi mà tận tâm chỉ vẽ cặn kẽ. Cái gì không chắc, không biết thì thẳng thắn nói ngay là không biết. Cho tới khi nghỉ hưu, tiếp xúc nhiều giáo chức trong ba mươi tám năm đi dạy, tôi biết không phải nhà giáo nào cũng có được đức tính quý báu đó. Nhất là đối với học trò mình.
Tôi biết có những tác giả mà người đọc chỉ nên đứng rất xa để chiêm ngưỡng, vì họ sống không như họ viết. Đức Lão Tử dạy: Tri giả bất ngôn, ngôn giả bất tri.([12]) Với thầy, tôi tin có thể sửa lại câu nói ấy: Tri giả năng ngôn, ngôn giả năng hành.([13]) Vì quả thực, thầy biết sao thì nói đúng, viết đúng và làm đúng, sống đúng như thầy đã nói đã viết.
Đức Khổng Tử có lần than phiền: Trước kia, nghe ai nói, ta tin rằng đức hạnh của họ hợp với lời của họ, ngày nay thì ta đâm ngờ, phải quan sát xem hành động của họ có đúng với lời họ nói không.([14]) Với thầy, tôi cho rằng Đức Vạn Thế Sư Biểu không thể có chỗ hoài nghi. Phật Giáo coi trọng thân thuyết hơn khẩu thuyết. Nho Giáo đề cao tri hành hiệp nhất. Thầy viết hằng bao nghìn trang để dạy cho bao thế hệ nên người, thì đời thầy chính thực đã là một con Người với chữ N viết hoa trân trọng.
Bà Chiểu, 20-11-1993
(Xem lại bản in tháng 10-2003,
có sửa chữa và thêm vài chi tiết nhỏ nhặt.
Phú Nhuận, 21-11-2018)
HUỆ KHẢI



([1]) In tại Nxb Tổng Hợp TpHCM. Về sau, bản in 1993 được tăng bổ và tái bản nhiều lần: Nxb Văn Hóa (Hà Nội, 1995), Nxb Trẻ (2000, 2001), Nxb An Tiêm (Paris, 2003), Nxb Thanh Niên (Hà Nội, 2005), Nxb Tôn Giáo (Hà Nội, 2010, 2011), Nxb Tam Giáo Đồng Nguyên (California, 2011). Nay sách đã hết.
([2]) Nguyễn Hiến Lê, Hồi Ký. Hà Nội: Nxb Văn Học, 1993, tr. 512.
([3]) Nằm cặp theo đường Tô Hiến Thành (quận 11, Sài Gòn), trong khuôn viên Học Viện Quốc Gia Kỹ Thuật (tên gọi từ ngày 15-9-1972, thay cho tên cũ là Trung Tâm Quốc Gia Kỹ Thuật đã có từ ngày 29-6-1957).
([4]) Tôi tự đánh máy trên giấy sáp (stencils), rồi mua vài rames giấy khổ 21x27cm, mượn máy quay ronéo (hiệu Gestetner) trong văn phòng hành chánh của Ban Thương Mại in chừng hơn trăm bản, tự vô bìa, rồi đem ra nhà in bên ngoài trường thuê họ xén. Thời sinh viên, tôi bắt đầu tập “xuất bản” như thế, và được các thầy cô trong trường thương mến, khuyến khích, sẵn lòng cho tôi mượn các phương tiện ấn loát sẵn có trong văn phòng.
([5]) Từ đây trở đi tôi giữ cách ghi ngày tháng của thầy, khác với tôi.
([6]) Năm 1982 ông bà bác sĩ Nguyễn Văn Thọ mới qua Mỹ, định cư ở bang California.
([7]) Đã in: Tìm Hiểu Kinh Cúng Tứ Thời. Huế: Nxb Thuận Hóa, 1995.
([8]) cataracte: Bệnh đục thủy tinh thể.
T.H. tức là Từ Hải 辭海 (nghĩa là biển từ), tên một pho từ điển chữ Hán nổi tiếng của Trung Quốc.
loupe: Kính lúp, kính hội tụ phóng đại dùng để nhìn vật nhỏ.
([9]) Hứa điều gì hợp nghĩa thì nên thực hiện lời đã hứa. (Luận Ngữ, Học Nhi, 13)
([10]) Đây là một vị có danh tiếng trong văn giới, học giới Sài Gòn trước kia. Bởi tập tành theo đức ẩn ác dương thiện của thầy, ở đây tôi chẳng tiện kể lại cụ thể.
([11]) Biết điều gì thì nhận là biết, không biết thì nhận là không biết, như vậy là biết. (Luận Ngữ, Vi Chính, 17)
([12]) Người biết không nói, người nói không biết. (Đạo Đức Kinh, chương 56)
([13]) Người biết thì nói được; người nói được thì làm được.
([14]) Luận Ngữ, Công Dã Tràng, 9.



 Quý đạo hữu gần xa muốn nhận các kinh sách do Chương Trình Chung Tay Ấn Tống Kinh Sách Đại Đạo xuất bản, được gởi biếu qua bưu điện, xin vui lòng gởi e-mail về: daidaovanuyen@gmail.com
Và xin quý đạo hữu hoan hỷ trả giúp cước phí cho bưu điện ngay khi nhận được sách biếu.
Ban Ấn Tống trân trọng cảm ơn quý đạo hữu.