Thứ Bảy, 1 tháng 12, 2018

6. ĐỌC LẠI THƯ NGƯỜI XƯA / TẤM LÒNG MỘT NGƯỜI THẦY


Tôi bùi ngùi lần giở xấp thư cũ, giấy viết thư nhiều loại, nhiều cỡ, và còn có các phong bì kèm theo mà nhiều cái vốn được dùng lại (recycled), nghĩa là phong bì cũ của người khác gởi tới thì thầy lộn trái để dùng lần nữa. Tôi cũng bắt chước mà lộn trái phong bì cũ để gởi thầy. Đây là một kiểu tiết kiệm dường như khá phổ biến vào thời bao cấp; thỉnh thoảng thư bà con ngoài Bắc gởi vào thăm ba má tôi cũng dùng phong bì cũ lộn trái. Nhưng tôi nghĩ thầy làm thế có lẽ còn để cho khỏi khác lạ với phần đông bá tánh bấy giờ. Một phong bì đẹp, mới tinh nằm lẫn trong số bì thư thô xấu có khác chi con cừu trắng chen giữa đàn cừu đen, dễ gây chú ý không cần thiết, dù nội dung lá thư đựng bên trong rất bình thường.
Ngoài các thư đã dẫn trong bài Tấm Lòng Một Người Thầy, tôi sắp xếp lại đây một số thư thầy gởi tôi, theo thứ tự thời gian, và theo nội dung liên quan. Tôi giữ nguyên cách thầy viết ngày tháng, viết tắt, viết hoa, gạch dưới các chữ cần lưu ý, v.v… Khi cần giải thích lời thư của thầy, tôi dùng cước chú hoặc đặt ghi chú của tôi trong dấu ngoặc vuông [. . .].
Dẫn lại thư thầy viết mấy năm xưa, tôi hy vọng quý bạn ái mộ Nguyễn Hiến Lê có thêm ít nhiều dữ kiện khách quan để thấy rõ phong cách làm việc chu đáo và cẩn trọng, cảm nhận được lòng nhân hậu kín đáo cũng như đức tín nghĩa sâu dày của một bậc hiền nhân hiếm hoi giữa đời mạt pháp.
1. Thư về vài bản thảo tôi đang viết
1.1. Thứ Ba 03-6-1980, tôi viết thư hỏi thầy một số thuật ngữ hành chánh Nam Kỳ thời Pháp thuộc, vì tôi đang tập tễnh viết tiểu sử tiền khai Ngô Văn Chiêu (1878-1932), và muốn soạn bản song ngữ Việt-Anh.([1])
Hồi âm cho tôi, thầy viết:
Saigòn 10.6.80
Cháu Dũng,
Tôi đã về ở hẳn Long Xuyên từ 4/2/80, mặc dầu còn giữ hộ khẩu ở đây, mỗi năm chỉ lên Saigòn vài lần thôi vì xe cộ khó khăn lắm.
Lúc này tôi lên đây trị bệnh trĩ, trị xong rồi, ít bữa nữa tôi về L. Xuyên.
Cháu có viết thư cho tôi thì đề:
Ô. N. H. Lê
92 đường 26 tháng 3
Thị xã Long Xuyên (An Giang)
Ở Bắc và Nam, viên quan cai trị mỗi kì gọi là Résident supérieur.
Cơ quan gọi là Résidence supérieure.
Tỉnh trưởng gọi là Résident chef de province.
Cơ quan gọi là (Bureaux de la) Résidence.
Chúc cháu mạnh.
Tự học tấn tới không?
(Chữ ký)
Tôi dùng mực xanh lá cây của nhà máy Hồng Hà sản xuất ở ngoài Bắc,([2]) viết trên giấy pelure tái sinh. Thầy hoàn lại thư, dùng mực bút bi đen ghi phần trả lời đè lên câu hỏi. Chẳng hạn, tôi hỏi: Tòa Bốhồi ấy tiếng Pháp gọi là gì? Có tương đương với cơ quan hành chánh tỉnh ngày nay không? Thì thầy gạch một lằn ngắn bên lề trái thư, sát cạnh câu hỏi, và viết: Phải. Rồi thầy gạch dưới hai chữ Tòa Bố, kéo một lằn dài xuống chỗ trống cuối trang giấy, viết: Inspection. Tiện cho tôi lắm, mà cũng đỡ công thầy chép lại các câu hỏi.
Bổ túc phần đã giải đáp, khi viết riêng một tờ cỡ A5 để hồi âm, thầy còn chỉ thêm cho tôi bốn từ tiếng Pháp (Résident, Résidence, v.v…) ở cuối thư, như dẫn trên.
Trước khi giải thích mấy thuật ngữ hành chánh thời Pháp thuộc, ở lá thư dẫn trên thầy dặn dò: Cháu có viết thư cho tôi thì đề: Ô. N. H. Lê ... Tôi đoán chừng rằng thầy là người nổi tiếng, không muốn thư từ bị chú ý, nên bảo tôi viết tắt.
Bởi vậy tôi không lạ khi vào những năm 1980-1984, tôi nhận được ba, bốn phong bì ở góc người gởi, thầy chỉ ghi vỏn vẹn: Nguyễn; rồi xuống dòng ghi: Kỳ Đồng.
Thậm chí thư Long Xuyên, Thứ Năm 18-8-1983, thầy còn dặn kỹ hơn:
Thư cho tôi đề: Ông Năm – 92 T.Đ.T. L.X. và cháu đừng đề tên cháu ở ngoài bao thư thì có thể mau tới hơn. Người ta tưởng là thư gởi cho một người bình dân quê mùa nào đó, ít để ý tới.
Như để làm mẫu, chính trên phong bì đựng thư ấy (và chẳng phải là lần duy nhất) thầy chỉ ghi họ tên và địa chỉ của tôi, không ghi họ tên và địa chỉ người gởi. Con dấu của bưu điện Tân Định áp lên bì thư ấy ghi ngày 27-8-83.
Thư Long Xuyên, Chủ Nhật 15-01-1984, thầy xoay ngang tờ pelure khổ A5, viết vào lề thêm hai dòng này:
T.B. Thư cho tôi, cháu đề N. H. Lê 12/3C Kỳ Đồng (gởi về Long Xuyên hay mất lắm), rồi khi nào ở đây có người lên trên đó thì đem về cho tôi. Trễ cả tháng, nhưng không sợ mất.
1.2. Thứ Tư 15-02-1984, tôi viết thư hỏi thầy một số từ ngữ vì đang biên soạn Tìm Hiểu Kinh Cúng Tứ Thời,([3])Truyền Thống Tam Giáo Việt Nam (tập I).
Từ Long Xuyên, Thứ Sáu 23-3-1984, thầy hồi âm, trả lời hết các câu hỏi liên quan tới các câu kinh cúng tứ thời, ghi ý kiến ngay trên thư tôi và hoàn lại. Chẳng hạn:
1.2.1. Về hai câu Vô vi cư Thái Cực chi tiền / Hữu thỉ siêu quần chơn chi thượng, tôi hỏi: Hữu thỉ nên dịch ra sao?
Thầy giảng: Hữu thủy ([4]) là khi mới có vũ trụ, nói theo Lão thì từ vô sinh hữu, nói theo Dịch thì là từ Vô cực sinh Thái cực. Tôi không tin thuyết đó.
1.2.2. Về câu Lưu sa tây độ, tôi hỏi: Có người giải Lưu Sa là tên đất. Con nghĩ rằng lưu sa là sa mạc, cát bị gió cuốn đi… Vậy lưu sa tây độ là trỏ việc Lão tử đi về Tây Vức (có sách nói qua sa mạc Gobi) băng qua miền sa mạc để khuyến giáo. Không hiểu có đúng chăng?
Thầy trả lời: Có thể như vậy. Nhưng các học giả còn ngờ cái việc Lão tử có thật qua Tây Vực không.
1.2.3. Về Pháp hóa tướng tông, tôi hỏi: Pháp hóa tướng tôngthì con chịu, không giải ra! Pháp (Dharma) thì ám chỉ Đạo, nó vô vi… Phải chăng họ muốn nói Pháp (hay Đạo) nhờ có Lão tử quảng truyền mà thị hiện ra đầy đủ có tông [chỉ], có [hình] tướng để nhờ đó thiên hạ hiểu mà theo học?
Thầy trả lời: Từ Nguyên không có 相宗 [tướng tông], chắc là một danh từ về đạo. Chu.
1.2.4. Tôi hỏi: Cửu Hoàng là những ai?
Thầy giảng: Từ Nguyên: a/ 9 ông Nhân Hoàng thời 上古 [thượng cổ]; b/ Các ông Hoàng từ Thần Nông trở lên. Thần Nông là ông Hoàng cuối cùng trong Cửu Hoàng.
1.2.5. Tôi hỏi về câu Chưởng thiện quả ư thi thơ chi phố.
Thầy giảng: Trồng những cây ăn quả ngon trong vườn thi thư. Câu này dễ hiểu, có gì đâu. Khen công của Khổng tử với thi thư.
1.2.6. Về câu Chí như ý từ tường ư ngao trụ, tôi viết: Ngao trụ có người giảng là núi Ngao Trụ (!). Con hiểu ngao trụ là rùa (ba ba) chống chỏi, đỡ nâng; do điển Cộng Công đánh nhau với Chúc Dung làm sập trời, sụt đất; Nữ Oa phải rèn đá ngũ sắc vá trời, chặt bốn chân ngao chỏi đất.
Thầy đánh dấu đoạn tôi viết về Nữ Oa, và ghi bên cạnh: Tôi cho thuyết này đúng hơn.
1.2.7. Về câu Ứng mộng bảo sanh, thùy từ mẫn khổ, tôi hỏi: Có người giảng Ứng mộng bảo sanh” là do tích Khổng tử quá lo việc cứu dân, đêm nằm ngủ mộng thấy Chu công hiện về mách kế, chỉ vẽ sách lược… Con không biết sách đạo Nho quả có chuyện này không? Và có đáng tin không?
Thầy trả lời: Luận ngữ có vài chỗ bảo Khổng tử thường mộng thấy Chu công (vì ông muốn nối nghiệp Chu công, cứu vãn chế độ nhà Chu) nhưng không có chỗ nào bảo Chu công mách kế cho Khổng cả. Không tin được, bỏ đi.
1.2.8. Về câu Vương tân sách phụ, tôi hỏi: Có thể hiểu như vầy chăng: Khổng tử ở vị trí là thượng khách của vua (vương tân), đem tài ra giúp rập cho vua (sách phụ), tham mưu cho vua?
Thầy làm dấu ngay ở lề phải trọn đoạn tôi hỏi, rồi viết bên cạnh: Tôi cũng nghĩ như cháu.
Các thư gởi tôi, thầy thường cho ý kiến dứt khoát, viết ngay bên cạnh câu tôi hỏi: Chịu. Chịu thôi. Hoặc: Tôi không biết. Chấp nhận cách tôi giải, thầy viết: Đồng ý với cháu. Hoặc: Tôi cũng nghĩ như cháu. Lúc phủ nhận thì rất gọn: Không tin được, bỏ đi. Hoặc: Tôi không tin thuyết đó.
Khi trả lời cho tôi như trích dẫn trên đây, thầy đang bệnh nhiều, vậy mà thầy vẫn ân cần viết thêm một thư cho tôi, nói về bản thảo Truyền Thống Tam Giáo Việt Nam (tập I)([5]) tôi đang soạn, rồi chỉ dẫn cách tra từ điển chữ Hán. Thư thầy như sau:
Long Xuyên 23.3.84
Cháu Dũng thân,
Tôi mới nhận được thư 15.2 của cháu. Đề tài cháu viết đó lí thú đấy: Truyền thống tam giáo V.N.” Tập II có lẽ lí thú nhất: Vô số tài liệu về Phật Thầy Tây An, về các ông đạo, về Cao Đài, Hòa Hảo, đạo Hiếu Nghĩa ở Thất Sơn v.v… (Có lẽ có cả đạo Minh Sư nữa).
Nhưng tôi tiếc rằng tôi không giúp gì cháu được nhiều đâu. Thú thực tôi mù tịt về Tôn giáo, không hiểu các kinh kệ, lại không biết những từ ngữ của họ. Ngành nào cũng có từ ngữ riêng, mà cháu đã biết lịch sử T.H. là lịch sử một continent [lục địa, đại lục] trong 3.000 năm là ít, các bộ từ điển của T.H. bây giờ thiếu nhiều lắm, muốn cho đủ phải dày bằng hai bộ Encyclopédie britannique en 24 volumes! ([6]) Và muốn tra cứu cho kĩ thì phải đọc cái kho Tứ Khố toàn thư ([7]) của họ.
Về V.N., thế kỉ XX, cháu phải tìm mấy ông già có học, theo đạo Cao Đài (tôi nhớ 1937-38, có một cuốn nhan đề là Đạo giáo của một người theo Cao Đài viết, cháu thử tìm trong thư viện xem); tôi lại tiếc ông bạn của tôi, Nguyễn Văn Hầu,([8]) lúc này chưa thật bình thường, ông ấy có thể biết kha khá về các đạo ở miền Tây, có thể giúp cháu được. Địa chỉ ông ấy ở Chợ Mới (An Giang), ở đó ai cũng biết ông ấy.
Tôi nửa năm nay sức suy nhiều, hay đau lưng: thận thủy và hỏa đều suy. Cháu uống toa nào trị thận thủy suy đó? Phải toa địa hoàng lục vị không? Suốt ngày tôi nằm võng. (Thư này viết trên võng đây.) Mắt lại bị cataracte: tra tự điển T.H. phải ra chỗ thật sáng và dùng loupe,([9]) cho nên ngại lắm, và chỉ giúp cháu được tí ti thôi.
Cháu có bộ Từ Hải hoặc Từ Nguyên không? Nếu không thì phải mua. Nếu có thì cháu đã có thể tra chữ 九皇 [Cửu Hoàng] được rồi! Khi tra một chữ thì nên đọc hết cách đc và nghĩa của nó (nó có thể có nhiều cách đọc, nhiều nghĩa); khi tra 2, 3 từ đi liền nhau như Cửu Hoàng thì sau khi tra chữ [cửu] rồi, cháu lật coi ở phía dưới, tìm những chữ 2 tiếng xem có Cửu Hoàng không. Có từ ngữ 3-4 tiếng.
Cháu lại nên có cuốn Hoa Việt thông dụng tự điển của Lạc Thiện (người Hoa kiều) xuất bản ở Saigòn, 1972, do Quốc Thái ấn quán 198 Lý Thái Tổ in. Cuốn đó chỉ có khoảng 5.500 chữ thôi nhưng rất tốt, rất tiện, cháu coi thì sẽ biết.
Thân ái
(Chữ ký)
Thư này Thầy viết trên võng, dùng bút bi, đặc kín tờ A5, nét chữ nhỏ mà đẹp, dễ đọc. Trên đầu thư, ở góc lề trái cạnh dòng ngày tháng, Thầy dùng bút chì ghi chú: Thư này viết ở LX, nhờ người đem lên SG bỏ thùng thư trên đó.
Đọc thư thầy rồi, chẳng nhớ vì duyên cớ gì khiến tôi quá chậm trễ phúc đáp, quả thật rất đỗi sái quấy. Từ Long Xuyên, Thứ Hai 30-4-1984, thầy gởi tiếp một thư viết trên mẩu giấy nhỏ khoảng non nửa tờ A5 (trích):
Cháu Dũng thân,
Cách đây hơn một tháng tôi đã trả lời những câu hỏi về chữ Hán trong các sách cháu đọc về tôn giáo. Cháu đã nhận được chưa? Tôi sợ lạc thì mất công cho cháu và cả cho tôi nữa.
Bưu điện ở đâu cũng vậy làm việc lúc này lôi thôi lắm. Nếu chỉ tới trễ thì mình còn chịu được. Mất thư thì thật là từ xưa chưa từng thấy! Họ làm ăn ra sao mà mỗi ngày mỗi bết hơn! (Lại mới được biết họ đánh mất cả điện tín, cả đầu bài thi nữa!)
Mỗi lần nhớ lại lỗi này, tôi rất thẹn. May mà thầy luôn rộng lòng độ lượng.
1.3. Thư Long Xuyên, Thứ Bảy 26-5-1984, khi trả lời chỗ tôi tồn nghi về ý nghĩa chữ trường (chén uống rượu) dùng trong bài Dâng Trà khi cúng tứ thời (Đông độ thanh trà mỹ vị hương / Khấu đầu cung hiến chước hồ trường), thầy viết trên hai mặt tờ pelure khổ A5 (trích):
Cháu Dũng thân,
Về chữ [trường] đó, từ điển T.H. giải nghĩa là tên chỉ chung các đồ (chén) đựng rượu thời xưa.
Tiếng đó cổ quá rồi, tôi chỉ gặp nó mỗi một lần trong 1 bài thơ đời Đường.
Trong bài kinh của cháu (viết thời nào?) người ta không đựng rượu mà đựng trà thì cũng có thể dùng chữ đó được vì nó là thơ, cần vần. Nhưng cháu muốn tồn nghi thì cứ tồn nghi.
2. Thư về thuật ngữ triết Trung
2.1. Cuối năm 1982, tôi viết thư hỏi thầy về cách dịch một số thuật ngữ triết Trung thầy dùng trong bộ Đại Cương Triết Học Trung Quốc, hai quyển, viết chung với cụ Giản Chi (Sài Gòn: Nxb Cảo Thơm, 1965). Thầy hồi âm, dùng tờ giấy fort màu vàng chanh khổ A5, ở góc trái phía trên có in sẵn họ tên và địa chỉ nhà ở Kỳ Đồng; thầy ghi đè lên nó địa chỉ ở Long Xuyên dù viết ở Sài Gòn. Thư ấy viết kín hai mặt giấy.



Kỳ Đồng 16.1.83
Cháu Lê Anh Dũng thân,
Thư của cháu một tháng mới tới tôi. Nó đi lòng vòng: tới Kỳ Đồng, người nhà gởi theo về Long Xuyên cho tôi, tới L.X. thì tôi đã lên Saigon rồi; ở L.X. người nhà đợi có người quen đi Saigon, nhờ đem lên cho tôi, và tôi nhận nó được ở đây 2 ngày nay. Tôi ở đây đã trên nửa tháng rồi, lại sắp về L.X., trả lời ngay cho cháu; để tới L.X. rồi mới trả lời thì có khi cả thánsau cháu mới nhận được. Thư bây giờ đi kì cục lắm: lúc thì một tuần, lúc thì cả tháng, cả 2 tháng mới tới L.X.
- Trung Triết, Ấn Triết với Tây Triết khác hẳn nhau, mỗi Triết có những quan niệm, ý niệm riêng, từ ngữ riêng, không équivalent với Triết khác, nên không thể dịch được.
Vũ trụ luận đúng là cosmologie như cháu nói. Bản căn luận có sách dịch là ontologie. Đại hóa luận, Tây Triết hình như không có, tôi chưa thấy người nào dịch. Cháu muốn dịch thì cứ theo nghĩa mà dịch: Grande transformation dans l’univers.
Pháp tượng luận cũng vậy, không có équivalent trong tiếng Anh, Pháp, cũng lại cứ theo nghĩa: sự vật và hiện tượng trong vũ trụ: éléments essentiels constituant les êtres, choses et phénomènes dans l’univers.([10])
- Tôi cho luận nghĩa hơi khác quan.([11]) Quan = conception. Luận = essai, dissertation, hypothèses…
Quan niệm = chỉ đưa ra một ý kiến thôi, không nhất định nó phải đúng, mỗi người mỗi phái có một ý kiến.
Luận, cao hơn, rộng hơn, muốn tìm chân lí, tìm một luật chi phối (vũ trụ chẳng hạn).([12])
- Thế giới ngày mai và tương lai nhân loại,([13]) tôi dịch theo bản tiếng Pháp. Bản dịch của tôi để ở L.X. Cháu đã có bản tiếng Anh thì khỏi phải coi bản tôi dịch. Muốn kiếm bản tôi dịch thì lại sạp sách cũ số 72, đường Calmette rẽ vô (chợ sách cũ) nhờ người ta tìm cho, chỗ đó quen tôi.
Tôi không nhớ trong cuốn đó Russell có đề cập đến cái gọi là bổ túc Đông Tây, kiểu tổng hợp Tâm-Vật không, chỉ nhớ Russell rất khen dân tộc T.H. trọng triết lí hơn tôn giáo - (“dân tộc” đó phải hiểu là kẻ sĩ T.H. chứ không phải bình dân) - và trọng văn hơn võ. Có lẽ vì vậy mà người ta cho T.H. là bổ túc được phương Tây chăng?
- Tôi không biết người T.H. gọi lối chú thích in làm 2 hàng chữ nhỏ đó là gì. Doubled column có lẽ là do Liu-Tsun Yuan đt ra chứ không phải dch.([14])
Từ khi bác sĩ Thọ qua Pháp,([15]) cháu có được tin tức gì của ông không? Ở Paris? Vui vẻ, mạnh khỏe? Có làm nghề y sĩ nữa không?
Cũng gần Tết rồi, tôi chúc cháu mạnh khỏe, vui vẻ, biết thêm được nhiều. Tôi còn lâu mới lại lên SG.
(Chữ ký)
2.2. Thứ Ba 12-7-1983, tôi viết thư về Long Xuyên. Thứ Năm 18-8-1983, thầy hồi âm, viết hết hai mặt một tờ chiếc giấy tập vở học trò, rồi xoay ngang viết kín luôn hai bên lề. Thứ Bảy 27-8-1983, thư Long Xuyên tới Bình Thạnh (trích):
Cháu Lê Anh Dũng,
Thư 12.7.83 của cháu mất một tháng mới tới tôi (!) cùng một lúc với 6-7 thư khác. Hình như họ dồn thư lại, một tháng chỉ phát một hai lần thôi, chứ không phát hằng ngày như trước. Vì vậy tôi phải trả lời một lúc non chục bức thư.
Thời tiết mùa mưa này ở Long Xuyên (miền ngập nước) không tốt đâu. Nhà nào cũng có người đau. Tôi một tháng nay đau nhiều bệnh vặt, cứ vài ngày ăn cơm lại vài ngày ăn cháo và ngày nào cũng uống thuốc.
Tôi trả lời ngay về 7 cuốn sách cháu tìm để tham khảo: Tôi và các bạn tôi không ai có những cuốn đó đâu. May ra thì ông Nguyễn Đăng Thục có được, mà tôi chỉ biết danh chứ không tiếp xúc với ông ấy lần nào cả. Hình như lúc này ông ấy làm cho thư viện Phật học của trường Đại học Vạn Hạnh cũ (đã dẹp rồi). Thư viện đó ở đâu miền Phú Nhuận.
(…)
Pháp trị thì người Pháp đã dịch là légisme.([16]) Còn nhân trị (人治) thì chưa ai dịch. Đó cũng là một quan niệm của phương Đông: trị nước thì con người (vua, quan) quan trọng hơn là hiến pháp, pháp luật. Nhân trị cũng gần đồng nghĩa với 仁治 [nhân trị], với 王道 [vương đạo]. Vương đạo đã có người dịch là voie royale rồi, 仁治 [nhân trị] tôi cũng chưa thấy ai dịch. Cứ theo lối cấu tạo của từ légisme thì 人治 [nhân trị] có thể dịch là humanisme được, nhưng humanisme đã có nghĩa khác rồi (chủ nghĩa nhân bản) nên phải bỏ. Dịch càn nó là gouvernement par l’homme, par la vertu để đối với gouvernement par la loi (légisme) thì tạm ổn.
Trong thư dẫn trên thầy nhắc tên cụ Nguyễn Đăng Thục (1909-1999). Cụ Thục có mối giao tình nhiều năm với Hội Thánh Truyền Giáo Cao Đài. Tiền bối Bạch Tuyết, thế danh Lê Ngọc Trang (1918-1986),([17]) ở Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý Cao Đài Giáo Việt Nam lại quen biết cả cụ ông và cụ bà, do đó tôi cậy tiền bối Bạch Tuyết đưa tới nhà cụ trên đường Nguyễn Huỳnh Đức ở Phú Nhuận ([18]) giới thiệu để tôi có thể thỉnh thoảng lui tới mượn sách.
Tôi biên thư kể vắn tắt việc đến nhà cụ Thục, nói sơ qua tình trạng sức khỏe của cụ. Bởi thế, Thứ Ba 01-10-1983, từ Long Xuyên thầy hồi âm (trích):
Mừng cho cháu đã được ông Thục cho mượn 2 cuốn. Tôi không ngờ ông Thục đã rất yếu rồi. Năm nay ông bao nhiêu tuổi? Mắt thấy lờ mờ thì không đọc sách được. Học giả mà không đọc sách được thì không gì buồn bằng.
Mắt tôi năm nay cũng bắt đầu kém. Sức khỏe thì kém từ mấy năm trước rồi, bây giờ suy hơn.
Chúc cháu bình an.
(Chữ ký)
Cũng từ đó, mỗi khi tôi đến thăm thầy ở Kỳ Đồng vào buổi chiều, thầy hay hỏi thăm về cụ Thục và bác sĩ Thọ, hai học giả thầy chưa từng tiếp xúc.
3. Thư về bộ Sử Trung Quốc
3.1. Thứ Ba 12-7-1983, tôi viết thư về Long Xuyên. Thứ Bảy 27-8-1983, thư thầy hồi âm tới Bình Thạnh (trích):
Long Xuyên 18.8.83
Cháu Lê Anh Dũng,
(…)
Bộ Sử TQ của tôi là thông sử (từ thượng cổ tới giờ) như cuốn của ô. Phan Khoang. Sử TQ dài lắm 3000 năm, TQ rộng lắm bằng cả châu Âu, tín sử của họ có rất sớm từ 8 thế kỷ trước tây lịch. Như vậy mà nhét vào 500 trang như ông Ph Kh hoặc 700 trang như tôi, hoặc 1000-2000 trang như vài bộ sử cho các trường đại học TQ dùng, thì cũng chỉ là rất sơ sài; cháu không có thể dùng bộ của tôi để nghiên cứu được, may lắm là dùng được nó làm points de repère ([19]) thôi. Phải đọc các bộ chuyên đề sử chẳng hạn của Marcel Granet, Henri Maspéro thì mới hiểu thêm được vấn đề cháu muốn nghiên cứu. Tôi chưa được đọc Taoist Movement và Historical Value… Cháu kiếm được nhiều sách quí đấy.
Bộ Sử TQ của tôi, vài bạn già đọc rồi, cũng thích. Tôi gởi lên đây cho cháu. Tôi hỏi họ xem có ai muốn có 1 bản thì góp pelure và ruban với cháu, nhờ cháu đánh cho một bản.
(…)
Thân ái
(Chữ ký)
Tái bút
Tôi gởi thêm cho cháu hai tập I và II Sử TQ của tôi (tập cuối III về thời hiện đại từ cách mạng Tân Hợi 1911 tới nay, không cần thiết cho cháu, nên tôi không gởi lên, nó dày 200 trang).
Cháu lại ông Lê Ngộ Châu 160 Nguyễn Đình Chiểu mà lấy với hai cuốn Les religions chinois và Le Taoisme của H. Maspéro. Tôi đã dặn ông ấy rồi.([20])
Nếu cháu đánh máy thì sẽ đánh nhiều lắm là được mấy bản?
Cháu muốn giữ bản viết tay của tôi thì giữ, rồi đánh bù cho tôi một bản bằng pelure.
Có thể một hai người bạn của tôi cũng muốn có, cháu đánh giúp họ được không? Điều kiện ra sao, cháu cho họ biết: góp giấy pelure, carbone v.v...
3.2. Thư Long Xuyên, Thứ Ba 01-10-1983, thầy viết (trích):
Cháu Dũng,
Tôi mới được thư của cháu, mất nửa tháng, mau đấy.
(…) Chừng hai tháng nữa tôi lên.
Bộ Sử T.Q. tôi không cần gấp, mà tôi cũng không cần thêm một bản, nếu cháu muốn giữ bản của tôi thì đánh máy một bản (giấy pelure tốt) để đưa tôi; nếu không cần giữ bản của tôi thì chẳng cần phải đánh thêm.
3.3. Bấy giờ trong nước chưa có máy photocopy tân tiến. Tôi nhận đánh máy Sử Trung Quốc (tập I và II) của thầy (không đánh tập III), vừa để một vài thân hữu của thầy vừa để tôi có được bản thảo này. Trong lúc đánh máy, thỉnh thoảng tôi nhặt ra một vài lỗi nhỏ nhặt hoặc mạo muội góp ý. Tôi ghi dần các điều ấy vào từng mẩu giấy nhỏ, đợi thuận tiện thì viết thư gởi thầy, kèm theo các mẩu ghi chép đó.
Thứ Bảy 28-01-1984, trả lời những nhận xét và ý kiến của tôi về bản thảo Sử Trung Quốc, thầy viết (trích):
Những nhận xét và góp ý của cháu về bộ Sử Trung Quốc đều đúng hết.
Tôi đã sơ suất, cháu sửa giùm tôi (...). Tôi đã sửa ngay trên bản I của tôi rồi. Phải có người thân đọc thật kĩ tác phẩm của mình mới vạch lỗi cho mình được. Chính mình đọc lại thì ít khi thấy lắm; mà bạn thân đọc qua thì cũng khó nhận ra được. Công phu nhất là những chỗ cháu muốn chú thích thêm cho rõ. Đều đúng cả, thú vị nữa, tôi sẽ ghim tất cả những tờ giấy cháu viết vào bản I của tôi, chưa có thời giờ để thêm vô được.
Thầy muốn khuyến khích tôi hơn nên lại viết:
Tôi sinh sau các cụ trong Nam phong như Phan Kế Bính, Nguyễn Hữu Tiến... đọc được nhiều sách mới hơn các cụ đó, nên viết về văn học, triết học Trung Quốc kỹ hơn các cụ. Cháu lại thuộc lớp sau nữa, đọc được nhiều sách hơn nữa, có thể đi sâu vào một vài vấn đề nào đó được. Cứ mỗi đời tiến hơn đời trước một chút.
3.4. Thư Long Xuyên, Thứ Hai 30-4-1984, thầy viết trên mẩu giấy nhỏ khoảng non nửa tờ A5 (trích):
Cháu Dũng thân,
(…)
Sử Trung Quốc cháu đánh máy được bao nhiêu trang rồi? Bao giờ thì xong?
Khoảng 15.6 tôi sẽ lên trên đó 1 tháng. Chắc lúc đó xong chứ?
Chúc cháu an khang.
(Chữ ký)
Tôi đánh máy chậm vì còn phải đi dạy, và vì hay nghỉ tay, khi bản thảo cuốn hút, để đọc luôn một mạch nhiều trang.
Bản thảo (21x27cm) thầy viết bằng bút bi trên tờ pelure thứ nhất (bản chánh), bản thứ hai cũng dùng giấy pelure, bản thứ ba đặt dưới cùng là tờ duplicateur dày, ở giữa lót hai tờ giấy than. Khi viết thầy phải đè mạnh tay. Giấy không kẻ hàng mà dòng chữ luôn ngay ngắn, nét chữ sắc sảo. Các bản đồ thầy vẽ tay nét rắn rỏi và đẹp. Bản thứ ba (giấy duplicateur) thầy giao cho tôi dùng đánh máy đọc vẫn rõ. Thỉnh thoảng gặp các chữ Hán, khi đánh máy tôi phải nhắm chừng khoảng cách mà chừa chỗ trống trên giấy; đánh máy xong rồi thì dùng bút bi viết chèn chữ Hán lần lượt vào từng tờ pelure.
Thầy dùng giấy than màu xanh dương. Khi cần sửa chữa, bổ túc thì lấy bút bi viết đè lên; như thế thầy phải sửa tất cả ba lần trên ba bản thảo.
Đọc các bản thảo viết tay của thầy rất thích. Một, là vì các trang thủ bút đẹp mắt. Hai, quan trọng hơn, là qua các bản thảo ấy tôi suy ra thầy không viết nháp, cứ nghĩ xong câu văn thì viết ngay ra giấy, cho nên thỉnh thoảng lại gặp vài chữ bị gạch bỏ. Có khi là cả một đoạn ngắn. Nếu viết xong rồi mà muốn thay hay bổ túc một đoạn dài, thầy viết phần thay thế hay bổ khuyết ấy ra mẩu giấy khác rồi dán vào lề, ngang chỗ cần điều chỉnh.
Đang đánh máy mà gặp những chỗ sửa chữa trên bản thảo tôi thường dừng tay gõ phím, chú ý so sánh câu chữ thầy xóa với phần viết lại để tìm hiểu lý do. Nhờ vậy tôi nhận ra được cách thầy chọn từ, hoặc thay đổi cách diễn đạt ý tưởng. Lắm khi một chữ chưa viết trọn đủ thì thầy liền gạch bỏ, thay chữ khác liền. Tôi đoán, khi viết thầy suy nghĩ rất nhanh nên mới đổi ý nửa chừng mau như vậy.
Thư cho tôi thầy cũng hay gạch bỏ, thay chữ giống như thế. Chẳng hạn, thư Sài Gòn, Thứ Ba 26-8-1975, thầy viết: Cứ tiếp tục, sau này cháu sẽ giúp được nhiều về loại đó. Rồi thầy gạch loại, viết chệch lên trên là khu vực.
Hoặc thư Long Xuyên, Thứ Năm 18-8-1983, mở đầu đoạn thứ hai, thầy vừa viết Khí hậu thì liền gạch Khí hậu và viết luôn câu: Thời tiết mùa mưa này ở Long Xuyên (miền ngập nước) không tốt đâu. Hoặc ở đoạn khác trong thư này, thầy đang viết Đó cũng là một từ ngữ thì liền gạch từ ngữ và viết tiếp: quan niệm của phương Đông: trị nước thì con người (vua, quan) quan trọng hơn là hiến pháp, pháp luật. Hoặc ở đoạn khác nữa, cũng vẫn thư này, thầy đã viết TQ rộng lắm bằng cả châu Âu, tín sử của họ có rất sớm từ 800 năm trước tây lịch thì lại gạch 800 năm, và viết chệch lên trên đó hai chữ thế kỷ, tức sửa lại là 8 thế kỷ.
Tôi in lại đây nửa trang bản thảo Sử Trung Quốc có nhiều chỗ thầy sửa chữa. Những dòng chữ mờ mờ là bởi màu xanh dương của giấy than không thể quét (scan) rõ nét. Những dòng chữ đậm là nhờ viết bằng mực bút bi màu đen.



Tôi không có bản viết tay Sử Trung Quốc. Trên đây là một tờ rời thầy loại ra; tôi thấy hay hay nên lưu giữ bấy lâu nay.
3.5. Trả lời vài chỗ thỉnh thoảng tôi bạo gan góp ý trong lúc đang đánh máy bản thảo Sử Trung Quốc, thư Long Xuyên, Thứ Bảy 26-5-1984, thầy viết:
Cháu Dũng thân,
(…)
Lúc này sức tôi yếu nhiều (huyết áp chỉ còn 11/6), ngại không muốn làm gì cả.
Những chỗ cháu bảo nên bổ túc hay sửa, vì số trang chênh lệch nhau, nên không chắc tôi có sức sửa lại đâu, cứ dán những ghi chú của cháu vào bản thảo rồi người sau có ai đọc, sửa được thì sửa. Mệt rồi!
Bản thảo Sử Trung Quốc đánh máy xong vào đầu tháng 8-1984. Bác Lê Ngộ Châu viết thư, nhờ người mang đến nhà tôi ở Bình Thạnh. Không hiểu sao trong phong bì lại là hai mẩu giấy nhỏ, ghi cùng một ngày:
4/8/84
Thân gửi: Anh Dũng
Rất mừng đã nhận được 2 bộ (4 tập) Sử T.Q. anh đánh máy công phu quá. Cảm ơn anh rất nhiều.
Tuần tới này nếu anh ghé qua tôi được vào sáng hoặc 3 giờ chiều, để chúng ta hội ý với nhau thì hay lắm. Chúc anh vui mạnh.
(Chữ ký)
Và mẩu dưới đây có nội dung chẳng mấy khác:
4/8/84
Thân gửi: Anh Dũng
Tôi đã nhận được hai bộ (4 tập) Sử T.Q., anh đã đánh máy và đóng lại rất công phu. Cảm ơn anh rất nhiều.
Mong sẽ gặp anh để nói chuyện nhiều hơn. Nếu anh tới tôi, xin đến vào 9 giờ sáng hoặc 3 giờ chiều tôi dễ có nhà hơn.
Chúc anh vui mạnh.
(Chữ ký)
L N Châu
Từ đó bác Châu tỏ lòng mến tôi. Khi thầy Hiến Lê tạ thế rồi, những năm làm việc ở trường Đại Học Kinh Tế (gần nhà bác) tôi thường ghé chơi, thỉnh thoảng được nghe bác nhắc mấy kỷ niệm với thầy, thời bác làm bán nguyệt san Bách Khoa.
3.6. Thư Kỳ Đồng, Thứ Hai 20-8-1984, thầy nhờ cô mang tới nhà tôi ở Bình Thạnh. Thư viết:
Cháu Dũng thân,
Tôi gởi theo đây 200đ ông Lê Ngộ Châu nhờ tôi đưa cho cháu để trả tiền giấy và tiền bìa 2 bộ Sử T.Q. cháu đánh máy giùm. Năm ngoái ông ấy đã đưa 200đ, nay thấy không đủ, đưa thêm.
Ông ấy đã nhờ một người calquer những bản đồ trong bản viết tay của tôi, rồi vẽ lại làm 2 bản cho hai bộ Sử đó rồi.([21]) Đẹp lắm, cháu đánh máy rất kĩ mà đóng rất có nghệ thuật, không luộm thuộm như tôi.
Tôi đã viết thêm mươi hàng để thêm vô cuối tr. 427. Tôi gởi cháu 3 bản để dán vào 3 bộ của cháu.
(Chữ ký)
Rồi thầy xoay ngang mẩu giấy pelure nhỏ viết thư ấy, viết ba dòng chen vào lề trái, ở góc trên như sau:
Cháu cứ tính giá giấy (900 trang) với giá bìa (4 cái) mà nhận tiền, đừng để cháu thiệt, như vậy là được.
Nhờ đánh máy hai trong ba tập bản thảo Sử Trung Quốc, tôi được dịp xem kỹ thủ bản của thầy. Ngoài ra, tôi hữu duyên còn được thầy cho mượn đọc Đời Viết Văn Của Tôi, là một bản giấy pelure A4 lót giấy than, viết tay, đọc rất thích.
Thầy tặng tôi bản thảo Sử Trung Quốc (tập I và II) lót giấy than trên giấy duplicateur. Vì đã có bản đánh máy rồi nên tôi từ tạ. Thầy chẳng nói gì, nhưng không nhận hai bản đánh máy tôi biếu. Ít lâu sau thầy tặng tôi trọn bộ bản thảo Kinh Dịch (hai tập) viết tay trên giấy pelure A4, nét chữ giấy than hơi mờ nhưng vẫn đọc được. Tôi đoán là bản thứ ba.
Mỗi tập bản thảo Kinh Dịch thầy lấy tờ giấy xanh xám làm bìa, loại giấy các văn phòng hay gấp đôi để làm bìa đựng hồ sơ (dossier), nên cũng gọi là giấy dossier. Loại giấy này chẳng dày lắm, cũng không được dai bền. Rồi thầy dùi ba lỗ và khâu chỉ ôm lấy gáy, trông khá giống kiểu sách Tàu ngày xưa.
Trên bìa tập I thầy dùng bút chì đen ghi ba dòng: NGUYỄN HIẾN LÊ / KINH DỊCH / I. Trên bìa tập II cũng viết giống vậy. Riêng tập I, ở trang ruột đầu tiên (page de garde),([22]) bên dưới tên NGUYỄN HIẾN LÊ, thầy ghi ba dòng:
KINH DỊCH
ĐẠO CỦA NGƯỜI QUÂN TỬ
TỔNG HỢP TRUNG TRIẾT THỜI TIÊN TẦN
Như vậy, thầy đã sửa nhan đề. Năm 1992, sách được in lần đầu, không hiểu vì sao lại dùng năm chữ thầy gạch bỏ.
4. Thư về bộ Kinh Dịch
4.1. Thứ Ba 12-7-1983, tôi viết thư về Long Xuyên. Thứ Năm 18-8-1983 thầy hồi âm. Chín ngày sau bưu điện phát cho tôi tại Bình Thạnh. Vì đã viết hết cả hai mặt một tờ giấy chiếc cắt ra từ tập vở học trò, thầy xoay ngang tờ giấy, viết kín luôn hai bên lề như sau:
Bộ Kinh Dịch của tôi 400 trang, các bạn ấy [các bạn già] cũng thích, có người đã đánh máy 6 bản, và cho bạn hết rồi; nay lại có người nữa muốn có 1 bản, nếu cháu muốn đánh máy thì tôi cũng cho mượn. Bản thảo tôi đều để ở đây. Ngại đem lên Saigòn lắm vì nặng, mà tôi yếu rồi, để chờ cơ hội mới được. Thân ái. (Chữ ký)
4.2. Thư Long Xuyên, Thứ Bảy 01-10-1983, thầy viết (trích):
Cháu Dũng,
(…)
Tôi lại hỏi cháu tôi còn cuốn Kinh Dịch 400 trang, mấy bạn xin đánh máy để giữ lại, vì cuốn đó đầy đủ, sáng sủa nhất. Nếu cháu muốn đánh máy thì tôi cũng sẽ cho mượn.
Lúc ấy tôi đánh máy bộ Sử Trung Quốc chưa xong, nên không thể nhận lời đánh máy bộ Kinh Dịch.
Trước khi đánh máy bộ Sử, tôi cất công đi lùng được mấy rames giấy pelure tuy vẫn là thứ tái sinh, không dai lắm, nhưng được tẩy rất trắng. Mừng hơn cả là mua chợ đen được vài hộp băng mực máy đánh chữ (ribbons) mới tinh của nước ngoài và nguyên cả hộp giấy than hiệu Kores danh tiếng của nước Áo, giấy đã mỏng mà còn dùng được nhiều lần hơn hàng nội. Tất cả đều là hàng hiếm, sót lại sau năm 1975; bởi thế, giá cả không thành vấn đề.
Tôi mượn máy chữ xách tay (portable) của ba tôi, kiểu chữ elite, mỗi 2,54cm chứa được 12 ký tự (characters). Giá như có máy chữ để bàn (desktop), kiểu chữ pica, mỗi 2,54cm chứa được 10 ký tự, thì cỡ chữ to hơn, bản giấy than dễ đọc hơn. Bởi dùng kiểu chữ elite, muốn cho bản đầu tiên và các bản giấy than rõ nét, tôi phải siêng thay băng mực (ribbons) cũng như thay giấy than, và phải gõ rất mạnh tay. Càng gõ nhiều càng mau ran ngực, đau hết mấy ngón tay.
Đánh máy ra nhiều tờ thì tờ đầu tiên lại kém đẹp hơn tờ thứ hai, vì gõ mạnh bàn phím, con chữ mổ vào giấy pelure dễ hằn qua mặt sau, có khi làm thủng cả tờ giấy. Do đó, với bản thảo dày trang, khi xếp các tờ đầu tiên lại thành cuốn để đóng gáy thì các tờ cộm lên, tập giấy chỗ phồng chỗ xẹp.
4.3. Thứ Hai 30-4-1984, từ Long Xuyên thầy gởi mẩu giấy nhỏ khoảng non nửa tờ A5. Viết thư xong, thầy dán vào đó mẩu giấy pelure nhỏ hơn, đủ ghi mấy dòng bút bi đỏ:
Trên đó có bán thứ pelure nội hóa này không? Bao nhiêu một rame?
Ở đây có người muốn xin phép tôi đánh bộ Kinh Dịch làm 3 bản, mà giấy pelure ở đây đen quá.
Bấy giờ xã hội đang trong thời bao cấp. Trong ngôi trường nơi tôi dạy học ở quận Phú Nhuận, mọi công văn giấy tờ đều dùng giấy tái sinh vừa đen vừa thô ráp, lớp bột giấy thường xeo chỗ dày chỗ mỏng không đều.
Biết có người sắp đánh máy bộ Kinh Dịch, tôi viết thư ngỏ ý xin được “ké” vào đó một bản. Thầy hồi âm (trích):
Long Xuyên 26.5.84
Cháu Dũng thân,
(…)
Người mượn Kinh Dịch của tôi để đánh máy đã cho đánh non 2 tháng rồi, sắp xong 1 nửa bộ. Họ đánh 4 bản: 1 bản cho người đánh máy, 1 bản cho một người bạn của tôi, và 2 bản cho người chủ (tức người thuê đánh), tất cả 4 bản.
Không thể nhờ họ đánh thêm nữa được.
Như đã nói ở cuối mục 3.6., đầu tháng 8-1984, bộ Sử Trung Quốc tôi đánh máy xong; sau đó thầy tặng tôi một bộ Kinh Dịch (bản viết tay, giấy than, đóng thành hai tập). So với bản đánh máy, bản thảo này quý hơn biết bao! Bào đệ tôi đặt kỷ vật của thầy vào một hộp các-tông để tiện bảo quản.
5. Thư về việc khác
5.1. Ngoài kỷ vật nói ở mục 4.3. trên đây tôi còn một kỷ vật rất đặc biệt nữa, là lời thầy giải lá số tử vi của tôi vào Chủ Nhật 15-01-1984. Thầy viết cả hai mặt một tờ pelure khổ A5, rồi từ Long Xuyên gởi về Bình Thạnh cho tôi (trích):
Tử vi không đúng hẳn đâu (mà các môn khác: Tử Bình, Hà Lạc cũng vậy). Chỉ đúng về đại cương, những nét chính, độ 6 phần 10 là nhiều; còn tiểu tiết thì sai nhiều hơn.
Vì vậy tôi chỉ đoán những nét chính thôi.
Thầy dựa vào các sao để luận về tánh nết tôi, rồi viết tiếp:
Tôi không rõ tính tình cháu nên ngờ rằng như vậy không đúng.
Số phát văn cũng được mà chuyên về kĩ thuật cũng được; có phần chắc là về văn hơn. Tốt ở điểm Mệnh có Thiên Khôi, lại có Thiên Việt ở Tài Bạch chiếu về: học giỏi và ưa công trình khảo cứu. Có Văn Xương ở Quan chiếu về, nhưng thiếu Văn Khúc, nên tài hoa một chút thôi, nét đó không đáng kể. Có Tả Hữu [Tả Phù, Hữu Bật] chiếu mạng, được nhiều người giúp. Có Hồng Loan với Thiên Không, Cô Thần: ít giao du, thích ở ẩn. Có nhiều phúc tinh: Thiên Quan, Thiên Đức, Phúc Đức, Thiên Phúc: tính tình nhân từ, và có gặp tai nạn gì cũng qua được.
Thầy giải tiếp về cung phụ mẫu, cung vợ, cung con, rồi kết luận:
Tóm lại, số như vậy là khá tốt: ăn vào cách Khôi Việt, Đào Hồng [Đào Hoa, Hồng Loan], Tả Hữu, đó là cách tốt nhất của cháu.
Cách tốt thứ nhì là đại hạn (mười năm là 1 đại hạn) của cháu, liên tiếp 30 năm (ba đại hạn), gặp tam hóa liên châu (Hóa Quyền, Hóa Khoa, Hóa Lộc), như vậy là tốt một mạch từ 16 đến 45 tuổi. Hạn đầu: 16-25 tuổi, có Hóa Quyền: khá. Hiện nay cháu ở hạn giữa: có Khoa, Xương, Khúc, phát về văn, tốt nhất; hạn sau 36-45 có Hóa Lộc, Lộc Tồn, Cự Cơ, phong lưu; có Ân Quí nữa, được ân thưởng, trọng dụng, cũng rất tốt.
Trong hạn 26-35 có thể có vợ, nếu có thì vào năm Dần 1986, vì năm đó có Thiên Hỉ, Đào Hồng, Tham Lang.
Tôi gởi theo đây tr. 427 tôi mới viết lại để cháu thay vào trang 427 bộ Sử Trung Quốc.
Chúc cháu sang năm gặp nhiều may mắn: sang năm tốt đấy.
Hồi hai mươi tuổi, nhân lúc bị “thất học” hơn một năm rưỡi, tôi tới đường Cá Hấp mua một ít sách tử vi về tìm hiểu; nhờ vậy, đọc thư thầy luận giải lá số tử vi, hầu như tên các sao đều nói tắt cho gọn mà tôi không bỡ ngỡ. Tử vi là một trong mấy món tôi sớm bỏ dở.
5.2. Thầy có một bạn văn cao niên, ở trong số ít người có thể ghé Kỳ Đồng không cần hẹn trước. Bấy giờ dù đang bận đọc sách hay ngồi viết, thầy cũng bỏ hết qua một bên để tiếp bạn. Thư Kỳ Đồng, Thứ Bảy 25-8-1984, thầy bảo:
Cháu Dũng thân,
Ông ___ 83 tuổi rồi mà vẫn mạnh, viết vẫn hăng. Ông ấy hết giấy pelure rồi (ông ấy đánh máy chứ không viết tay như tôi), nhờ cháu mua giùm cho 2 rames pelure thứ trắng, mỏng 120-130đ (giá có tăng thì cũng cứ mua).
Mua được rồi, cháu đem lại ông Lê Ngộ Châu, ông Châu sẽ trả tiền cháu, rồi đưa ông ___ , ông ___ sẽ hoàn tiền lại ông Châu.
Thân ái / (Chữ ký)
Tôi có đọc sách của cụ ấy, một học giả nổi tiếng, nhờ vậy biết được ít nhiều sử liệu về Sài Gòn thời Pháp thuộc, có ích cho tôi soạn cuốn Lịch Sử Đạo Cao Đài Thời Kỳ Tiềm Ẩn (1920-1926).([23]) Vốn thích sách cụ viết, tôi sốt sắng làm giúp chút việc nhỏ nhặt theo đúng lời thầy dặn.
5.3. Nào ngờ thư Kỳ Đồng, Thứ Năm 30-8-1984, thầy cho biết:
Cháu Anh Dũng thân,
Hôm qua ông Lê Ngộ Châu lại chơi tôi cho hay cháu đã mua cho ông ___ 2 rames giấy, nhưng ông ___ cũng đã mua trước rồi 3 rames lận! Và cháu đành phải trả lại người bán giấy. May mà là chỗ quen, họ không buồn.
Sáng hôm nay ông ___ lại cho tôi hay đã mua 3 rames giấy rồi, và hỏi tôi cháu đã mua 2 rames chưa, nếu mua rồi thì ông ấy sẽ lấy nữa. Tôi bảo cháu đã trả người bán giấy rồi. Ông ấy hơi ân hận đã làm mất thì giờ của cháu, gởi tôi lời xin lỗi cháu.
83 tuổi, hoặc nóng tính vội mua, hoặc quên mất rằng đã nhờ cháu mua. Tôi may mà chưa đến nỗi như vậy, rán giữ lời hứa, lời nhờ, không để phiền cho người khác. Cháu đừng phiền nhé. Đây cũng là một bài học nữa cho tôi: Đừng vội tin người.
Thân
(Chữ ký)
Tôi thật sự chẳng phiền lòng gì chuyện cỏn con ấy, nhưng sự việc này khiến tôi càng kính trọng thầy nhiều hơn. Qua lời thư, tôi cảm nhận được lòng thầy áy náy vì làm tôi mất công vô ích.
Lần duy nhất tôi gặp vị lão trượng ngoài bát tuần là buổi sáng đưa linh cữu thầy đi Thủ Đức hỏa táng. Tôi bước bên cạnh cụ, chẳng hé răng về vụ mua giấy bốn tháng trước. Thấy tôi chào hỏi lễ phép, mặt còn trẻ mà đầu sớm bạc nhiều, cụ ân cần hỏi thăm danh tánh và tuổi, có liên hệ thế nào với thầy mà đi đưa đám. Giọng cụ rất tình cảm. Trên đường đi có một cái rãnh hẹp chắn ngang, tôi chưa kịp nhảy qua thì cụ tay vẫn cầm ba-toong, co chân phóng sang bờ bên kia rất gọn. Râu tóc bạc phơ, da mặt hồng hào, cụ trông đẹp lắm.
*
Tại Diêu Trì Bửu Điện (thánh thất Bình Hòa), ngày 28-8 Đinh Mùi (Chủ Nhật 01-10-1967), Đức Diêu Trì Kim Mẫu Vô Cực Từ Tôn giáng cơ dạy môn sanh Cao Đài:
Một lần nữa, Mẹ lại nhắc với các con, không ai đặt tất cả ngọc trai trên thế giới này vào một xâu chuỗi bao giờ, cũng như không ai nạm tất cả kim cương trên thế giới này vào một chiếc nhẫn bao giờ. 
Tôi vin vào lời Mẹ để được an ủi với những vụng về của bản thân, bởi tự biết không thể trong một bài viết, thậm chí là một tập sách, đủ sức trình bày hết được, nói trọn vẹn được tất cả những đức tánh cao quý của thầy Nguyễn Hiến Lê.
Nhiêu Lộc, 23-11-2018
HUỆ KHẢI



([1]) Đã in: Ngô Văn Chiêu − Người Môn Đệ Cao Đài Đầu Tiên / Ngô Văn Chiêu − the First Caodai Disciple. Hà Nội: Nxb Tôn Giáo, 2008, 2009, 2012.
([2]) Là văn phòng phẩm mà trường tôi đang dạy phát cho giáo viên.
([3]) Đã in tại Nxb Thuận Hóa (Huế: 1995).
([4]) Chữ có hai cách đọc: thủy, thỉ.
([5]) Bản thảo Truyền Thống Tam Giáo Việt Nam (tập I) đã in với nhan đề Con Đường Tam Giáo Việt Nam Từ Khởi Nguyên Tới Thế Kỷ XIX (Nxb Tổng Hợp TpHCM, 1994). Thay vì soạn tập II, tôi viết lại Con Đường Tam Giáo Việt Nam thành Tam Giáo Việt Nam - Tiền Đề Tư Tưởng Mở Đạo Cao Đài / The Three Teachings of Vietnam as an Ideological Precondition for the Foundation of Caodaism. Hà Nội: Nxb Tôn Giáo, 2010, 2013; và California: Nxb Tam Giáo Đồng Nguyên, 2010. (Sách song ngữ Việt-Anh.)
([6]) Bách Khoa Toàn Thư Anh, hai mươi bốn cuốn.
([7]) Tứ Khố Toàn Thư 四庫全書 là bộ bách khoa cổ xưa danh tiếng của Trung Quốc, do hơn ba trăm sáu mươi học giả biên soạn từ năm 1773 đến năm 1782, theo lịnh vua Càn Long (nhà Thanh).
([8]) Về nhà văn Nguyễn Văn Hầu (1922-1995), xem: Huệ Khải, Hành Trạng Tiền Khai Lê Văn Trung (1876-1934). Hà Nội: Nxb Hồng Đức, 2017, tr. 92-93.
([9]) cataracte: Bệnh đục thủy tinh thể.
T.H. tức là Từ Hải 辭海 (nghĩa là biển từ), tên một pho từ điển chữ Hán nổi tiếng của Trung Quốc.
loupe: Kính lúp, kính hội tụ phóng đại dùng để nhìn vật nhỏ.
([10]) Sau này, khi soạn các bản tiếng Anh về lịch sử và giáo lý đạo Cao Đài, tôi áp dụng lời khuyên của thầy: Hễ tiếng Anh không có sẵn từ tương đương, hoặc có người dịch rồi mà tôi không ưng, thì tôi cứ theo nghĩa mà dịch.
([11]) Nhiều sách thường viết là vũ trụ quan, nhân sinh quan mà trong bộ sách triết Trung thì thầy viết là vũ trụ luận, nhân sinh luận, nên tôi viết thư hỏi.
([12]) Những năm 1980, sinh hoạt ở Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý Cao Đài Giáo Việt Nam, khi bắt đầu khai thác một số thánh giáo dạy về nhân bản và từ cách thầy giảng chữ luận như dẫn trên, tôi mạnh dạn gọi là Nhân Bản Luận Cao Đài (Caodai Humanism), một thuật ngữ chưa thấy dùng trong thánh giáo.
([13]) Bản dịch in ở Sài Gòn năm 1971. Nguyên tác của Bertrand Russell (1872-1970), giải Nobel Văn Chương 1950.
([14]) Được thầy Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ cho mượn, tôi đã chép lại trọn một bài nghiên cứu về lịch sử kết tập Đạo Tạng của giáo sư Liu-Tsun Yuan, viết bằng tiếng Anh. Tôi không hiểu doubled column trong kinh sách chữ Hán gọi là gì nên hỏi thầy Hiến Lê.
([15]) Vì trong thư tôi nhắc tới thầy Nhân Tử nên thầy Hiến Lê hỏi thăm. Thật ra thầy cô Nguyễn Văn Thọ định cư ở bang California (Mỹ) từ năm 1982.
([16]) Trong thư Bình Thạnh ngày 12-7-1983 tôi hỏi về hai thuật ngữ pháp trị nhân trị.
([17]) Tiền bối Bạch Tuyết đắc quả Quán Pháp Chơn Tiên (1986).
([18]) Theo Nguyễn Đình Tư: Từ ngày 04-4-1985 đổi tên là đường Huỳnh Văn Bánh.
([19]) points de repère: Các điểm mốc.
([20]) Phần tái bút này thầy viết thêm trên tờ pelure cắt đôi, nên lặp lại lời dặn dò đã ghi trên tờ giấy khác: Tôi đã gởi ông Lê Ngộ Châu - báo Bách Khoa cũ - 160 Nguyễn Đình Chiểu, 2 cuốn Les religions chinois và Le Taoisme của H. Maspéro. Cháu đem thư này lại, khoảng 9 giờ sáng hoặc 15 giờ chiều, ông ấy đưa cho. Do nhân duyên này tôi gặp bác Lê Ngộ Châu lần đầu tiên.
([21]) Tôi mắt kém, có một số bản đồ khá tỉ mỉ, tôi ngại quá nên xin thầy tạm chừa lại. Tôi chỉ “can” theo các bản đồ nét vẽ đơn giản.
([22]) Nhà in thường gọi là tờ gác. Qua tập II tờ gác chỉ là một tờ pelure để trống; tờ tiếp theo là quẻ 21: Hỏa Lôi Phệ Hạp.
([23]) Đã in tại Nxb Thuận Hóa (Huế, 1996); sau này sửa thành Lược Sử Đạo Cao Đài: Thời Tiềm Ẩn 1920-1926 / A Concise Caodai History: The Earliest Beginnings 1920-1926. Hà Nội: Nxb Hồng Đức, 2017. (Sách song ngữ Việt-Anh.)



 Quý đạo hữu gần xa muốn nhận các kinh sách do Chương Trình Chung Tay Ấn Tống Kinh Sách Đại Đạo xuất bản, được gởi biếu qua bưu điện, xin vui lòng gởi e-mail về: daidaovanuyen@gmail.com
Và xin quý đạo hữu hoan hỷ trả giúp cước phí cho bưu điện ngay khi nhận được sách biếu.
Ban Ấn Tống trân trọng cảm ơn quý đạo hữu.