Thứ Năm, 17 tháng 1, 2019

2k. MỤC TỬ / SƠ KHẢO THUẬT NGỮ ĐẠO CHÚA TRONG ĐẠO CAO ĐÀI


SƠ KHẢO MỘT SỐ THUẬT NGỮ ĐẠO CHÚA
TRONG ĐẠO CAO ĐÀI: MỤC TỬ

15. MỤC TỬ - shepherd (牧子: mục tử)
Bà Huyện Thanh Quan, tức Nguyễn Thị Hinh (1805-1848), nhân cảnh chiều hôm nhớ nhà có làm bài thơ thất ngôn bát cú với cặp thực:
Gác mái ngư ông về viễn phố
Gõ sừng mc tử lại cô thôn.
Mục tử là người chăn gia súc, trong câu thơ của nữ sĩ phường Nghi Tàm (Hà Nội), đó hẳn là kẻ chăn trâu.
Mục (chăn nuôi; herding livestock) gồm bộ ngưu (bò) kèm chữ phộc (đánh khẽ). Chữ phộc gợi cho thấy hình ảnh người chăn nuôi thường cầm theo cây gậy hoặc thanh roi để lùa gia súc ra đồng hay về chuồng, để đánh vào mình con vật nhằm bắt nó tuân lệnh mình mà đi theo đàn, hoặc để xua đuổi những con vật khác đang léo hánh tới đàn gia súc của mình.
Trong tiếng Anh, mục tử là shepherd, gồm chữ sheep (cừu, chiên) ghép với herd (bầy, đàn). Như vậy, ở phương Tây, mục tử thường là người chăn cừu (chiên); ngoài gậy, họ còn có còi (sáo tử 哨子; whistle) để gọi những con chó (sheepdogs) đi theo giúp họ canh giữ đàn cừu.
Trong chữ Nho, mục không chỉ có nghĩa là chăn nuôi. Nó còn có nghĩa là người đứng đầu (chủ trì) một công việc. Trong Lễ Ký, thiên (chương) Nguyệt Lệnh gọi viên quan trông coi tàu thuyền (chu ) là chu mục. Ngoài ra, mục còn là người có trách nhiệm chăn dân, khi trông coi một châu thì gọi là châu mục. (Trước Công Nguyên, triều đình nhà Chu quy định cứ 2.500 nhà thì hình thành một châu.)
 Đáng chú ý thêm, mục còn có nghĩa là nuôi dưỡng (nourishing) tánh tình, tâm hồn hay đức độ. Bởi thế, trong Kinh Dịch, Tượng Truyện quẻ Khiêm (khiêm tốn, khiêm cung) có câu: Khiêm khiêm quân tử, ty dĩ tự mục dã. 謙謙君 , 卑以自牧也. James Legge (1815-1897) dịch câu này rất hay: The superior man who adds humility to humility is one who nourishes his (virtue) in lowliness. (Bậc quân tử đã khiêm tốn rồi mà lại còn khiêm tốn thêm nữa, đó là người nuôi dưỡng đức độ của mình bằng sự khiêm hạ, nhún nhường.)
A. Khi lãnh hội ý nghĩa chữ mục như nói trên, chúng ta hiểu rõ thêm lời Đức Giêsu nói về chính Ngài như thế này:
Tôi chính là Mc Tử nhân lành. Mục Tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đàn chiên. (Gioan 10:11)
Tôi chính là là Mc Tử nhân lành. Tôi biết chiên của tôi, và chiên của tôi biết tôi, như Chúa Cha biết tôi, và tôi biết Chúa Cha, và tôi hy sinh mạng sống mình cho đàn chiên. (Gioan 10:14-15)


B. Tuy chưa thấy thánh giáo Cao Đài dùng thuật ngữ mục tử như Kinh Thánh, nhưng những thuật ngữ liên quan tới mục tử như CHUỒNG CHIÊN, ĐÀN CHIÊN. NGƯỜI CHĂN CHIÊN, NGƯỜI CHỦ CHĂN, CÒI, GẬY của chủ chăn được thánh giáo dùng rất nhiều những khi nói tới người thọ ơn Trời (Thiên ân) đứng ra gánh vác sứ mạng giáo hóa dân chúng tu hành. Thánh giáo Cao Đài gọi các vị ấy là những người hướng đạo.
Thuật ngữ hướng đạo trong thánh giáo Cao Đài hoàn toàn khác nghĩa hai chữ hướng đạo trong tên gọi “hướng đạo sinh” (scouts).([1])
Hướng là hướng dẫn, dẫn dắt (guiding); đạo cũng là dẫn dắt, chỉ lối (conducting, directing, guiding, leading). Coi như hai chữ hướng đạo đồng nghĩa.([2])
Trở lại với các thuật ngữ CHIÊN, CÒI, GẬY, thánh giáo Cao Đài nhiều lần dùng các từ này.
B.1. Tại thánh thất Thái Hòa, ngày 06-5 Ất Mùi (Thứ Bảy 25-6-1955), Đức Trần Hưng Đạo dạy:
Chỉnh lập ngôi Thiên phong hành đạo
Đủ giới quy thánh giáo chỉ bày
Tay đưa dẫn bước lạc loài
Còi vang sau trước chung vai góp phần
Gậy nương đi cứu dân cứu nước
Tiền đồ còn những bước trở ngăn…
(TTTH 2017, tr. 225a)
B.2. Tại thánh thất Thái Hòa, ngày 01-7 Ất Mùi (Thứ Năm 18-8-1955), Đức Trần Hưng Đạo dạy người hướng đạo có trách nhiệm làm phước thiện hãy đánh trống thức tỉnh (giác mê) người đời và thổi còi gọi họ bước theo mình đi vào cửa đạo tu hành:
Ban Phước Thiện có sẵn nên đánh trống túc còi, mau kêu réo mười phương đi vào cửa đạo. (TTTH 2014, tr. 59)
B.3. Tại thánh thất Thái Hòa, ngày 10-7 Ất Mùi (Thứ Bảy 27-8-1955), Đức Bảo Thọ Thánh Nương dạy về tình trạng thiếu người cáng đáng việc dẫn dắt tín đồ mặc dù Thầy (Đức Chí Tôn) có sẵn còi và gậy chờ ban trao người thọ sứ mạng:
Còi gậy có Thầy cho điều độ
Bước chông gai hoạn lộ thiếu người
Khi buồn mấy kẻ muốn cười
Khi vui ai được làm người tự nhiên.
(TTTH 2017, tr. 241a)
B.4. Phước Thiện là một trong bốn Cơ Quan của Hội Thánh Truyền Giáo Cao Đài. Tại thánh thất Thái Hòa, ngày 10-7 Ất Mùi (Thứ Bảy 27-8-1955), Đức Chơn Nhơn Huỳnh Ngọc Trác dạy rằng những vị hướng đạo đang làm phước thiện (giúp khó trợ nghèo) tức là đang chìa gậy pháp (dharma staff) ra cho những người cơ nhỡ có chỗ bấu víu:
Gậy phép là Phước Thiện, kẻ yếu đuối vịn nương. (TTTH 2017, tr. 241a)
B.5. Tại thánh thất Thái Hòa, ngày 02-9 Ất Mùi (Thứ Hai 17-10-1955), Đức Quan Thánh Đế Quân khuyên tín đồ hãy lóng tai nghe tiếng còi của những bậc hướng đạo lãnh mệnh Trời hoằng giáo độ nhân mà Ngài gọi là các bậc Thiên quân:
Niệm câu danh hiệu, lóng còi Thiên quân. (TTTH 2017, tr. 268a)
B.6. Tại thánh thất Thái Hòa, ngày 13-9 Ất Mùi (Thứ Sáu 28-10-1955), Đức Quan Âm Bồ Tát giục giã bá tánh hãy lóng tai nghe tiếng trống thức tỉnh và nghe theo tiếng còi của người hướng đạo mà quay về với Đạo, tìm đường tu hành ngõ hầu thoát khỏi tai ách:
Nền đạo được hoằng dương, pháp môn được trao tặng, tiếng trống giọng còi inh ỏi, mau mau tỉnh thức lên đường, lánh vào cảnh Thánh nhà Tiên mà tránh tai tránh nạn. (TTTH 2017, tr. 269a)
B.7. Tại thánh thất Thái Hòa, ngày 07-10 Ất Mùi (Chủ Nhật 20-11-1955), Đức Hưng Đạo Đại Vương dạy rằng Đạo đã mở tại Việt Nam (phương Đông); chúng sanh hãy xét lòng mình, lắng nghe tiếng còi của người hướng đạo mà tìm đường tu hành, sớm tối siêng chăm:
Phương Đông vận tốt sáng soi
Soi lòng mà lóng giọng còi túc lên
Lòng thành sớm tối đừng quên
Đừng quên tràng hạt một bên thân mình.
(TTTH 2017, tr. 289a)
B.8. Tại văn phòng Tỉnh Đạo Quảng Nam (Tam Kỳ, Quảng Nam), ngày 27-01 Bính Thân (Thứ Sáu 09-3-1956), Đức Cái Thiên Cổ Phật (Quan Thánh Đế Quân) dạy người hướng đạo:
Ngày mai được mấy ai sáng suốt
Túc giọng còi giơ đuốc đi đầu
(TTTH 2017, tr. 332a)
B.9. Tại thánh thất Trung Thành, ngày 28-01 Bính Thân (Thứ Bảy 10-3-1956), Đức Vô Danh Tiên Trưởng dạy về nhiệm vụ của người có Thánh Linh là:
(Đ)ể lo thi hành nhiệm vụ của Thầy, để giữ thánh địa thánh tâm, để chờ một ngày đem lại chung một chuồng chiên, không còn để lẻ tẻ trên núi trong rừng mà sói đám hùm bầy tính lăm le chụp bắt. Vì vậy mà giọng còi đã túc, gậy phép đã quơ, mỗi nhóm mỗi bầy mau gom đem về một. (TTTH 2017, tr. 339a)
B.10. Tại thánh thất Minh Trung, ngày 23-3 Đinh Dậu (Thứ Tư 22-4-1957), Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế dạy rằng nếu người giữ chuồng chiên thiếu tâm đức, đạo hạnh thì đáng lo hơn là chuồng ít chiên:
Thương cho các con là đám chiên mt chuồng mà chia ra nhiều khối. Các con buồn vì chuồng còn số ít, bị Thầy quở trách. Các con lo vì biết đâu ngày mai còn mất mát thêm, thấy chuồng khác càng ngày càng đông, chuồng ta càng ngày càng ít. Chuồng của các con đây là chuồng chính mình Thầy đã giao cho coi ngó, nhưng ít hay đông, Thầy không lo, mà lo cho các con thiếu phần tâm đức đạo hạnh. (TTTH 2014, tr. 34-35)
B.11. Tại Trung Hưng Bửu Tòa, ngày 02-5 Đinh Dậu (Thứ Năm 30-5-1957), Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế nhắc tới những người hướng đạo sau khi được ơn Trời ban trao còi và gậy để dẫn dắt tín chúng, đạo đồ thì lại lạm dụng ơn phước thiêng liêng ấy:
(N)hưng đến khi có còi trao gậy phó thì mặc ý tung hoành, làm cho danh Đạo mờ lu, pháp quyền mất linh mất hiệu. (TTTH 2017, tr. 472a)
B.12. Tại Trung Hưng Bửu Tòa, ngày 02-5 Đinh Dậu (Thứ Năm 30-5-1957), nói tới những vị hướng đạo lạm dụng còi và gậy, Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế dạy:
Dưới còi, gậy có một nhóm chiên tự ý bán buôn, làm ơn làm nghĩa, quên từ bi theo sứ mạng. (TTTH 2017, tr. 472a)
B.13. Tại Trung Hưng Bửu Tòa, ngày 01-6 Đinh Dậu (Thứ Sáu 28-6-1957), Đức Thái Bạch Kim Tinh dạy:
Nên Thầy chiếu Thiên thơ xót động lòng thương, trao con gậy pháp vào tay để người nhờ đó mà nương, vững lòng giúp cho sức yếu. (TTTH 2017, tr. 477b)
B.14. Tại Trung Hưng Bửu Tòa, ngày 14-6 Đinh Dậu (Thứ Năm 11-7-1957), Đức Ngô Cao Tiên (Ngô Minh Chiêu, Ngô Văn Chiêu) dạy về trách nhiệm của vị đầu họ đạo (chủ chăn) đối với tín hữu trong họ đạo (đàn chiên):
Nên các chuồng chiên đã giao cho người chăn giữ [là đầu họ đạo], không nên nhốt mãi trong tù, bỏ tù phạt đói chúng nó hoặc thả đi rong cương không đi theo coi chừng chăm sóc hướng dẫn nơi ăn chỗ núp; cũng như các con chiên bị bệnh không đi ăn được mà không cỏ nuôi thân nhiều con bị chốc ghẻ lở lói không kiếm thuốc đắp dặt cho lành; cũng như đám chiên nhơ bẩn bùn lầy không tắm rửa thì nào khác chi đạo hữu trong họ đạo nhiều kẻ nhơ bẩn, phạm phải quy giới đạo pháp mà không làm các pháp trên để cứu độ về phần hồn cũng như đời sống. (TTTH 2014, tr. 68)
B.15. Tại Trung Hưng Bửu Tòa, ngày 24-01 Mậu Tuất (Thứ Năm 13-3-1958), khi nhắc tới những người hướng đạo không biết dùng còi và gậy nên không làm tròn trọng trách của vị chủ chăn, Đức Chơn Khai Đạo Nhơn dạy:
Chư Thiên phong chức sắc là vai lãnh đạo cho mỗi nhóm mỗi đoàn. Thế mà còi gậy có nơi tay, còi cũng không biết túc hồi nào, gậy cũng không biết quơ hồi nào là phải. Đàn chiên mặc sức lội rừng băng thác, con đông con tây. Chủ chăn đứng dòm trời ngó đất. Chủ chăn, con chiên chẳng được gần nhau, tình trạng nội bộ ta là thế. (TTTH 2014, tr. 111)
Sau đó, Đức Chơn Khai Đạo Nhơn nói rõ nguyên do của tình trạng yếu kém ấy:
Trong hàng ngũ hướng đạo các cấp chưa được huấn luyện phương pháp chăn giữ đàn chiên. (TTTH 2014, tr. 111)
B.16. Tại văn phòng Tỉnh Đạo Phú Yên, ngày 28-3 Mậu Tuất (Thứ Sáu 16-5-1958), Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế dạy rằng khi người hướng đạo được ban trao quyền pháp thì đó là cây gậy để người ấy được thêm sức mà hành đạo giúp đời:
Quyền pháp là cây gậy để thêm sức cho các con. (TTTH 2017, tr. 532a)
B.17. Tại thánh thất Hội An, ngày 28-7 Mậu Tuất (Thứ Năm 11-9-1958), Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế than:
Thầy rất đau khổ một điều: Thầy trao cho mỗi con cái gậy để chống nương trên đường gai dốc, không ngờ các con sẵn gậy rồi đánh đập nhau cho tan vỡ khối thân hòa. (TTTH 2017, tr. 587b)
B.18. Tại Trung Hưng Bửu Tòa, ngày 16-11 Mậu Tuất (Thứ Sáu 26-12-1958), Đức Quan Âm Bồ Tát giục giã các vị hướng đạo làm sứ vụ phổ tế (phổ thông, truyền bá giáo lý) hãy dùng còi và gậy như sau:
Phổ Tế đâu? Làm gì mà chưa xoa dịu nỗi đau thương của đời. Đây đường tối tăm, đuốc đèn chong dậy! Đây đương lầm lũi tiếng còi cứu thế túc mau! Đây bị quỷ chước dỗ dành, gậy pháp tung ra ngăn bọn mỵ! (TTTH 2017, tr. 632a)
B.19. Tại nhà tu Phước Huệ Đàn, ngày 08-11 Kỷ Hợi (Thứ Hai 07-12-1959), cảnh giới về sự trái ngược giữa tín hữu ngoan đạo (chiên ngoan ngoãn hiền lành) mà người hướng đạo thì quá kém đạo đức (kẻ chăn chiên hung hăng táo bạo), Đức Ngô Đại Tiên (Ngô Văn Chiêu, Ngô Minh Chiêu) dạy:
Ngày mai đây Thầy sẽ dẫn các chuồng chiên lẻ tẻ về một, trao cho các hiền đồ còi, gậy hầu được trông nom. Nhưng chiên được ngoan ngoãn hiền lành, trái lại kẻ chăn chiên lại hung hăng táo bạo. Chiên mỗi đàn đã giao cho người chăn giữ, nhưng giữa nhóm người chăn chiên lại giành nhau ở cùng bầy nầy qua bầy nọ, làm cho rối loạn trật tự. (TTTH 2017, tr. 720b)
B.20. Tại thánh tịnh Ngọc Minh Đài, ngày 04-3 Quý Mão (Thứ Năm 28-3-1963), Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế dạy rằng những người chăn chiên kém đạo hạnh là làm hại cho đạo:
Đáng lẽ các con phải sớm biết quây quần nhau lại để chăn giữ đàn chiên cho Thầy và để xương minh chánh pháp mới phải; trái lại, các con vì chút vọng tâm tự ái, thiên kiến cá nhân, gây nên nội bộ bất hòa, lần đến chia rẽ làm cho bổn đạo hoang mang, cơ đạo đình trệ thì dù các con có thành tâm thiện ý vì Đạo vì Thầy đi nữa, cũng vấp phạm phải điều mà Thầy không muốn. (TTTH 2017, tr. 832b)
B.21. Tại Trung Hưng Bửu Tòa, ngày 09-01 Giáp Dần (Thứ Năm 31-01-1974), Đức Trần Hưng Đạo dạy rằng khi người hướng đạo thanh cao, được tín hữu kính phục và tín nhiệm, thì một lời nói của vị hướng đạo sẽ là giọng còi dẫn dắt cả đàn chiên, tức là nhất hô bá ứng:
Bởi người hướng đạo thanh cao
Ai nào chẳng phục, ai nào chẳng tin
Một câu xướng, muôn nghìn câu họa
Một gương lành tất cả đều soi
Đàn chiên nghe túc giọng còi
Cùng nhau tụ tập chờ coi lịnh truyền.
(TTTH 2017, tr. 896b)
Cùng đàn cơ hôm ấy, Đức Thánh Trần dạy thêm về người hướng đạo đã được thọ ơn Trời (Thiên ân) mà chưa tỏ ra xứng đáng với sứ vụ, thì hậu quả là:
Kẻ lãnh tụ Thiên ân thiếu đức
Bởi rẽ chia, chấp nhứt, hẹp hòi
Nài mà không khiến nổi voi
Đàn chiên chẳng nể gậy còi người chăn.
(TTTH 2017, tr. 897b)
16. NGƯỜI CHĂN CHIÊN - shepherd (牧人: mục nhân) w Xem 15. MỤC TỬ.
17. NGƯỜI CHỦ CHĂN - pastor (牧者: mục giả) w Xem 15. MỤC TỬ.




([1]) Phong trào Scouting ra đời ở Anh năm 1907 do sáng kiến của Robert Baden-Powell (1857-1941). Thành viên nam của phong trào là boy scouts, người Hoa dịch là đồng tử quân 童子軍 (người lính trẻ nhỏ). Thành viên nữ là girl scouts, người Hoa dịch là nữ đồng tử quân 女童子軍. Khoảng tháng 9-1930, phong trào được quảng bá tại Việt Nam, chủ yếu ở miền Bắc; một trong những vị có công khai sáng là Hoàng Đạo Thúy (1900-1994). Thoạt đầu người Việt mượn cách dịch của người Hoa, cũng gọi scouts là đồng tử quân. Năm 1933, Hoàng Đạo Thúy bỏ cách gọi đó, thay thế bằng hướng đạo sinh. (Huệ Khải, Gió Bốn Phương, in trong Đạo Uyển Xuân 2018. Hà Nội: Nxb Hồng Đức, tr. 138-139.)
([2]) Chữ đạo này không viết hoa, khác với chữ Đạo luôn viết hoa mà Đức Lão Tử dùng ở đầu bộ Đạo Đức Kinh, với câu: Đạo khả đạo phi thường Đạo. 道可道非常道. (Đạo mà nói được thì không phải là Đạo hằng thường.) 

HUỆ KHẢI





 Quý đạo hữu gần xa muốn nhận các kinh sách do Chương Trình Chung Tay Ấn Tống Kinh Sách Đại Đạo xuất bản, được gởi biếu qua bưu điện, xin vui lòng gởi e-mail về: daidaovanuyen@gmail.com
Và xin quý đạo hữu hoan hỷ trả giúp cước phí cho bưu điện ngay khi nhận được sách biếu.
Ban Ấn Tống trân trọng cảm ơn quý đạo hữu.