Thứ Sáu, 18 tháng 1, 2019

123/4. THAY LỜI KẾT / SƠ KHẢO THUẬT NGỮ ĐẠO CHÚA TRONG ĐẠO CAO ĐÀI


THAY LỜI KẾT
Trước khi đạo Cao Đài ra đời, kinh sách thế gian nói tới Tam Giáo 三教 (the Three Teachings), tức là ba tôn giáo phương Đông, gồm có Nho hay Khổng Giáo (Confucianism), Đạo hay Lão hay Tiên Giáo (Daoism), và Phật hay Thích Giáo (Buddhism, Shakyamunism).
Sang thế kỷ 20, đạo Cao Đài tạo thêm một thuật ngữ mới là Tứ Giáo 四教 (the Four Teachings), tức là Tam Giáo phương Đông cộng thêm đạo Chúa tức là Gia Tô Giáo 耶穌教,([1]) cũng gọi là Kitô Giáo hay Cơ Đốc Giáo 基督教 (Christianity).([2])
Thuật ngữ Tứ Giáo (hay nói đầy đủ là Thích, Lão, Nho, Gia) được nói tới trong thánh giáo Cao Đài như sau:
1. Tại Huờn Cung Đàn (Tam Giáo Điện Minh Tân), đêm Thứ Sáu 24-12-1965, Đức Gia Tô Giáo Chủ giáng cơ, xưng danh qua bài thơ quán tâm như sau:
Thích, Nho, GIA, Lão một đường về
Chánh tín TÔ bồi thoát muội mê
Độ thế GIÁO dân tùy mỗi xứ
Một trời CHỦ tể khắp tư bề.
2. Tại thánh tịnh Ngọc Minh Đài, ngày 01-3 Bính Ngọ (Thứ Ba 22-3-1966), Đức Ngô Minh Chiêu dạy:
Kìa Tứ Giáo (Phật, Tiên, Gia, Khổng)
Khai sanh môn ([3]) truyền thống khắp nơi
Đều do nguyên lý của Trời
Giáng sanh cõi thế cứu đời độ dân.([4])
3. Nhân lễ khai mạc Văn Phòng Phổ Thông Giáo Lý tại Hội Thánh Di Lạc (thành phố Vĩnh Long), ngày 30-8 Tân Hợi (Thứ Hai 18-10-1971), Đức Vạn Hạnh Thiền Sư dạy:
Tục ngữ có câu: Có bột mới gột nên hồ. Những tư tưởng dung hòa Tam Giáo từ xưa đã là những nền tảng của bột để sang đến thời kỳ này, Đức Chí Tôn mới thị hiện để làm nên hồ, có đầy đủ một hệ thống giáo lý căn bản không sót từ xưa, chẳng những từ cổ tới kim mà còn từ Đông sang Tây nữa. Điểm phong phú dồi dào sinh lực tinh thần ở thời kỳ hạ nguơn này là như thế. Tam Giáo, Tứ Giáo và cả vạn giáo ([5]) nữa để góp thành một tân tôn giáo mệnh danh là Cao Đài Giáo hay Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ.([6])
4. Vĩnh Nguyên Tự là ngôi chùa cổ của đạo Minh Đường, cất năm Mậu Thân (1908) tại làng Long An, quận Cần Giuộc, tỉnh Chợ Lớn (từ năm 1956 gọi là tỉnh Long An). Đến đầu tháng 3-1926 chùa trở thành một thánh thất Cao Đài, nhưng vẫn giữ kiến trúc cũ và tên cũ Vĩnh Nguyên Tự. Vào đầu thập niên 1970, ngôi chùa cổ được tái thiết. Lễ khánh thành tổ chức ngày 15-3 Quý Sửu (Thứ Ba 17-4-1973). Thay vì cắt băng khánh thành, Ơn Trên dạy rút băng khánh thành. Trong đàn cơ tại Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý Cao Đài Giáo Việt Nam, ngày 04-3 Quý Sửu (Thứ Sáu 06-4-1973), Đức Giáo Tông Lý Thái Bạch dạy cách rút băng như sau:
Theo ý Bần Đạo, nếu được, nên làm băng thắt thành hoa có tám cánh, nhưng phía dưới thòng ra bốn mối. Bốn mối đó dành cho đại diện Tứ Giáo (...).
Đức Giáo Tông dạy Ban Tổ Chức hãy mời bốn vị đại diện cho Tứ Giáo (là Phật Giáo, Lão Giáo, Khổng Giáo, và Kitô Giáo); mỗi vị nắm một mối, rồi cùng lúc kéo cho đóa hoa tám cánh bung ra.([7])
*
Trước kia, người đời chỉ biết tới Tam Giáo đồng nguyên (Nho, Lão, Phật cùng nguồn cội phát sinh). Đến khi đạo Cao Đài ra đời, thánh giáo Cao Đài kể thêm đạo Chúa và xác định Tứ Giáo đồng nguyên. Chẳng hạn, trong một đàn cơ ở miền Trung ngày 29-6 Canh Tý (Chủ Nhật 21-8-1960), Đức Cao Đài Tiên Ông dạy: (…) Thầy sẽ ban cho thành lập một Tông Đạo, không phải thống thuộc một chi nào. Mà Tông Đạo nầy chia làm hai phần.
Riêng về phần một, Đức Cao Đài dạy: Một, xiển dương giáo pháp lập trên nền tảng Tứ Giáo đồng nguyên.([8])
Nói Tứ Giáo đồng nguyên 四教同源, tức là Cao Đài xác định rằng bốn nền đạo Phật, Lão, Nho, và Chúa vốn cùng chung một nguồn gốc phát sinh. Nguồn gốc (nguyên : origin, root, source) này là Đạo ; các giáo (religions: tôn giáo) đều từ cùng một gốc Đạo này mà lần lượt xuất hiện ở thế gian trải theo dòng lịch sử loài người. Đạo (nguồn gốc chung của các giáo) thường được hữu ngã hóa (personified) là Trời, là Thiên , là Thượng Đế 上帝, là Jehovah (tiếng Hebrew), là God (tiếng Anh), là Gott (tiếng Đức), là Dieu (tiếng Pháp), v.v…
Do nền tảng là Tứ Giáo đồng nguyên nên về nghi lễ Cao Đài thì Đức Chúa Giêsu (Giáo Chủ Thánh Đạo) được kỉnh thờ trên bàn thờ (Thiên bàn) của đạo Cao Đài cùng với ba Đức Giáo Chủ (hay Đạo Tổ 道祖) của Tam Giáo là Đức Thích Ca, Đức Lão Tử, và Đức Khổng Tử (xem hình ở trang 4).
Cũng do nền tảng là Tứ Giáo đồng nguyên nên về ngôn ngữ thì nhiều thuật ngữ đạo Chúa đã hiện hữu trong thánh giáo Cao Đài bên cạnh các thuật ngữ Tam Giáo. Tập Sơ Khảo này là bằng chứng về sự hiện hữu của thuật ngữ đạo Chúa trong thánh giáo Cao Đài, nhất là thánh giáo của Hội Thánh Truyền Giáo Cao Đài, tức là bộ Thánh Truyền Trung Hưng.
Bởi thế, sẽ không ngạc nhiên khi thấy một bạn thơ Cao Đài là Phạm Văn Liêm (còn là một chức sắc của Hội Thánh Truyền Giáo Cao Đài) từng nhắc tới ba thuật ngữ đạo Chúa (chiên, còi, gậy) trong hai bài thơ đậm nét Cao Đài như sau:
Đêm Trăng Khai Đạo
Bính Dần ơi, tháng Mười năm ấy
Chùa Thiền Lâm Gò Kén tưng bừng
Tay chắp tay, ngày hội vui mừng
Ta đã có, Việt Nam đã có…
Đã có gậy đưa đường dẫn lối
Đã có còi rúc gọi chiên lành
Có màu cờ phấp phới Tam Thanh
Giữa sông núi chập chùng giáo pháp.
(Tiếng Chim Quyên. Hà Nội: Nxb Tôn Giáo, 2011, tr. 43.)
Mở Lối Về Thầy
Cõi phù sinh những tim hồng phơi phới
Giữa vô thường hòa nhịp đập tin yêu
Chung ước mơ, chung chí nguyện đã nhiều
Vùng nhân thế bỗng vỡ bừng kinh mới
Bỗng rộn vang ngàn bước chân đi tới
Còi gậy trên tay, rập bước lên đường.
(Tiếng Chim Quyên, tr. 70.)
Sơ Khảo này cho thấy: Để hiểu thánh giáo Cao Đài thì không những cần hiểu thuật ngữ Tam Giáo (Nho, Lão, Phật) mà còn phải quan tâm tìm hiểu một số thuật ngữ đạo Chúa.
Tìm hiểu về sự hiện hữu các thuật ngữ đạo Chúa trong thánh giáo Cao Đài còn giúp ta nhận ra mối “gần gũi” giữa đạo Chúa (ra đời vào Nhị Kỳ Phổ Độ) và đạo Cao Đài (ra đời trong Tam Kỳ Phổ Độ). Đây là một hướng nghiên cứu nên được tiếp tục quan tâm soi chiếu vào nhiều góc cạnh, trong đó phương diện ngôn ngữ là một góc cạnh có ý nghĩa sâu sắc, bởi lẽ nó liên quan tới giáo lý của cả hai nền đạo đã và đang có ảnh hưởng sâu rộng trong cộng đồng dân tộc Việt Nam.
Hơn thế nữa, thánh giáo Cao Đài sử dụng thuật ngữ của cả Tứ Giáo (bao gồm Tam Giáo và đạo Chúa) thì đây chính là yếu tố có tác dụng rất tích cực: Nêu cao và củng cố lý tưởng hòa đồng tôn giáo hay tinh thần liên tôn giáo để phụng sự con người thế gian; xóa bỏ thói kỳ thị tôn giáo, phân biệt tín ngưỡng vốn là mầm bệnh gây chia rẽ mọi xã hội, phá hoại tình người hòa ái, và đi ngược lại chân truyền của mọi nền chánh pháp Đông Tây kim cổ.
Huệ Khải



([1]) Người Hoa dịch âm (音譯: transliterating) hồng danh Jesus thành 耶穌 (Gia Tô). Người Việt còn đọc (Gia) là Da. Do đó trong tiếng Việt từ xưa có thêm cách viết Da Tô Giáo, nhưng có lẽ không thông dụng như Gia Tô Giáo.
([2]) TĐCG 2016 (mục từ Cơ Đốc Giáo, tr. 184) giải thích: “Cơ Đốc” là âm Hán Việt của chữ 基督, vốn là cách mà Hội Thánh ở Trung Hoa dùng để phiên âm của chữ “Cristo” (phiên âm tiếng Việt là Kitô) trong tiếng Bồ Đào Nha. Vì thế, Cơ Đốc Giáo nghĩa là Kitô Giáo.
TĐCG 2016 (mục từ Kitô Giáo, tr. 507) giải thích: Kitô Giáo là đạo do Đức Kitô Giêsu (người làng Nazareth, xứ Palestina, nay thuộc Israel) sáng lập, đặt nền tảng trên cuộc sống, lời rao giảng, sự chết và sự sống lại của Người.
([3]) khai sanh môn 開生門: Mở cánh cửa bất tử cho con người (opening the door of immortality). Ý này không khác lời chép trong Kinh Thánh: Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một [là Chúa Giêsu], để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời. (Gioan 3:16)
([4]) Ý nói các vị Giáo Chủ kim cổ Đông Tây đều do Trời (Thượng Đế) sai xuống thế gian lập đạo cứu độ chúng dân.
([5]) vạn giáo 萬教: Tất cả các đạo, mọi tôn giáo.
([6]) Nói tắt là đạo Cao Đài (Cao Đài Giáo); nói đầy đủ là Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ. (Theo lời Đức Lý Giáo Tông dạy tại Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý Cao Đài Giáo Việt Nam, ngày 15-01 Tân Hợi (Thứ Tư 10-02-1971).
([7]) Lẽ thường, người đời hay cắt băng khánh thành. Một dải lụa đỏ thắm được giăng ra, và một hay vài đại biểu danh dự được mời cầm kéo cắt. Như thế dải lụa đang liền lạc thì bị đứt đôi hay là đứt ra nhiều mảnh.
Dải lụa kết thành bông hoa tám cánh có thể ví như sự rối rắm, trói buộc. Bốn vị đại diện Tứ Giáo cùng lúc rút băng cho tám cánh hoa bung ra; điều này có lẽ hàm ý rằng các tôn giáo biết liên kết nhau (liên tôn giáo) thì có thể chung lòng chung sức tháo gỡ những rối rắm, trói buộc trong cuộc đời.
([8]) Phạm Văn Liêm, Sự Nghiệp Trung Hưng. Hà Nội: Nxb Hồng Đức 2018, tr. 251-252.





 Quý đạo hữu gần xa muốn nhận các kinh sách do Chương Trình Chung Tay Ấn Tống Kinh Sách Đại Đạo xuất bản, được gởi biếu qua bưu điện, xin vui lòng gởi e-mail về: daidaovanuyen@gmail.com
Và xin quý đạo hữu hoan hỷ trả giúp cước phí cho bưu điện ngay khi nhận được sách biếu.
Ban Ấn Tống trân trọng cảm ơn quý đạo hữu.