Thứ Sáu, 12 tháng 5, 2023

5. GIẢI NGHĨA THÁI THƯỢNG ĐẠO TỔ BỬU CÁO / CAO ĐÀI TỨ THỜI NHẬT TỤNG

 


5. GIẢI NGHĨA THÁI THƯỢNG

ĐẠO TỔ BỬU CÁO

Tiên thiên khí hóa / Thái Thượng Ðạo Quân: Khí tiên thiên hóa thành Đức Thái Thượng Đạo Quân.

Thánh bất khả tri / Công bất khả nghị: Không ai biết được chỗ siêu phàm của Ngài và cũng không ai luận bàn cho hết công đức to tát của Ngài.

Vô vi cư Thái Cực chi tiền / Hữu thỉ siêu quần Chơn chi thượng: Khi vũ trụ chưa có, Ngài đã có rồi. Đến lúc vũ trụ thành hình thì Ngài cao trổi hơn tất cả các Đấng thiêng liêng.

Ðạo cao nhứt khí / Diệu hóa Tam Thanh: Nhứt khí (Đạo) biến hóa thần diệu ra Tam Thanh (Ngọc Thanh, Thượng Thanh, Thái Thanh).

Ðức hoán hư linh / Pháp siêu quần Thánh: Đức độ của Ngài chiếu sáng khắp cõi trời và phép mầu của Ngài vượt hơn hẳn các vị Thánh.

Nhị ngoạt thập ngũ, phân tánh giáng sanh: Ngài giáng sanh vào ngày rằm tháng Hai âm lịch.

Nhứt thân ức vạn, diệu huyền thần biến: Từ một thân Ngài biến hóa mầu nhiệm ra vô số thân.

Tử khí đông lai, quảng truyền Ðạo Ðức: Ngài đi từ phương đông [sang phương tây], trên trời hiện ra làn khí màu đỏ tía [báo điềm lành], và Ngài đã trao bộ Đạo Đức Kinh [cho ông Doãn Hỷ tại ải Hàm Cốc] sau đó bộ kinh này được truyền bá rộng khắp. (Xem thêm Tổng Luận.)

Lưu sa tây độ, pháp hóa tướng tông: Ngài sang phương tây, qua vùng sa mạc luôn bị cuồng phong thay đổi địa hình; đạo pháp của Ngài trở thành tôn giáo có hình tướng.

Sản Tất Viên, Phương Sóc chi bối, đơn tích vi mang: Hóa thân của Ngài là ông Tất Viên (Trang Tử) và ông Đông Phương Sóc; việc tu đơn (luyện đạo) nếu phân tích, giảng giải thì mơ hồ, ẩn áo.

Khai thiên địa, nhơn vật chi tiên, Ðạo kinh hạo kiếp: Khi vũ trụ thành hình thì Ngài có trước loài người và muôn vật; Đạo của Ngài trải qua vô số kiếp (để giáo hóa người đời).

Càn khôn oát vận, nhựt nguyệt chi quang: Trời đất xoay vần, thế nên có ngày có đêm.

Ðạo pháp bao la, Cửu Hoàng Tỷ Tổ: Đạo pháp của Ngài dung chứa mọi thứ và có từ rất xa xưa.

Ðại thiên thế giới ([1]) dương tụng từ ân: Khắp thế gian, cùng vũ trụ, đâu đâu cũng xưng tụng ơn lành của Ngài.

Vĩnh kiếp quần sanh ngưỡng kỳ huệ đức: Chúng sanh đời đời kính ngưỡng lòng nhân ái và đức độ của Ngài.

Ðại thần đại thánh / Chí cực chí tôn / Tiên Thiên Chánh Nhứt / Thái Thượng Ðạo Quân / Chưởng Giáo Thiên Tôn: Đức Thái Thượng Đạo Quân là Đấng vô cùng huyền nhiệm, là Đấng được tôn sùng tột bực, là ngôi Một trước khi có vũ trụ, là Đấng được cõi trời tôn kính và nắm giữ Đạo Giáo (đạo Lão).

TỔNG LUẬN VỀ THÁI THƯỢNG ĐẠO TỔ BỬU CÁO

Bài kinh Thái Thượng Đạo Tổ Bửu Cáo xưng tán Đức Thái Thượng Đạo Quân nhưng có nhiều câu giống với truyền thuyết về Đức Lão Tử. Như vậy, đạo Cao Đài quan niệm Thái Thượng Đạo Quân, Thái Thượng Đạo Tổ, Thái Thượng Lão Quân, Lão Quân, và Lão Tử là một. Các tôn hiệu này có ý nghĩa như sau:

Thái Thượng: Cao tột, cũng là từ chỉ Thượng Đế.

Đạo Quân: Vị chúa tể làm chủ Đạo, cũng là Thượng Đế.

Đạo Tổ : Ông Tổ của Đạo, cũng là Thượng Đế.

Lão Quân: Vua già. Trong thánh giáo Cao Đài, Thượng Đế cũng xưng mình là Già, Trời già.

Lão Tử: Thầy già. Mở đạo Cao Đài, Thượng Đế xưng mình là Thầy.

Khi mới mở Đạo (1926), Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế cho biết Đức Thái Thượng cũng là Ngài, nay gọi là Đức Cao Đài: Thái Thượng (...) thị Ngã, kim viết Cao Đài.([2])

Các sách chép rằng Đức Lão Tử tên Nhĩ, tự là Đam (nhĩ là tai; đam là tai dài). Ngài họ Lý, người nước Sở,([3]) huyện Khổ (Khổ: đắng, cực khổ), làng Lệ, xóm Khúc Nhân. Ngài làm quan coi kho sách của nhà Chu ở kinh đô Lạc Dương,([4]) và Đức Khổng gặp Đức Lão vào lúc ấy, khoảng năm 517 trước Công Nguyên.([5]) Đức Khổng kém hơn Đức Lão khoảng năm mươi ba tuổi.([6])

Truyền thuyết cho rằng mẹ Đức Lão mang thai tám mươi năm, sanh Ngài ở bên hông trái vào thế kỷ 6 trước Công Nguyên. Khi sanh ra, tóc râu Ngài bạc trắng. Do đó Lão Tử có nghĩa là “đứa trẻ già” và sau này còn được hiểu là “ông thầy già”. Vừa chào đời, Ngài liền chỉ vào cây mận () bảo rằng Ngài họ Lý. Nhưng Dư Bồi Lâm cho rằng thời Xuân Thu chưa có họ Lý, mà sang thời Chiến Quốc mới xuất hiện; vậy, Đức Lão Tử họ là Lão.

Đức Lão Tử bỏ Lạc Dương ở phía đông cỡi trâu đi về phía tây. Ngài đi tới đâu trên đầu cũng có đám mây màu tía hiện ra. Bài kinh nói tử khí đông lai.

Ông quan Doãn Hỷ coi ải Hàm Cốc xem thiên tượng thấy điềm lành, biết Thánh Nhân sắp đi qua nên thành tâm chờ đón, xin Đức Lão Tử truyền đạo. Ngài bèn nán lại viết bộ Đạo Đức Kinh hơn năm ngàn chữ, là một kỳ thư bất hủ mà xưa nay đời nào cũng có người dịch, nghiên cứu, luận bàn, truyền bá khắp thế giới. Bài kinh nói quảng truyền Đạo Đức.

Rời ải Hàm Cốc, Đức Lão Tử tiếp tục đi sang hướng tây (tây độ), băng qua sa mạc mênh mông mà người Hoa gọi là Tây Vực (Tây Vức). Sa mạc này người Hoa gọi là Qua Bích; Mông Cổ gọi là Govi; phương Tây gọi là Gobi. Nó luôn thay đổi địa hình vì cuồng phong làm cho cát thường xuyên di chuyển (lưu sa). Bài kinh nói Lưu sa tây độ.

Đạo pháp của Đức Lão Tử ban đầu chưa trở thành một tôn giáo có hình tướng nhưng trải qua nhiều đời đã trở thành một tôn giáo lớn với các cấp giáo phẩm cao thấp khác nhau, đền điện nguy nga, nghi lễ nhiều màu sắc, kinh điển rất phong phú, v.v... Bài kinh nói “pháp hóa tướng tông.

Tôn hiệu Thái Thượng Lão Quân phù hợp với truyền thuyết cho rằng Đức Lão Tử là hóa thân của Đức Lão Quân. Nguyễn Hiến Lê (Lão Tử Đạo Đức Kinh) cho biết tôn hiệu Thái Thượng Lão Quân đã có từ năm 165 (đời Hậu Hán).

Vua Đường Cao Tông (trị vì 649-683) tôn Đức Lão Tử là Thái Thượng Huyền Nguyên Hoàng Đế. Tôn hiệu này phù hợp với quan niệm rằng Đức Thái Thượng có trước vũ trụ (tiên thiên), do khí hồng mông (hỗn độn) hóa thành, có trước ngôi Thái Cực, và tạo ra vũ trụ. Do đó trong bài kinh có những câu như: Tiên thiên khí hóa / Thái Thượng Đạo Quân / Tiên thiên chánh nhứt / Thái Thượng Đạo Quân / Vô vi cư Thái Cực chi tiền / Khai thiên địa nhơn vật chi tiên.

Quan niệm Đức Lão Tử là Lão Quân, Đạo Quân, cũng đưa tới tôn hiệu Thái Thượng Đạo Tổ; nghĩa là đấng chúa tể của Đạo, cũng là ông Tổ của đạo Lão, cho nên kết thúc bài kinh nói Chưởng Giáo Thiên Tôn.

Do thuyết Đức Thái Thượng Đạo Quân có trước vũ trụ vạn vật và sáng tạo ra vũ trụ vạn vật mà có những hệ luận sau:

Ngài sáng tạo ra con người, quyền năng của Ngài vượt khỏi sự hiểu biết của con người (thánh bất khả tri); và cũng do đó công đức của Ngài ban cho đời không ai luận bàn được cho rốt ráo (công bất khả nghị).

Ngài tạo ra tất cả nên Ngài trổi vượt hơn tất cả, được tôn kính hơn tất cả. Bài kinh nói: Hữu thỉ siêu quần Chơn chi thượng / Đức hoán hư linh / Pháp siêu quần Thánh / Chí cực chí tôn

Từ đời nhà Hán (206 trước Công Nguyên – 220 Công Nguyên) đã rất phổ biến thuyết cho rằng Đức Lão Tử giáng phàm nhiều lần để hóa độ người đời, nhưng không ai biết chính xác Ngài lâm trần bao nhiêu lần, bài kinh nói: Nhứt thân ức vạn, diệu huyền thần biến.

Các sách không nói rõ Ngài sinh ngày nào, nhưng bài kinh nói: Nhị ngoạt thập ngũ, phân tánh giáng sanh. Do đó, đạo Cao Đài thiết lễ vía Đức Đạo Tổ vào ngày rằm tháng Hai âm lịch hằng năm.

Lại có thuyết cho rằng Đức Lão Tử đã phân thân, tạo nên một tam vị nhất thế (như Thượng Đế Ba Ngôi) mà thuật ngữ đạo Lão gọi là Tam Thanh, gồm có: Ngọc Thanh, Thượng Thanh, và Thái Thanh. Do đó bài kinh nói: Đạo cao nhứt khí, diệu hóa Tam Thanh.

Chức sắc Cửu Trùng Đài chia ra ba phái ứng với Tam Giáo là Ngọc (Nho), Thượng (Lão), Thái (Phật). Thí dụ: Chức sắc Nguyễn Văn Nam nếu thuộc phái Ngọc (áo đỏ) thì thánh danh là Ngọc Nam Thanh; thuộc phái Thượng (áo xanh dương) thì thánh danh là Thượng Nam Thanh; thuộc phái Thái (áo vàng) thì thánh danh là Thái Nam Thanh. Cách gọi tên thánh như vậy liên quan tới thuật ngữ “Tam Thanh”.

Cờ và phướn Cao Đài thường gọi là cờ Tam Thanh và phướn Tam Thanh vì gồm ba màu từ dưới kể lên là đỏ (phái Ngọc), xanh dương (phái Thượng), và vàng (phái Thái).

*



([1]) Nói đủ là “tam thiên đại thiên thế giới”. Thái dương hệ chứa cõi địa cầu này là một thế giới. Cứ 1.000 thái dương hệ hợp thành một tiểu thiên thế giới. Cứ 1.000 tiểu thiên thế giới hợp thành một trung thiên thế giới. Cứ 1.000 trung thiên thế giới hợp thành một đại thiên thế giới. Vì một đại thiên thế giới là 1.000x 1.000x1.000 (tam thiên: ba ngàn) thái dương hệ nên một đại thiên thế giới cũng gọi là “tam thiên đại thiên thế giới”.

([2]) Thánh Ngôn Hiệp Tuyển. Bổn thứ nhứt. Dakao Sài Gòn: Impr. Tam Thanh, 108-110 Place Maréchal Foch, 1928, tr. 14.

([3]) Dư Bồi Lâm (Lão Tử Độc Bản. Đài Loan, 1973) bảo huyện Khổ thuộc về nước Trần, cuối thời Xuân Thu; rồi Trần bị Sở thôn tính, trở thành đất của Sở, do đó Tư Mã Thiên (145-90? trước Công Nguyên) chép huyện Khổ thuộc nước Sở. (Dẫn theo Nguyễn Hiến Lê, Lão Tử Đạo Đức Kinh, 1994.)

([4]) Tư Mã Thiên, Sử Ký.

([5]) Edward Theodore Chalmers Werner, A Dictionary of Chinese Mythology. Shanghai, 1932.

([6]) Holmes Welch, Taoism, the Parting of the Way. New York, 1967.