16. NHƯ HOA NỞ MUỘN
HUỆ KHẢI (Như Hoa Nở Muộn. Hà Nội: Nxb Hồng Đức, 2019)
1. Cũng như nhiều đồng môn trong Nhóm Mười Hai,([1]) Thánh tông đồ Tô-ma dường như có lý lịch trích ngang rất
sơ sài. Chẳng hạn, Phúc Âm theo các Thánh Mát-thêu (10:3), Mác-cô (3:18), và
Lu-ca (6:15) chỉ nhắc vỏn vẹn tên ngài: Tô-ma.
Riêng Thánh Gio-an có ba lần (11:16; 20:24; 21:2) cung cấp thêm một chi tiết
nhỏ, rằng tông đồ Tô-ma còn được gọi là
Đi-đy-mô (theo tiếng Hy Lạp có nghĩa là sinh
đôi, song sinh). Bởi thế, người
Xy-ri-a gọi ngài là Giu-đa Song Sinh.
Ngoài ra, Phúc Âm không cho biết quê quán, nghề nghiệp, và trường hợp nào ngài
được Đức Giê-su chọn làm môn đệ. Sau này, các học giả khảo cứu và bổ túc rằng
tông đồ Tô-ma có thể chào đời tại Ga-li-lê và tử đạo năm 53 tại Madras, Ấn Độ
(theo Britannica Encyclopedia, mục từ
St. Thomas).
2. Về
tính cách của tông đồ Tô-ma, có người bảo ngài can đảm, hết lòng kính ái Thầy
Giê-su, sẵn sàng chết cùng Thầy cho trọn tình sư đệ thủy chung. Đó là người ta
căn cứ vào Phúc Âm theo Thánh Gio-an: Người
[Đức Giê-su] nói với các môn đệ: “Nào chúng ta cùng trở lại miền Giu-đê!” Các
môn đệ nói: “Thưa Thầy, mới đây người Do Thái tìm cách ném đá Thầy, mà Thầy lại
còn đến đó sao?” (11:7-8)
Mặc dù các môn đệ cản, Đức Giê-su vẫn bảo
mọi người lên đường (11:15). Thế thì tông đồ Tô-ma liền nói với các bạn đồng
môn: Cả chúng ta nữa, chúng ta cũng đi để cùng chết với Thầy. (11:16)
Tôi nghĩ, tông đồ Tô-ma còn là người rất
chơn chất, chẳng hề ngại bị chê tối dạ, nên hễ Thầy nói mà ngài không hiểu thì
hỏi ngay. Chẳng hạn, trong bữa tiệc ly, Đức Giê-su dặn dò những lời tâm huyết: Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì Thầy lại
đến và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó. Và Thầy đi đâu,
thì anh em biết đường rồi. Nghe vậy, ngài Tô-ma liền buột miệng hỏi: Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu,
làm sao biết được đường? (Gio-an 14:3-5)
Câu hỏi của ngài Tô-ma khiến tôi liên
tưởng tới Đức Phật Thích Ca. Trong bốn mươi lăm (hay bốn mươi chín) năm dạy đạo
([2]) từ
chốn kinh thành hoa lệ tới nơi sơn lâm xa khuất, cứ mỗi lần học trò nêu một câu
hỏi thì lại là duyên lành (good opportunity)
để Đức Phật thuyết một bộ kinh. Cũng vậy, khi xưa nhờ có ngài Tô-ma hỏi như thế
cho nên ngày nay chúng ta mới được phúc học hỏi câu trả lời của Thầy Giê-su: Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự
sống. Không ai có thể đến với Chúa Cha mà không qua Thầy. (Gio-an 14:6)
3. Người
mới học tiếng Anh mà chưa rành Phúc Âm sẽ dễ lúng túng khi gặp cụm từ a doubting Thomas, hay a doubting thomas. Người Anh lắm khi không
viết hoa thomas vì xem đây là một điển cố, cũng giống như người Việt mình thay
vì bảo đại gia ấy là người tài
trợ cho đội bóng, thì có thể nói đại
gia ấy là mạnh thường quân (Mạnh Thường Quân) của
đội bóng.([3])
Vâng, một người Anh có thể nói: I never want to be a doubting
thomas, but what proves your accusations of their bribery? (Tôi chẳng
đời nào muốn làm một tô-ma đa nghi, nhưng cái gì chứng minh lời
anh buộc tội họ đút lót, hối lộ?) Như thế, người ấy đã dùng điển cố a doubting Thomas (một tô-ma đa nghi) có
nguồn gốc từ Phúc Âm, thuật lại sự kiện Đức Giê-su phục sinh và hiện ra cho các
môn đệ thấy trong lúc ngài Tô-ma vắng mặt. Thánh tông đồ Gio-an chép:
Vào
chiều ngày ấy, ngày thứ nhất trong tuần, nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng
kín, vì các ông sợ người Do Thái. Đức Giê-su đến, đứng giữa các ông và nói:
“Bình an cho anh em.” Nói xong, Người cho các ông xem tay và cạnh sườn. Các môn
đệ vui mừng vì được thấy Chúa. (20:19-20)
Một
người trong Nhóm Mười Hai, tên là Tô-ma, cũng gọi là Đi-đy-mô, không ở với các
ông khi Đức Giê-su đến. Các môn đệ khác nói với ông: “Chúng tôi đã được thấy
Chúa.” Ông Tô-ma đáp: “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay
Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn
Người, tôi chẳng có tin.” Tám ngày sau, các môn đệ Đức Giê-su lại có mặt trong
nhà, có cả ông Tô-ma ở đó với các ông. Các cửa đều đóng kín. Đức Giê-su đến,
đứng giữa các ông và nói: “Bình an cho anh em.” Rồi Người bảo ông Tô-ma: “Đặt
ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn
Thầy. Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin.” Ông Tô-ma thưa Người: “Lạy Chúa của
con, lạy Thiên Chúa của con.” Đức Giê-su bảo: “Vì đã thấy Thầy, nên anh tin.
Phúc thay những người không thấy mà tin.” (20:24-29)
Lấy cảm hứng từ hai đoạn Phúc Âm dẫn
trên, họa sĩ Ý Caravaggio (1571-1610) vào khoảng năm 1601-1602 đã vẽ bức tranh Tính Đa Nghi Của Thánh Tô-ma (The Incredulity of Saint Thomas), sơn
dầu trên bố.
Nhờ ngài Tô-ma đa nghi mà chúng ta có
được lời Chúa dạy: Phúc thay những người
không thấy mà tin. Lời dạy này ảnh hưởng sâu rộng trong xã hội và đã trở
thành một danh ngôn có thể áp dụng cho nhiều trường hợp trong cuộc sống đời
thường. Chẳng hạn, ông chồng kia bị bà vợ ghen bóng ghen gió về tội có “mèo”.
Ông quát hỏi: “Có chứng cớ không? Bà có thấy tận mắt không?” Bà vợ trả lời yếu
xìu: “Thì nghe người ta nói.” Ông bèn mỉa mai: “Phúc thay kẻ nào không thấy mà
tin!”
4. Khi
Đức Giê-su bị quân dữ ập vào vườn Ghết-sê-ma-ni bắt đi thì các môn đệ bỏ Người mà chạy trốn hết (Mát-thêu 26:56). Như vậy, có tông
đồ Tô-ma trong số những người đó. Lúc ấy ắt hẳn ngài rất sợ nên đã quên rằng
trước kia ngài từng dõng dạc kêu gọi đồng môn: Cả chúng ta nữa, chúng ta cũng đi để cùng chết với Thầy. (Gio-an
11:16)
Nếu tôi không lầm thì Phúc Âm chẳng một
lần nhắc tới tên ngài Tô-ma kể từ sự kiện vườn Ghết-sê-ma-ni cho tới khi Đức
Giê-su phục sinh và hiện ra cho các môn đệ lần đầu tiên. Vì thế, chúng ta có
thể suy đoán rằng ngài Tô-ma vì quá sợ nên buộc lòng phải tìm cách “lặn sâu trốn
kỹ”. Tuy nhiên, khi Chúa bị đóng đinh trên đồi Gôn-gô-tha, chúng ta hãy tin chắc
rằng ngài Tô-ma có đến chứng kiến, lòng tan dạ nát, tuy nhiên ngài chỉ dám đứng
cách xa và giấu mình trong đám đông.
Chúng ta chớ dại dột phán xét chi hết, mà
hãy biết đặt mình vào hoàn cảnh của ngài Tô-ma lúc bấy giờ.
Tôi đã xem phim Risen (Phục Sinh) dài 107 phút.([4]) Tôi cũng
đã xem loạt phim truyền hình Mỹ dài mười hai tập (mỗi tập 46 phút), nhan đề A.D. Kingdom and Empire (Công Nguyên:
Thiên Quốc Và Đế Quốc).([5]) Xem hai bộ
phim này, thấy các cảnh đóng đinh Chúa, bách hại tông đồ và con chiên, dù biết
là kỹ xảo điện ảnh nhưng tôi vẫn cứ khiếp đảm, vẫn cứ rơi nước mắt. Vậy,
nếu đã thật sự sống trong hoàn cảnh ngài Tô-ma, cùng hít thở bầu khí quá đỗi hãi
hùng vào thời đại của ngài, mấy ai dám bảo mình không run sợ? Thế nên, xin được
nhắc lại, chúng ta chớ dại dột phán xét chi hết, vì chúng ta thật ra còn yếu
đuối hơn cả ngài Tô-ma, bởi vậy mà Chúa rất thương chúng ta, rất thương ngài
Tô-ma, rất thương sự yếu đuối của mọi thân phận mỏng giòn trên cõi ta bà phù
phiếm này.
5. Theo
Phúc Âm, Đức Giê-su từng báo cho các
môn đệ biết rằng Chúa sẽ bị bắt, bị giết, nhưng sẽ sống
lại: Khi
thầy trò tụ họp ở miền Ga-li-lê, Đức Giê-su nói với các ông: “Con Người ([6]) sắp bị nộp vào tay người đời, họ sẽ giết
chết Người, và ngày thứ ba Người sẽ trỗi dậy.” (Mát-thêu
17:22-23)
Trong những tháng năm Thầy trò gần gũi bên
nhau, ngài Tô-ma từng chứng kiến Thầy làm nhiều phép lạ, thấy rõ những gì Thầy
tiên tri trở thành sự thật. Vậy mà cớ sao Thầy không làm phép lạ để khỏi bị bắt,
để thoát chết? Có lẽ lòng ngài Tô-ma từng phân vân, dao động với trăm mối thắc
mắc ngổn ngang. Nên chúng ta có thể cảm thông vì sao ngài cứng lòng, không tin
lời đồng môn cho biết Thầy đã sống lại sau khi chết ba ngày đúng như Thầy tiên
tri ở Ga-li-lê.
Kể thêm một sự yếu đuối của ngài Tô-ma như
trên để chúng ta nhớ tới lời thâm thúy của Oscar Wilde (1854-1900). Nhà thơ kiêm
kịch tác gia Ái Nhĩ Lan nổi tiếng này bảo: Mỗi
vị Thánh đều có một quá khứ, và mỗi tội nhân đều có một tương lai.([7]) Thật
vậy, quá khứ yếu đuối của tông đồ Tô-ma không hề cản trở tương lai nên Thánh
của ngài. Tương lai đó mở ra khi ngài được tận tay sờ vào những vết sẹo trên
thánh thể Chúa, và ngài liền thốt lên: Lạy
Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con. Theo Britannica Encyclopedia, mục từ St.
Thomas, khi thốt lên như vậy tông đồ Tô-ma là người đầu tiên tuyên xưng
thần tính (divinity) của Đức Giê-su.([8])
Cũng theo Britannica Encyclopedia, mục từ St. Thomas , tông đồ Tô-ma đã
sang truyền đạo tại Parthia
(ở trung tâm miền đông bắc nước Ba Tư). Sau đó ngài sang Ấn Độ, rồi tử đạo tại Madras (nay là Chennai).
6. Mục
sư, tiến sĩ thần học Ralph F. Wilson (Mỹ) có soạn một bài giảng nhan đề Học Lấy Đức Tin Từ Tô-ma Đa Nghi.([9]) Không hiểu căn cứ vào đâu mà Wilson viết về ngài Tô-ma
như sau: Nhưng ngài Tô-ma là người bi
quan, yếm thế. Một số người vui lòng vì thấy ly nước đầy phân nửa, nhưng ngài
Tô-ma thấy ly nước vơi hết phân nửa.([10])
Từ điển Oxford giảng cụm từ late bloomer xuất hiện từ đầu thế kỷ 19, có nghĩa là một cây trổ bông
chậm, thường vào cuối hạ hay đầu thu; nhưng nghĩa bóng của late bloomer là một người muộn bộc lộ tài
hoa, chậm phát huy năng khiếu, hoặc trễ bước thành công.([12])
Hiểu cả hai nghĩa như dẫn trên, mà nghĩ ra lời dịch
thì tôi không khỏi lúng túng. Thời may, ca từ bài hát Buồn ([13]) của nhạc sĩ Y Vân (Trần Tấn Hậu, 1933-1992)
bất chợt vang lên trong đầu: Tình đôi ta
thật buồn, như lứa hoa nở muộn. Xin cảm ơn nhạc sĩ Y Vân, tác
giả những bài hát trữ tình tôi mãi yêu thích từ thuở hoa niên. Vậy là xong. Câu
văn của Wilson
tôi dịch thế này: Tôi đồ rằng ngài Tô-ma
là hoa nở muộn.
Tôi hiểu vì sao Wilson
viết như vậy. Trước khi tuyên xưng thần tính của Đức Giê-su, ngài Tô-ma là hoa
chưa kết nụ, vì ngài yếu đuối. Ngài là đóa hoa nở muộn
và nở rất đẹp chỉ sau khi tuyên xưng: Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con. Từ đó trở đi, dũng mãnh với đức tin sắt đá, ngài một thân một
mình rời khỏi quê hương tìm đến tận xứ sở Ba Tư, Ấn Độ xa xôi lạ huơ lạ hoắc để
truyền đạo, và chịu tử đạo, rồi nên Thánh: Thánh
tông đồ Tô-ma.
HUỆ KHẢI
Nhiêu Lộc, 25-6-2019
Nguyệt san CGvDT, số 295, tháng 7-2019
([1]) Phúc Âm theo Thánh
Mác-cô chép: Người [Đức Giê-su] lập Nhóm Mười Hai, để các ông ở với Người và
để Người sai các ông đi rao giảng, với quyền trừ quỷ. Người lập Nhóm Mười Hai
và đặt tên cho ông Si-môn là Phê-rô, rồi có ông Gia-cô-bê con ông Dê-bê-đê, và
ông Gio-an em ông Gia-cô-bê (….) rồi đến các ông An-rê, Phi-líp-phê,
Ba-tô-lô-mê-ô, Mát-thêu, Tô-ma, Gia-cô-bê con ông An-phê, Ta-đê-ô, Si-môn thuộc
nhóm Quá Khích, và Giu-đa Ít-ca-ri-ốt là chính kẻ nộp Người. (3:14-19)
([6]) Con Người (Son of Man) là thuật ngữ Kinh Thánh, chỉ Đức Giê-su Ki-tô vừa mang
nhân tính (humanity) vừa mang thần
tính (divinity). Trong Phúc Âm, nhiều
lần Đức Giê-su tự xưng là Con Người, với
nghĩa là “Tôi”. Chẳng hạn:
- Ở
dưới đất này, Con Người có quyền tha tội.
(Lu-ca 5:24)
- Con
Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư
loại bỏ, bị giết chết và sau ba ngày, sống lại.
(Mác-cô 8:31)
- Từ
nay, các ông sẽ thấy Con Người ngự bên hữu Đấng Toàn Năng và ngự
giá mây trời mà đến. (Mát-thêu 25:64)
(Huệ Khải, Phúc Âm Kể Lại Theo R.F. Wilson. Hà Nội:
Nxb Hồng Đức, 2019, tr. 80.)