1. THƯ GIU-SE GỞI MẸ
Về sự
kiện ông Giu-se quê quán ở Na-da-rét ([1]) chấp
nhận bà Ma-ri-a đang mang thai, đưa bà về nhà ông, Phúc Âm theo Thánh Mát-thêu
(1:18-25) thuật lại như vầy:
Sau đây là gốc tích Đức Giê-su Ki-tô:([2]) Bà
Ma-ri-a, mẹ Người, đã thành hôn ([3]) với
ông Giu-se. Nhưng
trước khi hai ông bà về chung sống, bà đã có thai do quyền năng Chúa Thánh
Thần.([4]) Ông
Giu-se, chồng bà, là người công chính và không muốn tố giác bà, nên mới định
tâm bỏ bà cách kín đáo. Ông
đang toan tính như vậy, thì kìa sứ thần Chúa hiện đến báo mộng cho ông rằng: “Này ông Giu-se, con cháu Đa-vít, đừng ngại
đón bà Ma-ri-a vợ ông về, vì người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh
Thần. Bà sẽ sinh con trai và ông phải đặt tên cho con trẻ là Giê-su, vì chính
Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ.” Tất cả sự việc này đã xảy ra, là
để ứng nghiệm lời xưa kia Chúa phán qua miệng ngôn sứ:([5]) Này
đây, Trinh Nữ sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ
là Em-ma-nu-en, nghĩa là “Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta.” Khi tỉnh giấc, ông
Giu-se làm như sứ thần Chúa dạy và đón vợ về nhà. Ông không ăn ở với bà, cho
đến khi bà sinh một con trai, và ông đặt tên cho con trẻ là Giê-su.
Nhiều
họa sĩ danh tiếng đã để lại thế gian những kiệt tác lấy cảm hứng từ câu Phúc Âm
dẫn trên: sứ thần Chúa hiện đến báo mộng
cho ông (Mát-thêu 1:20). Trong số đó có bức tranh sơn dầu Giấc Mộng Của Thánh Giu-se (Le songe de
saint Joseph) do họa sĩ Pháp Pierre Parrocel (1664-1739) sáng tác.
Trong xã
hội Do Thái xa xưa, hay trong một xã hội ở bất kỳ thời đại nào khác, chấp nhận
một vị hôn thê có thai mà mình không hề là cha đứa trẻ ấy, nào phải là chuyện
đơn giản. Đương nhiên ông Giu-se đau khổ lắm chứ. Bởi vậy, dù rất
tốt bụng, tuy không muốn tố giác bà ra
trước làng nước theo tục cổ, người đàn ông công chính này vẫn định tâm bỏ bà cách kín đáo, tức là âm
thầm hủy hôn ước. Thế nhưng, sau đó, tuân lời sứ thần của Chúa, ông can đảm đón
bà về nhà, gác ngoài tai tất cả mọi lời đàm tiếu, dị nghị cay độc của thế gian
thường tình.
Lòng dũng cảm hy sinh cao sâu như núi như
biển kia, Thánh tông đồ Mát-thêu không một lời nào diễn tả. Từ chỗ định hủy hôn
ước cho tới lúc vâng theo lời truyền ban của thiên sứ, suốt thời gian đớn đau
ấy lòng dạ ông Giu-se đương nhiên ngổn ngang trăm mối, rối rắm muôn bề, thế mà Phúc
Âm cũng chẳng dành được nửa chữ chép ghi. Phải chăng chỉ khi nào đặt mình vào
vị trí, hoàn cảnh của người đàn ông tên là Giu-se trong bối cảnh xã hội cổ xưa
của Do Thái, thì may ra mới có thể thẩm thấu được phần nào nỗi lòng của ông thợ
mộc Giu-se buổi ấy?
Mục sư Ralph F. Wilson đã có được sự đồng
cảm lạ lùng khi đặt mình vào tâm trạng của ông Giu-se hơn hai ngàn năm trước.
Diễn bày tâm trạng ấy, qua chuyện kể Joseph’s
Letter Home (Thư Giu-se Gởi Về Nhà), Wilson cho thấy đức độ của Đức Thánh
Cả Giu-se quê quán ở Na-da-rét.
Ralph
F. Wilson kể chuyện như sau
Thưa mẹ,
Chúng con – Ma-ri-a cùng con và bé Giê-su
– vẫn còn ở Bê-lem.
Mùa hè năm ngoái có nhiều điều con đã
không thể bày tỏ với mẹ. Lúc ấy dẫu nói ra thì mẹ cũng chẳng tin đâu, nhưng giờ
đây có lẽ con kể hết cho mẹ được rồi. Con hy vọng là mẹ hiểu.
Mẹ biết mà, lúc nào con cũng thương yêu
Ma-ri-a. Thuở cô ấy hãy còn nhỏ xíu thì bố mẹ thường cứ trêu ghẹo, ghép đôi con
với cô bé. Cô và mấy anh cô hay chơi đùa trên con lộ trước nhà chúng ta. Gia
đình ta và gia đình cô đã cùng ăn tối với nhau. Nhưng vừa mới cách nay một năm
thì cái ngày khó khăn nhất đời con lại đến lúc con hai mươi tuổi còn cô ấy chỉ
mới mười lăm. Mẹ nhớ ngày ấy mà, phải không mẹ?
Rắc rối bắt đầu sau khi chúng con đính hôn
và ký tên vào hôn ước trong lễ ăn hỏi. Cũng mùa xuân năm ấy Ma-ri-a đột nhiên
đi thăm người chị bà con là Ê-li-da-bét ở Giu-đê.([6]) Cô ấy đi suốt ba tháng. Sau khi cô ấy trở về, thiên hạ bắt
đầu to nhỏ xầm xì rằng dường như cô ấy mang thai.
Đó là một ngày u ám khi cuối
cùng con đem lời thiên hạ đồn đãi mà truy vấn nàng. Rốt cuộc, con hỏi: “Ma-ri-a,
em sắp có con phải không?”
Đôi mắt nâu trong veo của nàng nhìn vào
mắt con. Nàng gật đầu.
Con hết biết nói gì. Sau cùng, con lắp
bắp: “Ai?”
Mẹ ơi, con và Ma-ri-a chưa hề làm điều gì
vượt qua lễ giáo – thậm chí sau khi chúng con đã đính hôn.
Ma-ri-a
nhìn xuống. Nàng nói: “Giu-se, em chẳng có cách chi giải thích được. Anh
không hiểu nổi đâu. Nhưng em muốn anh biết rằng em chưa hề quan tâm tới ai
ngoài anh ra.” Nàng đứng lên, dịu dàng nắm hai bàn tay con, hôn lên từng bàn
tay như thể chẳng còn bao giờ nàng lại được hôn tay con lần nữa, xong rồi nàng
quay về nhà. Nàng hẳn chết từng khúc ruột. Con thì biết là con tan dạ nát lòng.
Thời gian còn lại trong ngày ấy con làm
việc mà cứ luôn va vấp. Cũng lạ là con không bị trầy trụa xây xước khi cưa bào
đục đẽo. Thoạt đầu con căm giận và nện thình thịch lên cái khung cửa con đang
đóng để trút xuống nỗi lòng não nề. Đầu óc con quay cuồng như chong chóng đến
mức con không thể nào tập trung vào công việc. Sau cùng con quyết định cứ âm
thầm từ bỏ nàng để hủy hôn ước. Con yêu nàng vô chừng thì làm sao có thể bêu
riếu nàng trước làng nước được.
Con đã không thể tỏ bày với mẹ hay bất cứ
ai về chuyện ấy. Con bỏ vào giường sớm và cố dỗ giấc ngủ. Lời nàng nói cứ lởn
vởn trong đầu con. “Em chưa hề quan tâm tới ai ngoài anh ra… Em chưa hề quan tâm tới ai ngoài anh ra…” Chao
ôi, ước gì con tin được nàng!
Chẳng biết con đã ngủ thiếp đi vào lúc
nào nữa. Mẹ ơi, Chúa cho con nằm mộng thấy một sứ thần của Chúa đến với con.
Lời ngài nói rung chuyển tâm hồn con dữ dội đến nỗi con nhớ rõ như thể mới vừa
xảy ra hôm qua thôi.
Ngài nói rền vang như sấm: “Này Giu-se, con
cháu vua Đa-vít, chớ sợ hãi khi rước Ma-ri-a về nhà làm vợ, bởi lẽ bà đang mang
thai do Chúa Thánh Thần.”
Mẹ ơi, con không tin vào tai mình. Đây là câu trả lời! Thiên sứ nói tiếp: “Bà sẽ
sinh con trai, và ông phải đặt tên hài nhi là Giê-su vì Người sẽ cứu dân Người
khỏi tội lỗi của họ.”
Hai bàn tay to tướng của thiên sứ bấu
chặt đôi bờ vai con. Ánh mắt ngài chằm chằm nhìn xuyên thấu vào tận bên trong
con một lúc lâu. Ngay khi ngài vừa quay đi, con nghĩ là con nhìn thấy một nụ
cười trên gương mặt tỏa sáng của ngài.
Con ngồi chết cứng trên giường. Sau đó
chẳng ngủ nổi! Con trằn trọc mãi, cứ ôn tới ôn lui từng lời của thiên sứ. Rồi
con nhổm dậy, rón rén mặc quần áo để khỏi đánh thức mẹ.
Con hẳn đã cuốc bộ mấy dặm dài dưới bầu
trời thiếu ánh trăng. Các vì sao giống như cả ngàn đầu kim li ti châm chi chít
vào màn đêm tăm tối. Một làn gió nồng phất vào mặt con.
Mẹ ơi, con đã ca hát xưng tụng Chúa.
Vâng, con đấy, ca hát, nếu mẹ có thể hình dung được. Con không thể kềm chế nỗi
mừng vui. Con thưa với Chúa rằng con sẽ đón Ma-ri-a về và chăm sóc nàng. Con
thưa với Chúa rằng con sẽ trông nom nàng − và con trẻ − thiên hạ có nói gì thì
cũng mặc.
Con quay về ngay khi vầng dương vừa hôn
lên những đỉnh đồi. Mẹ ơi, con không biết liệu mẹ có còn nhớ nổi buổi sáng hôm
ấy chăng. Con thì có thể nhìn thấy rõ trong tâm con cơ hồ như mới là hôm qua
thôi. Mẹ đang cho gà qué ăn, ngạc nhiên thấy con ra ngoài sớm thế. Mẹ nhớ chứ?
“Mẹ ngồi xuống đi.” Con nói với mẹ. “Con
phải kể mẹ nghe chuyện này.” Con cầm tay mẹ và giúp mẹ tìm lấy một chỗ ngồi
trên tảng đá lớn. Con nói: “Mẹ, con sắp đưa Ma-ri-a về nhà làm vợ con. Mẹ có
thể dọn một chỗ cho nàng để đồ đạc không?”
Mẹ im lặng một lúc lâu. Sau cùng mẹ nói,
ánh mắt long lanh: “Con à, con chẳng biết thiên hạ đang nói gì, phải không
con?”
“Con biết chứ, mẹ.”
Mẹ bắt đầu cao giọng: “Nếu bố anh còn
sống, mẹ bảo cho mà biết nhé, bố anh sẽ mắng cho xem. Buông thả như thế trước
khi các người cưới nhau. Điếm nhục gia phong. Anh… anh và Ma-ri-a hãy nên hổ
thẹn lấy mình!”
Mẹ sẽ chẳng đời nào tin đâu nếu như con
cố giải thích, thế nên con chẳng biện bạch gì hết. Mẹ sẽ cười khinh con, trừ
phi thiên sứ mách bảo mẹ.
Con nói: “Mẹ à, đây là điều đúng đắn con
phải làm.”
Và rồi con bắt đầu nói với mẹ như thể con
là gia trưởng: “Khi nàng về nhà này con không muốn có một lời nào về chuyện
thai nghén. Nàng là con dâu mẹ, mẹ hãy tôn trọng nàng. Nàng sẽ cần mẹ giúp đỡ
nếu nàng phải chịu đựng những lời xiên xỏ của láng giềng!”
Mẹ ơi, con xin lỗi mẹ. Mẹ đâu đáng bị nói
năng như thế. Mẹ giận dỗi chực đứng lên.
Con khẽ khàng: “Mẹ, con cần mẹ.” Mẹ níu
tay con đứng dậy, nhưng ánh mắt không còn bừng lửa giận.
“Con
có thể trông cậy mẹ, Giu-se à.” Mẹ ôm con thật lâu. Và mẹ đã chứng
minh lời nói ấy. Con chưa hề nghe thêm lời nào khác. Mấy tháng sau đó không một
nàng dâu nào lại có thể mong có được bà mẹ chồng tốt hơn mẹ.
Mẹ, sau đó con rời nhà mình, đi ngược lên
con đường dẫn tới nhà Ma-ri-a và gõ cửa. Khi mở cửa ra, mẹ nàng nhìn con chòng
chọc. “Giu-se tới!” Bà lớn tiếng gọi vọng vào trong nhà, giọng gay gắt, cơ hồ
phun cái tên con ra khỏi mồm.
Ma-ri-a bé nhỏ của con len lét bước ra,
như thể nghĩ rằng con sẽ tát nàng một cái, con cho là vậy. Đôi mắt nàng đỏ hoe,
sưng húp. Con có thể tưởng tượng ra bố mẹ nàng đã nói những gì.
Chúng con rời xa khỏi nhà mấy bước. Trông
nàng thật bé bỏng và sợ hãi. Con dịu dàng bảo nàng: “Ma-ri-a, em soạn đồ đi.
Anh đón em về nhà làm vợ anh đây.”
“Giu-se!” Nàng ôm ghì con thật chặt. Mẹ
à, con đâu biết nàng khỏe đến thế.
Con kể nàng nghe những gì con đã sắp xếp.
“Tuần này chúng mình tới nhà ráp-bi Ben-Ezer ([7]) và
nhờ thầy ấy làm lễ cưới.”
Mẹ, con biết như vậy là quá đỗi đột ngột,
nhưng con hình dung rằng chúng con càng cưới nhau sớm chừng nào thì càng tốt
hơn cho nàng, cho con, cho em bé chừng nấy.
“Ma-ri-a à, ngay cả khi bè bạn em không
tới, ít ra mình cũng có thể nguyện hứa thương yêu nhau trước Chúa.” Con ngưng
lại một chút rồi tiếp: “Anh nghĩ là mẹ sẽ tới dự. Và có lẽ Rê-béc-ca bạn em
cũng sẽ tới nếu cha nàng cho phép. Còn bố mẹ em thì sao?”
Con có thể cảm thấy tấm thân bé bỏng của
Ma-ri-a run rẩy khi nàng lặng lẽ khóc.
Con nhận thấy chính con dũng cảm hơn khi
bảo: “Ma-ri-a ơi, thiên hạ nói chi về em cũng mặc kệ. Anh hãnh diện em sắp làm
vợ anh. Anh sẽ chăm sóc em. Anh hứa với Chúa rồi.”
Nàng ngước lên.
Con hạ thấp giọng: “Ma-ri-a, đêm qua anh
nằm mơ. Anh thấy một thiên sứ. Anh biết.”
Nỗi đớn đau bấy lâu bấu víu trên gương
mặt nàng tan biến. Nàng rạng rỡ khi chúng con quay lưng rời khỏi nhà và bắt đầu
sóng bước bên nhau đi lên đồi.
Ngay lúc ấy mẹ nàng chạy bổ ra sân. “Gượm
đã!” Bà kêu lên. Bà hẳn đã nép sau cánh cửa và lóng nghe hết cả. Những giọt
nước mắt chảy thành dòng trên đôi má.
“Để mẹ gọi bố!” Bà kêu lên, cơ hồ choáng
váng vì xúc động. Vén gọn lại váy, bà khóc và chạy bổ đi tìm chồng: “Bố nó ơi, nhà
mình… nhà mình sắp có đám cưới nè!”
Chuyện là thế, mẹ à. Tạ ơn mẹ đã dự lễ
cưới vì thương chúng con. Con sẽ sớm viết thư khác thăm mẹ.
Con yêu mẹ,
Giu-se.
Huệ Khải
Nhiêu
Lộc, 08-12-2014
Sửa chữa 02-4-2019
Nguyệt
san CGvDT số 204, tháng 12-2014
([2]) Ki-tô: Danh hiệu (title) của Chúa Giê-su, dịch âm (transliterating) chữ Cristo (tiếng
Bồ Đào Nha). Tiếng Latin gọi là Christus;
Hy Lạp gọi là Kristos; Pháp và
Anh gọi là Christ. Người Hoa dịch âm Cristo
và viết là 基督, từ Hán-Việt là Cơ Đốc.
Cristo (Christ) nghĩa
là Đấng được xức dầu (the Anointed One), cũng gọi là Đấng
Mê-si-a (Messiah) theo tiếng Hi-bru (Hebrew: tiếng Do Thái). Chúa Giê-su là
Đấng được Thiên Chúa xức dầu để thi hành sứ mạng cứu thế, do đó Chúa được gọi
là Giê-su Ki-tô (ghép tên riêng Giê-su với
danh hiệu Ki-tô).
Do
cách dịch âm danh hiệu Cristo là
Ki-tô hay Cơ Đốc, đạo Chúa còn gọi là Ki-tô Giáo, Cơ Đốc Giáo, tức là đạo của
Đấng được xức dầu. Các môn đồ của Chúa được Công Giáo (Thiên Chúa Giáo) gọi là
Ki-tô hữu (bạn của Đấng được xức dầu) và được Tin Lành gọi là Cơ Đốc nhân
(người của Đấng được xức dầu).
([4]) Chúa Thánh Thần (the Holy Spirit) cũng gọi là Thần
Khí. Tin Lành và Cao Đài gọi là Thánh
Linh.
Xem thêm: Huệ Khải, Sơ Khảo Thuật Ngữ Đạo Chúa Trong Đạo Cao Đài / A Preliminary Survey of
Some Christian Terms Used in Caodaism. Hà Nội: Nxb Hồng Đức, 2019, tr.
64-69. (Quyển 123-1 trong Chương Trình Chung Tay Ấn Tống Kinh Sách Đại Đạo.)
Khi Đức Giê-su loan báo cho dân Do Thái
tin mừng về Nước Trời, Ngài nói: “Anh em
hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần.” Khi loan báo như vậy, Đức Giê-su là
một ngôn sứ.
Thánh tông đồ Mát-thêu chép rằng ngày
Chúa trở về quê nhà, giảng đạo cho người làng Na-da-rét thì họ chỉ thấy Ngài là
con trai ông thợ mộc Giu-se, và không tin Ngài là Đấng Cứu Thế. Do đó Chúa
Giê-su thất bại khi làm ngôn sứ tại chính quê nhà, và Chúa bảo: “Ngôn sứ có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở
chính quê hương mình và trong gia đình mình mà thôi.” (Mát-thêu 13:57) Lời
Chúa khiến chúng ta nhớ tới câu tục ngữ ở miền Bắc: “Bụt [Phật] chùa nhà không
thiêng.”