12. TÔI ĐÃ THẤY CHÚA
Phúc Âm theo Thánh Gio-an (20:1-18) chép:
Sáng sớm ngày thứ
nhất trong tuần, lúc trời còn tối, bà Ma-ri-a Mác-đa-la đi đến mộ, thì thấy
tảng đá đã lăn khỏi mộ. Bà liền chạy về gặp ông Si-môn Phê-rô và người môn đệ
Đức Giê-su thương mến. Bà nói: “Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ; và chúng tôi
chẳng biết họ để Người ở đâu.”
Ông Phê-rô và môn
đệ kia liền đi ra mộ. Cả hai người cùng chạy. Nhưng môn đệ kia chạy mau hơn ông
Phê-rô và đã tới mộ trước. Ông cúi xuống và nhìn thấy những băng vải còn ở đó,
nhưng không vào. Ông Si-môn Phê-rô theo sau cũng đến nơi. Ông vào thẳng trong
mộ, thấy những băng vải để ở đó, và khăn che đầu Đức Giê-su. Khăn này không để
lẫn với các băng vải, nhưng cuốn lại, xếp riêng ra một nơi. Bấy giờ người môn
đệ kia, kẻ đã tới mộ trước, cũng đi vào. Ông đã thấy và đã tin. Thật vậy, trước
đó, hai ông chưa hiểu rằng theo Kinh Thánh, Đức Giê-su phải trỗi dậy từ cõi
chết. Sau đó, các môn đệ lại trở về nhà.
Bà Ma-ri-a
Mác-đa-la đứng ở ngoài, gần bên mộ, mà khóc. Bà vừa khóc vừa cúi xuống nhìn vào
trong mộ, thì thấy hai thiên thần mặc áo trắng ngồi ở nơi đã đặt thi hài của
Đức Giê-su, một vị ở phía đầu, một vị ở phía chân. Thiên thần hỏi bà: “Này bà,
sao bà khóc?” Bà thưa: “Người ta đã lấy mất Chúa tôi rồi, và tôi không biết họ
để Người ở đâu!” Nói xong, bà quay lại
và thấy Đức Giê-su đứng đó, nhưng bà không biết là Đức Giê-su. Đức Giê-su nói
với bà: “Này bà, sao bà khóc? Bà tìm ai?” Bà Ma-ri-a tưởng là người làm vườn,
liền nói: “Thưa ông, nếu ông đã đem Người đi, thì xin nói cho tôi biết ông để
Người ở đâu, tôi sẽ đem Người về.” Đức Giê-su gọi bà: “Ma-ri-a!” Bà quay lại và
nói bằng tiếng Híp-ri: “Ráp-bu-ni!” (nghĩa là “Lạy Thầy!”). Đức Giê-su bảo: “Thôi,
đừng giữ Thầy lại,([1]) vì Thầy chưa lên cùng Chúa Cha. Nhưng hãy đi gặp anh
em Thầy và bảo họ: Thầy lên cùng Cha của Thầy, cũng là Cha của anh em, lên cùng
Thiên Chúa của Thầy, cũng là Thiên Chúa của anh em.” Bà Ma-ri-a Mác-đa-la đi
báo cho các môn đệ: “Tôi đã thấy Chúa”, và bà kể lại những điều Người đã nói
với bà.
Lấy cảm
hứng từ các đoạn Phúc Âm dẫn trên, họa sĩ Nga Alexander Andreyevich Ivanov
(1806-1858) vào năm 1835 đã vẽ bức sơn dầu trên bố Đức Ki-tô Hiện Ra Với Ma-ri-a Mác-đa-la (Appearence of Christ to Mary Magdalene).
Mục sư Wilson thì dựa
theo Gio-an 20:1-18 để kể câu chuyện Tôi
Đã Thấy Chúa (I Have Seen the Lord) theo phong
cách của ông. Ma-ri-a Mác-đa-la trong câu chuyện dưới đây chính là người phụ nữ
được Đức Giê-su giải thoát khỏi bảy con quỷ, như được chép vắn tắt trong Phúc
Âm theo Thánh Lu-ca (8:2).
Ralph
F. Wilson kể chuyện như sau
Ma-ri-a Mác-đa-la dõi mắt
nhìn mà chết điếng trong lòng. Bị đóng đinh trên thập giá ở giữa là con người
nhân từ mà bà yêu thương trọng kính. Trước kia bà nghĩ người ấy là Đấng
Mê-si-a.([2]) Giờ đây bà có thể tin được gì? Người ấy đang hấp hối.
Tên cướp bị đóng đinh cạnh Đức Giê-su quay sang Người.
Ma-ri-a căng tai lắng nghe lời hắn thì thào: “Ông
Giê-su ơi, hãy nhớ tôi khi ông vào trong nước của ông.”
Lời Đức Giê-su nói với kẻ tử tội vang vọng trên đỉnh
đồi: “Hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng.” Một cảm giác ớn lạnh bò
dọc xuống sống lưng Ma-ri-a. Ngay cả lúc chết đi, Đức
Giê-su vẫn luôn tha thứ. Dòng hồi tưởng của bà cuồn cuộn trở về lần đầu
tiên gặp Chúa.
Ga-li-lê
Bà lớn lên trong ngôi làng Mác-đa-la,
cách làng chài Ca-phác-na-um bảy dặm (khoảng mười một cây số) về phía nam, dọc
theo biển hồ Ga-li-lê. Là người giàu có, gia sản gầy dựng từ nghề nhuộm len tại
địa phương, vậy mà bà chẳng vui sướng chi.
Bà chẳng lạ gì những trò áp chế, đọa đày
của lũ quỷ. Chúng thường hay sai khiến, ép uổng bà phá phách, nên bà khinh miệt
bản thân, căm ghét những việc đã làm, vậy mà không sao dừng lại được. Mảnh đời
mỏng giòn của bà tan nát. Ghê tởm và không còn chịu đựng nổi cách cư xử thất
thường của vợ, ông chồng đã tống khứ bà trở về nhà bố mẹ bà.
Tuy nhiên, tiền bạc của bà quả thật có
giải tỏa cho bà khỏi những bận bịu việc nhà việc cửa thường ngày. Bà mặc tình
rong chơi bên bờ biển hồ. Khi được một dân làng kể rằng có một ông quê quán ở
Na-da-rét đang giảng đạo tại phía bắc Ca-phác-na-um thì bà lên đường để xem hư
thực thế nào.
Ông ấy rao giảng tin mừng thế này: Nước Trời ở ngay
tại đây. Ông nói về tha thứ, về thanh tẩy toàn diện. Kẻ ốm đau, người tàn tật
đều được chữa lành khi ông chạm vào họ. Thượng Đế dường như hiện hữu khắp chung
quanh. Thậm chí những ai thống khổ giống như Ma-ri-a cũng được giải thoát. Theo
lệnh Đức Giê-su, lũ quỷ bầy yêu sẽ xuất ra ngoài mà gào thét; vậy là có những
mảnh đời được giải thoát, đổi thay.
Ma-ri-a cảm nhận trong thân xác mình đang
giằng xé một nỗi khiếp đảm lạ lùng. Bà có thể tin được ông ấy không? Ma-ri-a buộc
lòng phải nhập vào đám đông đang vây quanh Đức Giê-su. Cuối cùng cũng tới lượt,
bà ngẩng lên, hoang mang sợ hãi. Ông ấy ngó xuống nhìn bà, trìu mến.
Rồi thì ánh mắt chăm chú của ông dường
như xuyên thấu vào tâm hồn bà. Giọng ông rắn rỏi: “Hãy ra khỏi bà này, lũ quỷ ghê
tởm các ngươi, và hãy buông bà này ra!” Thân thể bà cứng đơ, lồng ngực bị siết
chặt. Bà nghĩ mình sẽ nổ tung. Bà muốn kêu thét lên. Mà có lẽ bà đã thét lên
thật đấy.
Rồi tất cả qua đi. Các bắp thịt giãn ra. Bà
nhìn thấy nụ cười nhân hậu của ông. Ông bảo: “Ma-ri-a, bà đã được tha thứ, và bà
tự do.” Vâng, bà được tự do. Bà cảm thấy mình rất nhẹ nhàng, thanh tịnh. Bà
muốn múa hát. Bà nhảy tưng lên và ôm chầm mấy người phụ nữ sửng sốt đang đứng
gần bên.
Đêm đó bà hầu như tung tăng trở về nhà.
Ngay cả cha bà cũng quá ngạc nhiên. Ma-ri-a bé bỏng của ông, bị đày đọa ngần ấy
thời gian, cuối cùng lại được vui sướng. Bỏ hết ngày giờ, bà cùng với đám đông quây
quần bên Đức Giê-su. Bà đem tiền mua thức ăn dâng Chúa và mời các môn đệ của Chúa.
Lòng trắc ẩn và hy vọng của bà tuôn tràn, đặc biệt với các phụ nữ, trẻ em tới
xin cứu giúp. Thỉnh thoảng bà dẫn dắt những người tuyệt vọng đến gặp Chúa.
Một tiếng kêu đau đớn từ thập giá kéo bà
trở về thực tại. Chúa của bà đang hấp hối.
Tắt thở
Ma-ri-a lắng nghe
trong lúc nước mắt tuôn trào. Cái giọng từng có lần tuyên xưng Nước Trời trên
những sườn đồi ở Ga-li-lê giờ đây vang lên khản đặc: “Thế là đã hoàn tất!” ([3]) Rồi Người gục đầu xuống.
Những
đám mây dông đầy vẻ đe dọa quần tụ suốt buổi chiều bây giờ tản ra vụn vỡ. Chớp
lóe qua ngọn đồi kinh khiếp. Thân hình Đức Giê-su buông thõng; những xác khác
thì quằn quại. Bà nghe khắp chung quanh những tiếng sụt sùi khóc thương Đức
Giê-su. Bà nhìn Người lần cuối một lúc lâu, rồi bưng mặt khóc.
Rắc! Một trong hai tên cướp thét lên, âm thanh xé tai
xuyên thủng bóng tối quái dị. Một tên lính đã cầm cây gậy to tướng đập gãy hai
chân y để yên chí rằng y chết hẳn trước khi ngày sa-bát bắt đầu vào lúc mặt
trời lặn.
Bọn lính đi tới Đức Giê-su. Ôi, xin chớ, lạy Thiên
Chúa, hãy tha cho Người, bà cầu nguyện. Người đã chết rồi mà. Tên đại đội
trưởng cũng biết thế, bà có thể thấy; nhưng để chắc chắn, hắn ra dấu cho một
tên lính cầm giáo xiên vào cạnh sườn Chúa.([4]) Máu phun mạnh ra, rồi chậm lại
và nhểu thành giọt một hồi. Người quả chết thật rồi.
An
táng
Một tên lính bắt đầu nhổ cây đinh đóng hai bàn chân
Đức Giê-su dính chặt vào thập giá. Hai tên khác bắc thang lên tháo dây buộc đòn
ngang ra khỏi thân cột và thận trọng hạ xuống cho đồng đội bên dưới đỡ lấy. Xác
Đức Giê-su vẫn còn dính vào đòn ngang. Cần thêm ít phút để nhổ mấy cọc nhọn ra
khỏi những cái lỗ xơ xác trên đòn ngang, là nơi cơ man những bàn tay đã đổ máu.
Lúc này Ma-ri-a nhận ra hai môn đệ tân tòng là ông
Giô-xếp thành A-ri-ma-thê và ông Ni-cô-đê-mô. Cả hai mang theo cáng để khiêng
xác Chúa. Ma-ri-a theo giúp, giữ cáng được thăng bằng cho tới khi họ tới huyệt
mộ gần đó; Giô-xếp đã làm sẵn, định dành cho mình.
Trong khoảnh sân bên ngoài huyệt mộ, Ma-ri-a thận
trọng rửa sạch thi thể tái nhợt của Chúa, bóc gỡ từng vệt máu khô bám trên tấm
lưng tơi tả.
Đêm dần buông xuống. Ni-cô-đê-mô và Giô-xếp lúc này
luôn tay thoăn thoắt bó thi hài bằng những băng vải lanh dài, và rắc vào chút hương
liệu trong lúc bọc xác. Sau cùng, họ nhẹ nhàng đặt thi hài trên tấm đá vôi nằm
gọn trong ngôi mộ mới. Ma-ri-a dõi mắt nhìn trong lúc họ vần khối đá to tướng
che chắn lấy cửa mộ. Khi cả ba rời đi, trời đã tối hẳn.
Sống
lại
Ngày sa-bát cơ hồ kéo dài không dứt. Bất kể lòng dạ đớn
đau, Ma-ri-a quyết định sáng Chúa Nhật sẽ trở lại mộ để làm nốt việc xức dầu và
hương liệu cho thi hài của Thầy. Bà còn nợ Người việc ấy.
Mặt trời ngày Thứ Bảy cuối cùng cũng chìm xuống bên
dưới những ngọn núi; ngày sa-bát qua đi. Bà tất tả chạy ra tiệm bán hương liệu
và nện thình thịch lên cánh cửa cho tới khi người chủ tiệm xuống cầu thang, mở
cửa cho bà vào. Bà nhấn mạnh: Hương liệu dùng cho an táng. Bà không thể chờ tới
sáng hôm sau.
Đêm ấy bà ngủ chập chờn. Trước lúc bình minh, Ma-ri-a
thay y phục đi gặp hai phụ nữ bà nhờ phụ giúp.([5]) Khi họ lên đường, bầu trời tinh
mơ hãy còn nhập nhoạng. Bươn bả trên đường, bà Sa-lô-mê thì thào: “Ai sẽ dời tảng
đá?”
“Ôi, tảng đá!” Ma-ri-a thảng thốt. Bà không nghĩ tới
nó.
Khi ngôi mộ lọt vào tầm nhìn của họ, bà há hốc miệng
kinh ngạc. Tảng đá đã được đẩy sang một bên rồi. “Lũ trộm mộ!” Ma-ri-a khóc
lớn. “Sao chúng không để cho Người được yên, kể cả lúc đã chết?”
Ma-ri-a chạy và chạy miết cho tới khi tìm thấy Phê-rô
và Gio-an. “Chúng nó đã đem xác Chúa ra khỏi mộ.” Bà nói không kịp thở. “Chúng
ta không biết bọn nó để Người ở đâu!”
Phê-rô và Gio-an vụt chạy, chân không chạm đất.
Ma-ri-a mệt quá rồi chẳng thể chạy thêm nữa, lê bước trở lại ngôi mộ trong
vườn. Bà còn biết đi đâu khác hơn? Lúc bà tới nơi, Phê-rô và Gio-an đã tới và
đi khỏi. Hai bà kia vẫn đợi. Giờ thì cả ba cùng nhìn lom lom vào trong lòng mộ
âm u.
Ở chỗ từng đặt thi hài chỉ còn mớ vải liệm cuộn lại. Thình lình lòng mộ âm u bỗng sáng lòa vì hai hình người hiện ra. Theo bản năng, các bà che mắt cho khỏi chói và sợ hãi cúi xuống. Một trong hai thiên thần lên tiếng: “Sao các bà tìm người sống trong chỗ người chết?”
Vị ấy ngụ ý gì? Ma-ri-a tự hỏi. Vị ấy đang nói về cái gì thế?
“Các bà tìm ông
Giê-su Na-da-rét, người đã bị đóng đinh. Ông ấy chẳng có ở đây đâu, vì ông đã trỗi
dậy như lời ông từng nói.”
Các bà bàng hoàng, kể cả sau khi hai thiên thần biến
mất. Cuối cùng Sa-lô-mê thốt: “Trỗi dậy ư? Chúng ta phải kể cho các môn đồ biết
những gì chúng ta mục kích.”
Sắp ra tới bên ngoài khu vườn, Ma-ri-a dừng chân. Bà
yêu cầu: “Gượm đã. Tôi cần nán lại đây thêm một lúc. Bà ngồi xuống, cố gắng nối
kết lại mọi chuyện. Sao mà Đức Giê-su có thể còn sống? Chính tay bà rửa sạch
thi hài mà. Chẳng phải là câu chuyện quá tốt đẹp vượt cả sự thật ư? Liệu bà có
thể bấu víu vào điều gì đó trong chuyện thần kỳ này để rốt cuộc lại phải thêm
một phen nữa tan tành hy vọng?
Nhưng nếu là sự thật, Ma-ri-a ngẫm nghĩ, nếu là sự
thật, vậy thì toàn thể cuộc đời Đức Giê-su rất ý nghĩa. Nếu là sự thật, vậy thì
rốt cuộc Người là Đấng Mê-si-a. Nếu là sự thật, vậy thì Đấng đã chữa lành linh
hồn thống khổ của bà đã chiến thắng cái chết. Nếu là sự thật…
Tiếng những bước chân chen vào dòng suy tư của bà. Ma-ri-a ngước lên. Hẳn là người trông coi mộ, hay kẻ làm
vườn.
“Này bà, sao bà
khóc? Bà
đang tìm ai vậy?”
Bộ ông ta chẳng biết ai đã được an táng ở đây ư?
“Thưa ông, nếu ông đem xác người ấy đi, xin làm ơn cho tôi biết ông để xác ở
đâu, để tôi có thể mang người về.” Chẳng tiếng trả lời. Thế thì ông ta không
biết gì rồi…
“Ma-ri-a.”
Là Đức Giê-su! Bà
quay phắt lại và ngẩng nhìn lên gương mặt Người. “Ráp-bu-ni! Thầy ơi!” Bà quỳ sụp xuống và ôm lấy hai bàn chân
Người. Đức Giê-su, Chúa của bà, hãy còn sống. Sống sờ sờ đây này. Sống muôn
đời.
Bà kể lại với các môn đệ: “Tôi đã thấy
Chúa.”
Nhưng họ hoài nghi. Tại sao Chúa lại hiện ra với một người
đàn bà có quá khứ như Ma-ri-a nhỉ?
Tại sao vậy? Ma-ri-a rồi cũng tự hỏi. Sau đó, trong cùng ngày Chúa cũng
hiện ra với các môn đệ, nhưng chính bà mới là người trước tiên. Có lẽ để chứng
tỏ rằng Người đã chấp nhận bà. Hoặc, có lẽ để chứng minh lòng Chúa thứ tha là
mãi mãi. Tại sao nhỉ? Bà không bao giờ dám chắc. Duy có một điều Ma-ri-a biết
chắc: Đấng Mê-si-a của bà hãy còn sống.
Huệ
Khải
Nhiêu
Lộc, 19-5-2019
Nguyệt san CGvDT, số 294, tháng 6-2019