Thứ Ba, 11 tháng 6, 2019

125/11. CHUYỆN NGƯỜI LÍNH CANH MỘ / PHÚC ÂM KỂ LẠI THEO R.F. WILSON


11. CHUYỆN NGƯỜI LÍNH CANH MỘ


Khi kể về việc bọn lính La Mã thi hành lệnh đóng đinh Đức Giê-su trên Đồi Sọ và sau đó canh gác mộ Chúa vì sợ xác Người bị lấy trộm, Phúc Âm theo Thánh Gio-an không nhắc gì tới nhân vật đại đội trưởng ([1]) chỉ huy bọn lính ấy. 

Thánh Mát-thêu và Thánh Lu-ca chỉ nhắc tới ông ta một lần, mà không nói rõ tên gì:

Thấy động đất và các sự việc xảy ra, viên đi đi trưởng và những người cùng ông canh giữ Đức Giê-su đều rất đỗi sợ hãi và nói: “Quả thật ông này là Con Thiên Chúa. (Mát-thêu 27:54)

Thấy sự việc xảy ra như thế, viên đi đi trưởng cất tiếng tôn vinh Thiên Chúa rằng: “Người này đích thực là người công chính!” (Lu-ca 23:47)

Thánh Mác-cô nhắc tới ông ta hai lần, nhưng cũng không nói rõ tên gì:

Viên đi đi trưởng đứng đối diện với Đức Giê-su, thấy Người tắt thở như vậy liền nói: “Quả thật, người này là Con Thiên Chúa.” (…) Nghe nói Người đã chết, ông Phi-la-tô lấy làm ngạc nhiên, và cho đòi viên đi đi trưởng đến, hỏi xem Người đã chết lâu chưa. (Mác-cô 15:39, 44)

Mục sư Wilson với văn tài của mình đã hư cấu nên đại đội trưởng Cát-xi-ô trong Chuyện Người Lính Canh Mộ (A Soldier’s View of the Tomb).

Ralph F. Wilson kể chuyện như sau

Cát-xi-ô đứng nghiêm như pho tượng trước mặt viên sĩ quan chỉ huy quân đội thành Giê-ru-sa-lem. Viên sĩ quan quát: “Đại đội trưởng, giải trình đi! Một trong những toán lính của anh được giao canh giữ một ngôi mộ, một người chết. Việc đó có gì mà khó khăn thế hử? Bây giờ thì ta đang nghe đồn rùm lên rằng cái xác biến mất. Hãy nói với ta rằng tất cả chuyện này là một sai lầm!”

“Thưa ngài, tôi có thể thẳng thắn được không, một người lính già nói với một người lính?” Đại đội trưởng hỏi. Hai người đã biết nhau một thời gian dài, dù quan bảo hộ thuộc giai cấp kỵ binh trung lưu giàu có,([2]) còn anh chỉ là hạng dân quèn.

“Mời anh, Cát-xi-ô.” Quan bảo hộ có phần dịu giọng hơn, và ra dấu cho đại đội trưởng ngồi xuống.

“Tôi phải cầu xin ngài tha tội.” Cát-xi-ô bắt đầu. “Chuyện này quả thật khởi sự từ tuần trước.”

“Cứ thong thả.” Quan bảo hộ nói, hơi bớt gay gắt.

“Suốt từ lúc ông Giê-su này bắt đầu rao giảng quanh thành Giê-ru-sa-lem cho đến nay, chúng ta nghĩ ông ấy có lẽ là loại người nào đó có xu hướng nổi loạn, sách động quần chúng bằng câu chuyện ông ta kể về Nước Trời. Nhưng, thưa ngài, tôi đã tới nghe ông ta giảng. Ông ta không phải là mối đe dọa. Hàng ngàn người thường ngồi say mê chăm chú trong khi ông ta nói về Cha ông ấy, về yêu thương người lân cận, về tha thứ tội lỗi quá khứ, và bắt đầu một đời sống mới. Thưa ngài, ông ta nói thật lôi cuốn, làm cho ngài cảm thấy như thể ông ta săn sóc riêng ngài, mà ông ta thật sự là vậy đó.”

Quan bảo hộ tì cằm lên bàn tay: “Kể tiếp đi.”

“Lần kế tiếp tôi nhìn thấy ông ta khi chúng tôi được lịnh đứng gác bên ngoài dinh tổng trấn. Đám đông đang trở nên đáng sợ. Ngài Phong-xi-ô Phi-la-tô đang ngồi đó trên ghế xét xử còn ông Giê-su thì đứng trước mặt quan tổng trấn. Thưa ngài, ông ta đã bị đối xử có phần thô bạo.”

“Đại đội trưởng, anh mong đợi gì đây?”

Cát-xi-ô nói tiếp: “Cuối cùng ngài Phi-la-tô ra dấu cho mọi người im lặng. Ngài ấy nói lớn: ‘Ta không thấy người này có tội gì.’ Rồi ngài ấy cố trả tự do cho ông Giê-su. Ngài yêu cầu họ chọn lựa giữa tên sát nhân Ba-ra-ba và ông Giê-su.”

“Và giờ đây tên tội phạm Ba-ra-ba đang nhởn nhơ ngoài kia.” Quan bảo hộ nói.

“Những người Do Thái trong Thượng Hội Đồng ([3]) hò hét: ‘Đóng đinh hắn! Đóng đinh hắn!’ Đám đông kêu gào. Thưa ngài, tình hình thật nguy hiểm. Lúc ấy ngài Phi-la-tô sai mang tới thau nước và bắt đầu rửa hai bàn tay nhỏ bé trong sạch của mình…” ([4])

“Đại đội trưởng, ta không cho phép anh bất kính.” Quan bảo hộ cao giọng.

“Vâng, thưa ngài, nhưng ngài biết ông Giê-su vô tội, trong sạch. Ông ấy chỉ làm mích lòng một số thầy tu quyền thế. Nhưng khi ngài Phi-la-tô nhìn thấy hướng gió thì cũng xoay chiều. Tôi nghĩ rằng Rô-ma vốn dĩ là luật pháp và công bằng, chẳng phải là thủ đoạn.”

Quan bảo hộ cắt ngang: “Cai trị đôi khi là việc dơ bẩn, đại đội trưởng à.”

“Thưa ngài, nghề lính tráng cũng vậy thôi. Theo lệnh ngài, một trong mấy thằng lính của tôi được chọn để đánh đập người đàn ông kia.”

“Ồ, bọn chúng rất khoái chuyện đó.” Quan bảo hộ nói. “Tên lính cao lớn ấy… là Pu-li-ô, phải không nào? Theo ta nhớ thì hắn vung roi như thằng điên. Những mẩu sắt gắn trên roi xé rách lưng ông ta cho tới khi da toác từng miếng tả tơi và máu tha hồ tuôn đổ.”

Cát-xi-ô bình luận: “Trong nghề lính tráng hiếm khi tôi thấy ớn vì máu me, nhưng nhìn một người vô tội bị hành hạ ác độc đến thế...”

“Ta chẳng nhớ là anh có ngăn cản bọn lính hay không khi chúng choàng cho ông ta tấm áo choàng đỏ thắm, bắt ông ta đội mão gai và cầm cây sậy làm vương trượng.([5]) Ồ, bọn chúng vui thật.”

Cát-xi-ô đáp: “Trong đời tôi đã đóng đinh hàng trăm người lên thập giá, nhưng người đàn ông này lại khác hẳn. Ông ta chẳng nguyền rủa, không rên rỉ. Ông ta dở sống dở chết vì đòn roi thằng Pu-li-ô đánh đập, và đã gục ngã trên đường đi lên đồi Gôn-gô-tha.”

“Gục ngã ư?”

“Ông ta kiệt sức đâu vác nổi thập giá, thế nên chúng tôi bắt một người Ky-rê-nê vác thay.([6]) Sau đó chúng tôi đóng đinh ông Giê-su.”

“Tất cả đều chết một kiểu.”

“Ông ta chết không giống họ đâu.” Cát-xi-ô đáp. “Chúng tôi đóng đinh ông ta vào thanh ngang thập giá và kéo thẳng thập giá lên. Tôi sẽ chẳng bao giờ quên được lời ông ta cầu nguyện: ‘Xin Cha tha thứ cho họ, vì họ không biết việc họ đang làm.’ ([7]) Thưa ngài, tôi chịu trách nhiệm phải giết chết ông ta, mà ông ta lại tha thứ cho tôi.”

“Cát-xi-ô, anh đâu phải là lính mới vô nghề để phải khổ sở vì lương tâm cắn rứt?”

“Thế rồi tên trộm bị đóng đinh bên cạnh ông ta van xin khi nào ông Giê-su vào đến vương quốc của mình thì hãy nhớ tới hắn.” ([8])

“Vương quốc của Giê-su à!” Quan bảo hộ cười giễu cợt.

“Nhưng ngài hãy nghe ông ấy đáp: ‘Hôm nay anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng.’ ([9]) Lạ lùng thay! Thưa quan bảo hộ, khoảng giờ Ngọ, bầu trời tối sầm lại. Ai cũng thấy thế, và cảm thấy ớn lạnh khi ông ta kêu lớn: ‘Chúa của con, Chúa của con, sao lại bỏ mặc con?’ Giọng ông ấy nghe như người cô đơn nhất trên thế gian này, đang lơ lửng trong bóng tối. Ông ấy không nói một lời nào cho tới ba giờ chiều thì kêu lớn lên, như thể chiến thắng: ‘Vậy là xong.’ Và, nếu ngài lại gần lóng tai, ngài có thể nghe ông ấy thì thầm: ‘Con xin phó thác hồn con trong tay Cha.’

“Đúng lúc ấy mặt đất rung chuyển.” Cát-xi-ô kể tiếp. “Tôi ngã xuống đất. Rồi bóng tối bắt đầu tan đi. Thưa quan bảo hộ, tôi nói với ngài rằng chúng ta không đóng đinh một người bình thường đâu, ông ấy là Con Thiên Chúa.” ([10])

“Vì vài ba sự ngẫu nhiên trùng hợp dị kỳ mà anh bằng lòng tuyên bố ông ta là thần thánh ư? Ông ta chết như bất cứ ai thôi.”

“Thưa quan bảo hộ, không đúng đâu.”

“Không đúng à?”

“Các thượng tế và những người Pha-ri-sêu nằng nặc đòi ngài Phi-la-tô cho canh giữ mộ ông Giê-su để môn đồ ông ta không trộm lấy xác.” ([11])

“Ta biết. Ta đã ra lệnh đó.”

“Chúng tôi cắt ba người lính gác suốt ngày đêm không gián đoạn, cứ tám giờ đổi phiên một lần theo quy định. Tôi niêm phong mộ trước khi họ bắt đầu gác. Đảm bảo an toàn.”

“Vậy thì lời đồn cái xác biến mất là sao?”

“Thưa ngài, nó biến mất rồi.”

“Ta sẽ cho lột da anh, đại đội trưởng!” Quan bảo hộ quát ầm lên và đứng bật dậy.

Cát-xi-ô cũng đứng lên, nhưng tiếp tục nói: “Thưa ngài, khoảng bảy giờ sáng Chúa Nhật, ba người lính gác chạy nháo nhào vào doanh trại như thể gặp ma. Họ hét ầm lên: ‘Đại đội trưởng! Đại đội trưởng! Ông ấy còn sống!’ Tôi chờ họ trấn tĩnh lại và bắt họ kể lại tỉ mỉ đầu đuôi.

“Họ bảo, phiên gác của họ bắt đầu lúc nửa đêm. Họ tỉnh táo suốt canh khuya, tán chuyện bồ bịch ở quê nhà. Thế rồi, ngay trước lúc rạng đông, họ nói nấm mộ trong vườn bừng sáng như thể đang giữa trưa, và một thiên thần y phục rực rỡ như tia chớp xuất hiện, đến vần hòn đá ra khỏi mộ. Bọn lính cứ ngồi ỳ ra đó run sợ. Rồi thì một tên nhổm dậy, là thằng Pu-li-ô, bọn chúng nói thế. Hắn nhìn vào trong mộ. Cái xác không còn, mớ vải liệm nằm trên trên phiến đá vôi, còn cuộn tròn y nguyên, mà bên trong chẳng thấy xác đâu.”

Quan bảo hộ giọng khinh khỉnh: “Anh mong tôi tin chuyện đó sao?”


“Tôi đã thẩm vấn bọn lính gắt gao. Mỗi đứa đều ngó nhìn. Đứa nào cũng thấy như nhau. Cái xác không còn.”

“Tụi nó ắt hẳn đã ngủ gục, và bịa chuyện để che đậy.”

“Thưa ngài, bọn họ đều đã dày dạn trận mạc, đâu phải lính mới tò te. Tôi biết những con người đó. Hơn nữa, thưa ngài, ngài không nghĩ là khi người ta vần hòn đá to tướng thì tiếng động sẽ đánh thức bọn lính gác đang ngủ sao? Không dối trá đâu, chúng đang kể sự thật.”

“Đại đội trưởng, anh muốn tôi nói gì với dân chúng đây? Rằng ông ta sống lại ư?”

“Thưa quan bảo hộ, tôi không biết ngài sẽ nói gì, nhưng đó là chuyện đã xảy ra. Ông ấy còn sống. Tôi nói với ngài là ông ấy còn sống.”

“Chúng ta sẽ bảo bọn lính nói rằng chúng ngủ gục và môn đồ ông ta đã trộm lấy xác.” Quan bảo hộ gợi ý.

“Lính nào mà chịu nói mình ngủ gục?” Cát-xi-ô hỏi với nụ cười thoáng nở trên gương mặt.

“Chúng ta sẽ chi tiền cho chúng nói thế.” Quan bảo hộ đáp. “Các thượng tế mắc nợ chúng ta. Họ sẽ đến với cả đống tiền để ỉm luôn câu chuyện này… Đại đội trưởng, từ giờ trở đi ta sẽ lo liệu việc này. Anh chẳng thấy gì cả. Anh chẳng biết chi hết. Thủng chưa?”

“Thưa quan bảo hộ, nhưng tôi biết, quả tôi có thấy. Tôi không thể thay đổi chuyện đã xảy ra. Ông Giê-su đang còn sống ở ngoài kia. Còn hơn là đang sống nữa.”

“Cát-xi-ô, hãy quên là chuyện này từng xảy ra.”

“Thưa ngài, hãy quên đi nếu ngài có thể. Nhưng với tất cả lòng kính trọng ngài, tôi xác nhận ông Giê-su còn sống, và điều ấy thay đổi mọi thứ.”

Huệ Khải

Nhiêu Lộc, 03-5-2016

Sửa chữa 07-4-2019

Nguyệt san CGvDT, số 256, tháng 4-2016

(báo in muộn trong tháng 5)




([1]) đại đội trưởng (centurion): Chỉ huy một đại đội (century) với khoảng một trăm lính La Mã.
([2]) quan bảo hộ: tribune.
giai cấp kỵ binh trung lưu giàu có: equestrian class.
([3]) Thượng Hội Đồng: Sanhedrin.
([4]) Nhưng các thượng tế và kỳ mục lại xúi đám đông đòi tha tên Ba-ra-ba mà giết Đức Giê-su. (...) Tổng trấn Phi-la-tô thấy đã chẳng được ích gì mà còn thêm náo động, nên lấy nước rửa tay trước mặt đám đông mà nói: “Ta vô can trong vụ đổ máu người này. Mặc các người liệu lấy!” (Mát-thêu 23:20, 24)
([5]) Chúng lột áo Người ra, khoác cho Người một tấm áo choàng đỏ, rồi kết một vòng gai làm vương miện đặt lên đầu Người, và trao vào tay mặt Người một cây sậy. (Mát-thêu 23:28, 29)
([6]) Khi điệu Đức Giê-su đi, họ bắt một người từ miền quê lên, tên là Si-môn, gốc Ky-rê-nê, đặt thập giá lên vai cho ông vác theo sau Đức Giê-su. (Lu-ca 23:26)
([7]) Bấy giờ Đức Giê-su cầu nguyện rằng: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm.” (Lu-ca 23:34)
([8]) Rồi anh ta thưa với Đức Giê-su: “Ông Giê-su ơi, khi ông vào Nước của ông, xin nhớ đến tôi!” (Lu-ca 23:42)
([9]) Và Người nói với anh ta: “Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng.” (Lu-ca 23:43)
([10]) Thấy sự việc xảy ra như thế, viên đại đội trưởng cất tiếng tôn vinh Thiên Chúa rằng: “Người này đích thực là người công chính!” (Lu-ca 23:47)
([11]) Hôm sau, (...), các thượng tế và những người Pha-ri-sêu kéo nhau đến ông Phi-la-tô, và nói: “Thưa ngài, chúng tôi nhớ tên bịp bợm ấy khi còn sống có nói: ‘Sau ba ngày, Ta sẽ trỗi dậy.’ Vậy xin quan lớn truyền canh mộ kỹ càng cho đến ngày thứ ba, kẻo môn đệ hắn đến lấy trộm xác rồi phao trong dân là hắn đã từ cõi chết trỗi dậy.” (Mát-thêu 27:62-64)