11. CHUYỆN NGƯỜI LÍNH CANH MỘ
Khi kể về việc bọn lính La Mã thi hành lệnh đóng đinh Đức Giê-su trên Đồi
Sọ và sau đó canh gác mộ Chúa vì sợ xác Người bị lấy trộm, Phúc Âm theo Thánh
Gio-an không nhắc gì tới nhân vật đại đội trưởng ([1]) chỉ huy bọn lính ấy.
Thánh Mát-thêu và Thánh Lu-ca chỉ nhắc tới ông ta một lần, mà không nói
rõ tên gì:
Thấy động đất và các sự việc
xảy ra, viên đại đội trưởng và những người cùng ông canh
giữ Đức Giê-su đều rất đỗi sợ hãi và nói: “Quả thật ông này là Con Thiên Chúa.” (Mát-thêu 27:54)
Thấy sự việc xảy ra như thế,
viên đại đội trưởng cất tiếng tôn vinh Thiên Chúa rằng:
“Người này đích thực là người công chính!” (Lu-ca 23:47)
Thánh Mác-cô nhắc tới ông ta hai lần, nhưng cũng không nói rõ tên gì:
Viên đại đội
trưởng đứng đối diện với Đức Giê-su, thấy Người tắt thở như vậy liền nói:
“Quả thật, người này là Con Thiên Chúa.” (…) Nghe nói Người đã chết, ông Phi-la-tô lấy làm ngạc nhiên, và cho đòi
viên đại đội trưởng đến, hỏi xem Người đã chết lâu chưa.
(Mác-cô 15:39, 44)
Mục sư Wilson với văn tài của mình đã hư cấu nên đại
đội trưởng Cát-xi-ô trong Chuyện Người Lính Canh Mộ (A Soldier’s View of the Tomb).
Ralph F. Wilson kể chuyện
như sau
Cát-xi-ô đứng nghiêm như pho tượng trước mặt
viên sĩ quan chỉ huy quân đội thành Giê-ru-sa-lem. Viên sĩ quan quát: “Đại đội trưởng, giải trình đi!
Một trong những toán lính của anh được giao canh giữ một ngôi mộ, một người
chết. Việc đó có gì mà khó khăn thế hử? Bây giờ thì ta đang nghe đồn rùm lên
rằng cái xác biến mất. Hãy nói với ta rằng tất cả chuyện này là một sai lầm!”
“Thưa ngài,
tôi có thể thẳng thắn được không, một người lính già nói với một người lính?”
Đại đội trưởng hỏi. Hai người đã biết nhau một thời gian dài, dù quan bảo hộ thuộc
giai cấp kỵ binh trung lưu giàu có,([2]) còn anh chỉ là hạng dân quèn.
“Mời anh, Cát-xi-ô.” Quan bảo
hộ có phần dịu giọng hơn, và ra dấu cho đại đội trưởng ngồi xuống.
“Tôi phải cầu
xin ngài tha tội.” Cát-xi-ô bắt đầu. “Chuyện này quả thật khởi sự từ tuần
trước.”
“Cứ thong
thả.” Quan bảo hộ nói, hơi bớt gay gắt.
“Suốt từ lúc
ông Giê-su này bắt đầu rao giảng quanh thành Giê-ru-sa-lem cho đến nay, chúng
ta nghĩ ông ấy có lẽ là loại người nào đó có xu hướng nổi loạn, sách động quần
chúng bằng câu chuyện ông ta kể về Nước Trời. Nhưng, thưa ngài, tôi đã tới nghe
ông ta giảng. Ông ta không phải là mối đe dọa. Hàng ngàn người thường ngồi say
mê chăm chú trong khi ông ta nói về Cha ông ấy, về yêu thương người lân cận, về
tha thứ tội lỗi quá khứ, và bắt đầu một đời sống mới. Thưa ngài, ông ta nói thật
lôi cuốn, làm cho ngài cảm thấy như thể ông ta săn sóc riêng ngài, mà ông ta
thật sự là vậy đó.”
Quan bảo hộ
tì cằm lên bàn tay: “Kể tiếp đi.”
“Lần kế tiếp
tôi nhìn thấy ông ta khi chúng tôi được lịnh đứng gác bên ngoài dinh tổng trấn.
Đám đông đang trở nên đáng sợ. Ngài Phong-xi-ô Phi-la-tô đang ngồi đó trên ghế
xét xử còn ông Giê-su thì đứng trước mặt quan tổng trấn. Thưa ngài, ông ta đã
bị đối xử có phần thô bạo.”
“Đại đội
trưởng, anh mong đợi gì đây?”
Cát-xi-ô nói
tiếp: “Cuối cùng ngài Phi-la-tô ra dấu cho mọi người im lặng. Ngài ấy nói lớn:
‘Ta không thấy người này có tội gì.’ Rồi ngài ấy cố trả tự do cho ông Giê-su.
Ngài yêu cầu họ chọn lựa giữa tên sát nhân Ba-ra-ba và ông Giê-su.”
“Và giờ đây
tên tội phạm Ba-ra-ba đang nhởn nhơ ngoài kia.” Quan bảo hộ nói.
“Những người
Do Thái trong Thượng Hội Đồng ([3]) hò hét: ‘Đóng đinh hắn! Đóng đinh
hắn!’ Đám đông kêu gào. Thưa ngài, tình hình thật nguy hiểm. Lúc ấy ngài Phi-la-tô
sai mang tới thau nước và bắt đầu rửa hai bàn tay nhỏ bé trong sạch của mình…” ([4])
“Đại đội
trưởng, ta không cho phép anh bất kính.” Quan bảo hộ cao giọng.
“Vâng, thưa
ngài, nhưng ngài biết ông Giê-su vô tội, trong sạch. Ông ấy chỉ làm mích lòng
một số thầy tu quyền thế. Nhưng khi ngài Phi-la-tô nhìn thấy hướng gió thì cũng
xoay chiều. Tôi nghĩ rằng Rô-ma vốn dĩ là luật pháp và công bằng, chẳng phải là
thủ đoạn.”
Quan bảo hộ cắt
ngang: “Cai trị đôi khi là việc dơ bẩn, đại đội trưởng à.”
“Thưa ngài,
nghề lính tráng cũng vậy thôi. Theo lệnh ngài, một trong mấy thằng lính của tôi
được chọn để đánh đập người đàn ông kia.”
“Ồ, bọn chúng
rất khoái chuyện đó.” Quan bảo hộ nói. “Tên lính cao lớn ấy… là Pu-li-ô, phải
không nào? Theo ta nhớ thì hắn vung roi như thằng điên. Những mẩu sắt gắn trên
roi xé rách lưng ông ta cho tới khi da toác từng miếng tả tơi và máu tha hồ
tuôn đổ.”
Cát-xi-ô bình
luận: “Trong nghề lính tráng hiếm khi tôi thấy ớn vì máu me, nhưng nhìn một
người vô tội bị hành hạ ác độc đến thế...”
“Ta chẳng nhớ
là anh có ngăn cản bọn lính hay không khi chúng choàng cho ông ta tấm áo choàng
đỏ thắm, bắt ông ta đội mão gai và cầm cây sậy làm vương trượng.([5]) Ồ, bọn chúng vui thật.”
Cát-xi-ô đáp: “Trong đời tôi đã đóng đinh hàng trăm người lên thập giá,
nhưng người đàn ông này lại khác hẳn. Ông ta chẳng nguyền rủa, không rên rỉ. Ông ta dở sống dở chết vì đòn roi
thằng Pu-li-ô đánh đập, và đã gục ngã trên đường đi lên đồi Gôn-gô-tha.”
“Gục ngã ư?”
“Ông ta kiệt
sức đâu vác nổi thập giá, thế nên chúng tôi bắt một người Ky-rê-nê vác thay.([6]) Sau đó chúng tôi đóng đinh ông Giê-su.”
“Tất cả đều
chết một kiểu.”
“Ông ta chết
không giống họ đâu.” Cát-xi-ô đáp. “Chúng tôi đóng đinh ông ta vào thanh ngang
thập giá và kéo thẳng thập giá lên. Tôi sẽ chẳng bao giờ quên được lời ông ta
cầu nguyện: ‘Xin Cha tha thứ cho họ, vì họ không biết việc họ đang làm.’ ([7]) Thưa ngài, tôi chịu trách nhiệm
phải giết chết ông ta, mà ông ta lại tha thứ cho tôi.”
“Cát-xi-ô,
anh đâu phải là lính mới vô nghề để phải khổ sở vì lương tâm cắn rứt?”
“Thế rồi tên
trộm bị đóng đinh bên cạnh ông ta van xin khi nào ông Giê-su vào đến vương quốc
của mình thì hãy nhớ tới hắn.” ([8])
“Vương quốc của Giê-su à!” Quan bảo hộ cười giễu cợt.
“Nhưng ngài hãy nghe ông ấy đáp: ‘Hôm nay anh sẽ được ở với tôi trên
Thiên Đàng.’ ([9]) Lạ lùng thay! Thưa quan bảo hộ, khoảng giờ Ngọ, bầu
trời tối sầm lại. Ai cũng thấy thế, và cảm thấy ớn lạnh khi ông ta kêu lớn:
‘Chúa của con, Chúa của con, sao lại bỏ mặc con?’ Giọng ông ấy nghe như người
cô đơn nhất trên thế gian này, đang lơ lửng trong bóng tối. Ông ấy không nói một lời nào cho tới ba giờ chiều thì kêu lớn lên,
như thể chiến thắng: ‘Vậy là xong.’ Và, nếu ngài lại gần lóng tai, ngài có
thể nghe ông ấy thì thầm: ‘Con xin phó thác hồn con trong tay Cha.’
“Đúng lúc ấy mặt đất rung chuyển.” Cát-xi-ô kể tiếp. “Tôi ngã xuống
đất. Rồi bóng tối bắt đầu tan đi. Thưa quan bảo hộ, tôi nói với ngài rằng chúng
ta không đóng đinh một người bình thường đâu, ông ấy là Con Thiên Chúa.” ([10])
“Vì vài ba sự ngẫu nhiên trùng hợp dị kỳ mà anh bằng lòng tuyên bố ông ta
là thần thánh ư? Ông ta chết như bất cứ ai thôi.”
“Thưa quan bảo hộ, không đúng đâu.”
“Không đúng à?”
“Các thượng tế và những người Pha-ri-sêu nằng nặc đòi ngài Phi-la-tô cho
canh giữ mộ ông Giê-su để môn đồ ông ta không trộm lấy xác.” ([11])
“Ta biết. Ta đã ra lệnh đó.”
“Chúng tôi cắt ba người lính gác suốt ngày đêm không gián đoạn, cứ tám
giờ đổi phiên một lần theo quy định. Tôi niêm phong mộ trước khi họ bắt đầu
gác. Đảm bảo an toàn.”
“Vậy thì lời đồn cái xác biến mất là sao?”
“Thưa ngài, nó biến mất rồi.”
“Ta sẽ cho lột da anh, đại đội trưởng!” Quan bảo hộ quát ầm lên và đứng
bật dậy.
Cát-xi-ô cũng đứng lên, nhưng tiếp tục nói: “Thưa ngài, khoảng bảy giờ
sáng Chúa Nhật, ba người lính gác chạy nháo nhào vào doanh trại như thể gặp ma.
Họ hét ầm lên: ‘Đại đội trưởng! Đại đội trưởng! Ông ấy còn sống!’ Tôi chờ
họ trấn tĩnh lại và bắt họ kể lại tỉ mỉ đầu đuôi.
“Họ bảo, phiên gác của họ bắt đầu lúc nửa
đêm. Họ tỉnh táo suốt canh khuya, tán chuyện bồ bịch ở quê nhà. Thế rồi, ngay
trước lúc rạng đông, họ nói nấm mộ trong vườn bừng sáng như thể đang giữa trưa,
và một thiên thần y phục rực rỡ như tia chớp xuất hiện, đến vần hòn đá ra khỏi
mộ. Bọn lính cứ ngồi ỳ ra đó run sợ. Rồi thì một tên nhổm dậy, là thằng Pu-li-ô,
bọn chúng nói thế. Hắn nhìn vào trong mộ. Cái xác không còn, mớ vải liệm nằm
trên trên phiến đá vôi, còn cuộn tròn y nguyên, mà bên trong chẳng thấy xác đâu.”
Quan bảo hộ giọng khinh khỉnh: “Anh mong tôi tin chuyện đó sao?”
“Tôi đã thẩm vấn bọn lính gắt gao. Mỗi đứa đều ngó nhìn. Đứa nào cũng
thấy như nhau. Cái xác không còn.”
“Tụi nó ắt hẳn đã ngủ gục, và bịa chuyện để che đậy.”
“Thưa ngài, bọn họ đều đã dày dạn trận mạc, đâu phải lính mới tò te. Tôi
biết những con người đó. Hơn nữa, thưa ngài, ngài không nghĩ là khi người ta
vần hòn đá to tướng thì tiếng động sẽ đánh thức bọn lính gác đang ngủ sao?
Không dối trá đâu, chúng đang kể sự thật.”
“Đại đội trưởng, anh muốn tôi nói gì với dân chúng đây? Rằng ông ta sống
lại ư?”
“Thưa quan bảo hộ, tôi không biết ngài sẽ nói gì, nhưng đó là chuyện đã
xảy ra. Ông ấy còn sống. Tôi nói với ngài là ông ấy còn sống.”
“Chúng ta sẽ bảo bọn lính nói rằng chúng ngủ gục và môn đồ ông ta đã trộm
lấy xác.” Quan bảo hộ gợi ý.
“Lính nào mà chịu nói mình ngủ gục?” Cát-xi-ô hỏi với nụ cười thoáng nở trên
gương mặt.
“Chúng ta sẽ chi tiền cho chúng nói thế.” Quan bảo hộ đáp. “Các thượng tế
mắc nợ chúng ta. Họ sẽ đến với cả đống tiền để ỉm luôn câu chuyện này… Đại đội
trưởng, từ giờ trở đi ta sẽ lo liệu việc này. Anh chẳng thấy gì cả. Anh chẳng
biết chi hết. Thủng chưa?”
“Thưa quan bảo hộ, nhưng tôi biết, quả tôi có thấy. Tôi không thể thay
đổi chuyện đã xảy ra. Ông Giê-su đang còn sống ở ngoài kia. Còn hơn là đang
sống nữa.”
“Cát-xi-ô, hãy quên là chuyện này từng xảy ra.”
“Thưa ngài,
hãy quên đi nếu ngài có thể. Nhưng với tất cả lòng kính trọng ngài, tôi xác
nhận ông Giê-su còn sống, và điều ấy thay đổi mọi thứ.”
Huệ Khải
Nhiêu Lộc, 03-5-2016
Sửa
chữa 07-4-2019
Nguyệt san CGvDT,
số 256, tháng 4-2016
(báo in muộn trong tháng 5)
([11]) Hôm sau, (...), các thượng tế và những người
Pha-ri-sêu kéo nhau đến ông Phi-la-tô, và nói: “Thưa ngài, chúng tôi nhớ tên
bịp bợm ấy khi còn sống có nói: ‘Sau ba ngày, Ta sẽ trỗi dậy.’ Vậy xin quan lớn
truyền canh mộ kỹ càng cho đến ngày thứ ba, kẻo môn đệ hắn đến lấy trộm xác rồi
phao trong dân là hắn đã từ cõi chết trỗi dậy.” (Mát-thêu 27:62-64)