Thứ Ba, 11 tháng 6, 2019

125/9. ƠN CỨU ĐỘ CHO NGƯỜI HOÁN CẢI / PHÚC ÂM KỂ LẠI THEO R.F. WILSON


9. ƠN CỨU ĐỘ CHO NGƯỜI HOÁN CẢI


Phúc Âm theo Thánh Lu-ca (19:1-10) chép:
Sau khi vào Giê-ri-khô, Đức Giê-su đi ngang qua thành phố ấy. Ở đó có một người tên là Da-kêu; ông đứng đầu những người thu thuế, và là người giàu có. Ông ta tìm cách để xem cho biết Đức Giê-su là ai, nhưng không được, vì dân chúng thì đông, mà ông ta lại lùn. Ông liền chạy tới phía trước, leo lên một cây sung để xem Đức Giê-su, vì Người sắp đi qua đó. Khi Đức Giê-su tới chỗ ấy, thì Người nhìn lên và nói với ông: “Này ông Da-kêu, xuống mau đi, vì hôm nay tôi phải ở lại nhà ông!” Ông vội vàng tụt xuống, và mừng rỡ đón rước Người. Thấy vậy, mọi người xầm xì với nhau : “Nhà người tội lỗi mà ông ấy cũng vào trọ!” Ông Da-kêu đứng đó thưa với Chúa rằng: “Thưa Ngài, đây phân nửa tài sản của tôi, tôi cho người nghèo; và nếu tôi đã chiếm đoạt của ai cái gì, tôi xin đền gấp bốn.” Đức Giê-su mới nói về ông ta rằng: “Hôm nay, ơn cứu độ đã đến cho nhà này, bởi người này cũng là con cháu tổ phụ Áp-ra-ham. Vì Con Người [Đức Giê-su] đến để tìm và cứu những gì đã mất.”

Theo Nhóm Phiên Dịch Các Giờ Kinh Phụng Vụ (PDCGKPV), bài tường thuật này chỉ có trong sách Lu-ca, minh họa đề tài hoán cải,([1]) một đề tài rất được Thánh tông đồ Lu-ca ưa chuộng. Sự hoán cải của người thu thuế này làm nổi bật vai trò của Đức Giê-su, Người đến để tìm và cứu những gì đã mất.
Khi biết là Đức Giê-su sắp ghé nhà ông Da-kêu, đám đông xầm xì: “Nhà người tội lỗi mà ông ấy cũng vào trọ!” Nhóm PDCGKPV giải thích: Theo quan niệm của người Do Thái, ai lui tới giao thiệp với người tội lỗi cũng bị nhiễm uế, đáng khiển trách.
Ông Da-kêu thưa với Chúa: “Thưa Ngài, đây phân nửa tài sản của tôi, tôi cho người nghèo; và nếu tôi đã chiếm đoạt của ai cái gì, tôi xin đền gấp bốn.” Nhóm PDCGKPV giải thích: Luật Do Thái chỉ buộc đền gấp bốn tội trộm chiên [cừu], và luật Rô-ma, tội trộm có chứng cứ. Phần ông Da-kêu, ông tự buộc mình đền gấp bốn cho tất cả những thiệt thòi ông đã gây nên: một sự rộng rãi phi thường.
Nghe vậy, Đức Giê-su dạy: “Hôm nay, ơn cứu độ đã đến cho nhà này (...).” Nhóm PDCGKPV giải thích: Lòng quảng đại của ông Da-kêu chứng tỏ ông đã đón nhận ơn tha thứ và cứu độ.
Đức Giê-su nói với đám đông rằng ông Da-kêu “cũng là con cháu tổ phụ Áp-ra-ham.” Nhóm PDCGKPV giải thích: Không phải theo huyết thống, nhưng vì thuộc về dân riêng của Thiên Chúa. Mặc dù hành nghề thu thuế, bị coi là một nghề tội lỗi, ông Da-kêu xứng đáng là con của tổ phụ Áp-ra-ham nhờ lòng quảng đại của ông.
Đức Chúa lại dạy: “Vì Con Người [Đức Giê-su] đến để tìm và cứu những gì đã mất.” Nhóm PDCGKPV giải thích: Câu kết này nhấn mạnh đến vai trò của Đức Giê-su trong cuộc hoán cải của ông Da-kêu.
Lấy cảm hứng từ đoạn Phúc Âm dẫn trên, mục sư Wilson kể câu chuyện Đứng Cao Lên (Standing Tall) theo cách riêng của ông.
Ralph F. Wilson kể chuyện như sau
“Mình không lùn. Mình sẽ cho họ thấy.” Con người loắt choắt ấy hay tự nhủ như thế. Và qua nhiều năm ông ta đã tìm nhiều cách chứng minh điều đó, chí ít là cho bản thân. Chẳng hạn, ông khám phá ra rằng tiền bạc có thể giúp mình. Một gã nhà giàu lúc nào cũng có bạn bè vây quanh, dẫu cho hắn có thấp có lùn đi nữa.
Dĩ nhiên một số người không tán thành cái cách ông Da-kêu tom góp tiền bạc. Con người lý tài loắt choắt này là một cái bánh xe răng cưa cỏn con nhưng không ngừng trở nên quan trọng trong cỗ máy tài chánh to đùng vận chuyển tiền bạc từ các tỉnh xa xôi của đế quốc rót vào các tủ két của La Mã. Khởi đầu chỉ là một gã thu thuế quèn, thế rồi ông được giao cho một “lãnh địa” để hàng năm bắt buộc phải moi ra được một số tiền nộp thuế cụ thể. Và ông ta phải cực khổ hành nghề bởi lẽ nhà nông và dân chài dễ gì chịu chia lìa đồng tiền dính liền khúc ruột của họ.
Con người loắt choắt ấy thường phải giở đủ trò nài ép, dọa nạt, phỉnh phờ người đóng thuế. Ông ta thường hét một số tiền cao ngất rồi chỉ giảm bớt chút ít khi nhìn thấy ánh mắt sợ sệt hoặc căm giận của họ. Vâng, ông phải cực khổ hành nghề. Nhưng cái hay của chế độ này là sau khi nộp ngân sách đủ số tiền thuế theo chỉ tiêu phân bổ, chỗ thừa lại là tiền của ông, bất kể bao nhiêu.
Quyền lực cũng hữu ích nữa. Sự đe dọa bị lính La Mã xông vào tiệm tịch thu hết trọi kho hàng đã khiến các nhà buôn chịu thua, không dám tranh cãi. Và mấy năm trước ông Da-kêu được lên chức. Làm sếp sở thuế trong huyện, giờ đây ông có nhiều nhân viên dưới tay. Những kẻ đó chấm mút tiền nộp thuế của dân chúng còn ông thì xà xẻo tiền của đám thuộc cấp, và phần còn lại - luôn luôn đúng boong chỉ tiêu phân bổ - sẽ chuyển tới quan tổng trấn La Mã, rồi từ đó dòng tiền sẽ chảy về tận Rô-ma. Người đàn ông thấp bé này được quyền lực nâng cao lên.
Dĩ nhiên quyền lực có cái giá của nó. “Quân phản bội nhơ nhuốc bợ đỡ La Mã.” Bá tánh thường xầm xì như thế khi thấy ông lon ton đi qua các đường phố nhỏ hẹp của Giê-ri-khô. Rau hư quả thối thường rơi lộp độp lên áo quần ông lúc ông rẽ vào một ô cửa. Cách nay đã lâu, đền thờ chánh thức cấm cửa ông. Người tự trọng chẳng ai bước tới cửa nhà ông.
Tuy nhiên tiền bạc và quyền lực quả thật mua được những bữa tiệc tùng linh đình. Một số thực khách của ông cũng là những kẻ “tội lỗi” khác trong vùng. Ông thường tự nhủ: “Ngươi là một tay quyền thế mà bá tánh phải kể đến, là một kẻ tai to mặt lớn trong thành phố này.”
Lạ lùng thay một kẻ tai to mặt lớn như ông Da-kêu lại háo hức khi nghe tin Đức Giê-su đang đi tới Giê-ri-khô trong buổi chiều hè bụi bặm này. Mặc kệ mớ sổ sách chưa rà soát và đống tiền nong chờ kiểm đếm, ông phải nhìn thấy Đức Giê-su, vị rao giảng mà bước chân rày đây mai đó đã làm khắp dải đất Pa-lét-tin rung chuyển.
Dân chúng chạy vụt qua mặt ông để ra tới bên ngoài thành phố nghênh đón Thầy Giê-su. Lợi dụng cơ hội này ông Da-kêu leo lên một cây sung tàn lá sum suê che mát con phố chánh. Hai vai ông ê ẩm khi ông kéo tấm thân lên một nhánh câu, nhưng ông chẳng để ý. Giờ đây ông có thể thấy được Đức Giê-su ở phía cuối đường, với hàng trăm thị dân nối gót theo sau. Đoàn người lại gần hơn, dấy lên những đám bụi.
Lúc ông Da-kêu có thể nhìn rõ được đám đông thì Thầy Giê-su dừng chân đứng yên trên đường. Ông Da-kêu cười thầm khi thấy những người không chú ý nên chạy đâm sầm vào những người ở phía sau Đức Giê-su. Thế rồi tất cả đứng lại. Có lẽ mình sẽ được nghe Thầy ấy giảng đạo, người đàn ông nhỏ bé nghĩ vậy.
Bấy giờ Đức Giê-su ngẩng lên nhìn cho tới khi bắt gặp ánh mắt ông Da-kêu. Và mọi người trong đám đông cũng ngước mắt ngó lên. Đức Giê-su nở nụ cười cách đặc biệt, không phải là cợt đùa, và có thể nghe rõ giọng Người trầm ấm trong lúc đám đông thinh lặng như tờ.
Người cất tiếng: “Này ông Da-kêu.” Tay thu thuế nghĩ: Sao Người lại biết tên mình? Toàn thân ông ta đỏ ửng: Sao Người lại biết tên mình?
Thầy Giê-su lại gọi: “Này ông Da-kêu, xuống mau đi. Hôm nay tôi phải ở lại nhà ông!”
Ông Da-kêu suýt rớt té khỏi nhánh cây. Nhà ông ư? Dĩ nhiên rồi! Nhà ông hẳn gây được ấn tượng với Đức Giê-su. Nhưng rồi lòng dạ con người thấp bé ấy rối beng lên. Đức Giê-su là một vị thánh, còn ông là kẻ tội lỗi. Đức Giê-su làm sao có thể tới nhà ông được! Người chẳng biết thế ư?
Thầy Giê-su biết chứ. “Ông này sắp ghé nhà kẻ tội lỗi.” Thầy có thể nghe ai đó lầm bầm như thế trong đám đông nhưng Thầy chỉ mỉm cười lần nữa, và ra dấu gọi kẻ ngồi trên nhánh cây leo xuống. Ông Da-kêu nói thầm: Đức Giê-su muốn nói chuyện với mình. Thầy biết tên mình. Thiên hạ nói gì cũng mặc, Thầy quan tâm tới mình.
Lúc ông Da-kêu xuống tới mặt đất, dòng lệ sướng vui bắt đầu tuôn trên đôi má. Đám đông đã dạt ra một tí, và ông phóng mình vào nơi Đức Giê-su đứng, phủ phục dưới chân Chúa. Ông cảm thấy một bàn tay ấm áp đặt lên vai và rồi một cánh tay đỡ ông đứng dậy. Ông nghĩ rằng ông thấy được trong mắt Đức Giê-su cũng đọng ngấn lệ.
Ông đứng lên, bắt đầu nói: “Thưa Chúa, giờ đây con đem tặng người nghèo phân nửa tài sản của con.” Lời ấy cứ thế mà tuôn ra khỏi miệng. Thiên hạ há hốc mồm không tin được; là cái lão Da-kêu rít róng đấy sao? Nhưng ông Da-kêu chưa nói hết: “Và nếu con đã lừa đảo chiếm đoạt bất kỳ thứ gì của bất kỳ một ai, thì con sẽ hoàn trả gấp bốn lần.”
Một ông đứng đủ gần để thấy hết mọi chuyện nói khẽ: “Ông ta có ý đó, ông ta sẽ làm thế.”
Đám đông bắt đầu xì xào khi những lời ông Da-kêu thưa với Đức Chúa được truyền từ người bên trong lan ra tới rìa bên ngoài. Hiếm ai nghe được lời Đức Giê-su khi Người ôm lấy gã đàn ông loắt choắt và hoan hỷ nói: “Hôm nay ơn cứu độ đã đến nhà này, bởi người này cũng là con cháu tổ phụ Áp-ra-ham.”
Nghe những lời này ông Da-kêu tự thấy mình cao vọt lên hết mức và tươi cười rạng rỡ. Con cháu tổ phụ Áp-ra-ham! Chính Thầy Giê-su nói thế. Ta là con cháu tổ phụ Áp-ra-ham.
Đức Giê-su đưa mắt nhìn khắp đám đông đang ngơ ngác, và bằng uy lực thuyết phục, Người nói với họ như thể chắt lọc mục đích trọn cả cuộc đời của Người trong vỏn vẹn một câu: “Con Người ([2]) đến để tìm và cứu những gì đã mất.”
Dõi mắt nhìn theo ông Da-kêu nửa như bước đi nửa như nhảy múa bên cạnh Đức Giê-su trên con đường dẫn về nhà tay thu thuế, một môn đệ thốt: “Tôi xin thề, xin thề rằng ông ta rốt cuộc trông chẳng còn loắt choắt, nhăm nhúm nữa.” Lấy tay gãi gãi vào chòm râu, môn đệ ấy nói tiếp: “Chả hiểu sao trông ông ta như cao lớn hơn.”
Và nói thật nhé, ông Da-kêu cảm thấy mình cao vọt lên hẳn.
Huệ Khải
Nhiêu Lộc, 28-5-2019
Nguyệt san CGvDT, số 295, tháng 7-2019



([1]) hoán cải: Cải hoán 改換 là thay đổi từ xấu trở nên tốt.
([2]) Con Người (Son of Man) là thuật ngữ Kinh Thánh, chỉ Đức Giê-su Ki-tô vừa mang nhân tính (humanity) vừa mang thần tính (divinity). Trong Phúc Âm, nhiều lần Đức Giê-su tự xưng là Con Người, với nghĩa là “Tôi”. Chẳng hạn:
- Ở dưới đất này, Con Người có quyền tha tội. (Lu-ca 5:24)
- Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết và sau ba ngày, sống lại. (Mác-cô 8:31)
- Từ nay, các ông sẽ thấy Con Người ngự bên hữu Đấng Toàn Năng và ngự giá mây trời mà đến. (Mát-thêu 25:64)