2. CÁI NÔI CỦA CHÚA
Về sự kiện ông Giu-se đưa bà Ma-ri-a đang
mang thai, rời Na-da-rét đi tới Bê-lem rồi sinh Chúa Hài Đồng, Phúc Âm theo
Thánh Lu-ca (2:1-20) chép như sau:
Thời
ấy, hoàng đế Au-gút-tô ra chiếu chỉ, truyền kiểm tra dân số trong khắp cả thiên
hạ. Đây là cuộc kiểm tra đầu tiên, được thực hiện thời ông Qui-ri-ni-ô làm tổng
trấn xứ Xy-ri. Ai nấy đều phải về nguyên quán mà khai tên tuổi. Bởi thế, ông
Giu-se từ thành Na-da-rét, miền Ga-li-lê lên thành vua Đa-vít tức là Bê-lem,
miền Giu-đê, vì ông thuộc gia đình dòng tộc vua Đa-vít. Ông lên đó khai tên
cùng với người đã thành hôn với ông là bà Ma-ri-a, lúc ấy đang có thai. Khi hai
người đang ở đó, thì bà Ma-ri-a đã tới ngày mãn nguyệt khai hoa. Bà sinh con
trai đầu lòng, lấy tã bọc con, rồi đặt nằm trong máng cỏ, vì hai ông bà không
tìm được chỗ trong nhà trọ.
Trong
vùng ấy, có những người chăn chiên sống ngoài đồng và thức đêm canh giữ đàn
vật. Bỗng sứ thần Chúa đứng bên họ, và vinh quang của Chúa chiếu tỏa chung
quanh, khiến họ kinh khiếp hãi hùng. Nhưng sứ thần bảo họ: “Anh em đừng sợ. Này
tôi báo cho anh em một tin mừng trọng đại, cũng là tin mừng cho toàn dân: Hôm
nay, một Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em trong thành vua Đa-vít, Người là
Đấng Ki-tô Đức Chúa. Anh em cứ dấu này mà nhận ra Người: Anh em sẽ gặp thấy một
trẻ sơ sinh bọc tã, nằm trong máng cỏ.” Bỗng có muôn vàn thiên binh hợp với sứ
thần cất tiếng ngợi khen Thiên Chúa rằng:
Vinh
danh Thiên Chúa trên trời,
Bình
an dưới thế cho loài người Chúa thương.
Khi
các thiên sứ từ biệt mấy người chăn chiên để về trời, những người này bảo nhau:
“Nào chúng ta sang Bê-lem, để xem sự việc đã xảy ra, như Chúa đã tỏ cho ta
biết.” Họ liền hối hả ra đi. Đến nơi, họ gặp bà Ma-ri-a, ông Giu-se, cùng với
Hài Nhi đặt nằm trong máng cỏ. Thấy thế, họ liền kể lại điều đã được nói với họ
về Hài Nhi này. Nghe các người chăn chiên thuật chuyện, ai cũng ngạc nhiên. Còn
bà Ma-ri-a thì hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy, và suy đi nghĩ lại trong lòng. Rồi
các người chăn chiên ra về, vừa đi vừa tôn vinh ca tụng Thiên Chúa, vì mọi điều
họ đã được mắt thấy tai nghe, đúng như đã được nói với họ.
Phúc Âm
theo Thánh Lu-ca như vậy đã chép chi tiết việc Đức Giê-su giáng sinh. Dựa theo
đó, họa sĩ Gerard van Honthorst (Hà Lan, 1617-1682) vào năm 1622 đã vẽ bức sơn
dầu trên bố Lòng Sùng Bái Của Các Mục
Đồng (The Adoration of the Shepherds).
Tuy
nhiên, Phúc Âm không cho chúng ta biết tấm lòng của ông Giu-se thương yêu, chăm
sóc, chở che, bảo bọc cho bà Ma-ri-a và Chúa Hài Đồng như thế nào. Bởi vậy, mục
sư Wilson với văn tài của mình, đã kể chuyện Cái Nôi (The Cradle) như
một bổ túc.
Ralph F. Wilson kể chuyện như sau
Họ rời nhà mình, cái nôi mới
tinh treo thòng xuống từ hàng rui trên mái vẫn đong đưa. Từng đêm lại từng đêm
mùi gỗ mới xẻ thơm lừng gian phòng khi ông Giu-se nhẫn nại đóng cái nôi nhỏ,
dùng những cưa đục quen thuộc mà ông thường rời tay vào lúc hoàng hôn.
Giờ đây ông Giu-se lau những giọt lệ trên
má bà Ma-ri-a và đóng lại cánh cửa sau lưng họ. Khi buộc chặt hành lý trên lưng
lừa, ông bảo bà: “Sẽ ổn thôi.”
“Anh Giu-se, mình không thể đợi thêm vài
hôm sao? Em bé có thể ra đời bất kỳ lúc nào.” Bà chẳng muốn rời nhà. Không muốn
đi lúc này.
“Chúng ta đã đợi em bé đủ lâu rồi.” Ông
đã sẵn sàng lên đường. “Chúng ta phải đi hôm nay, bằng không anh sẽ bị bắt vì
không có mặt ở Bê-lem để kiểm tra dân số.”
“Anh Giu-se, ít ra cũng mang theo cái
nôi.” Bà nài nỉ. “Em muốn con có món gì đó xinh xắn.”
“Không được. Phải bỏ nó lại. Sau này con
sẽ nằm trong đó, chẳng lâu đâu.”
“Đi nào, lừa!” Ông quát, quất mạnh vào
mông con vật để thúc nó bước đi. Con vật miễn cưỡng theo lệnh. Một tay ông Giu-se
dắt lừa, tay kia đỡ lấy bà Ma-ri-a giữ thăng bằng cho bà khi chầm chậm đi xuống
triền dốc. Cao cao trên kia, trong ngôi nhà của họ, cái nôi không còn đong đưa
nữa.
Năm ngày sau, và sau chín mươi dặm dài
nhọc nhằn rã rời xương cốt, ông Giu-se soát xét kỹ cái chuồng nhỏ mà hai ông bà
đang tạm trú bên ngoài thành Bê-lem đông đúc. Bà Ma-ri-a sắp tới lúc sinh con.
Ông cẩn thận giữ cho ngọn đèn không bén lửa sang đám rơm khô cũ. Cuối cùng ông
dọn được giường cho em bé là cái máng ăn bằng đá cũ kỹ đục vào vách hang đá vôi
dùng nhốt gia súc. Ông vói vào trong vét sạch mớ rơm vụn nát cuối cùng trên đáy
máng ẩm ướt. Ông lót trong lòng máng một bó cỏ khô còn mới, rồi lấy tấm chăn
gấp lại phủ lên trên để ngăn đám gia súc tới gần.
Đã quá nửa đêm khi Bà Ma-ri-a xong tất
việc rửa sạch và quấn tã cho em bé mới sinh. Giờ đây bà nhẹ nhàng bế hài nhi
đặt vào giường mới. Ông Giu-se quàng cánh tay lên vai bà khi cả hai chăm chăm
nhìn hài nhi say ngủ.
Bà Ma-ri-a chạm vào những ngón tay tí
xíu. “Cái nôi anh bỏ nhiều thời gian làm, giá mà có ở đây lúc này thì thật hay,
anh Giu-se à.” Bà ngước nhìn nóc hang thấp. “Lẽ ra anh có thể treo nó chỗ nào
đó trong này. Như em biết, chẳng hài nhi nào lại có được cái nôi giống như thế.
Cái nôi đó xứng đáng cho một vương tử.”
Ông Giu-se cười tươi và nói: “Đâu phải
đứa trẻ nào cũng có bố làm thợ mộc.” Nhưng rồi ông tự hỏi. Tại sao bé Giê-su
không thể ở nhà để được nằm trong cái nôi ấy? Tại sao hài nhi đặc biệt này lại
phải chào đời trong cái chuồng gia súc hôi hám? Mái nhà quê mùa trên đồi của
tay thợ mộc cũng đủ tệ lắm rồi. Cớ sao phải ở đây? Cớ sao lại là Bê-lem?
Câu trả lời chẳng lâu lắc gì đang đến.
Một chú nhỏ trộng tuổi thò đầu vào cửa, làm hai ông bà giật nảy mình. “Có em bé
nào ở đây không?” Chú lẩm bẩm theo kiểu biết mình có lỗi. Rồi chú thấy hài nhi.
Bà Ma-ri-a bế con lên, giấu khỏi đôi mắt kẻ lạ. Khuôn mặt nọ biến mất.
Ánh
mắt bà Ma-ri-a phản ánh nỗi âu lo của ông Giu-se. Ông
sãi bước tới cửa hang. Ông nghe được tiếng gọi từ xa: “Ở đằng này nè! Giếch tìm
thấy hài đồng rồi.” Trong bóng đêm, ông Giu-se nhận ra lố nhố những dáng người
đang tiến về phía ông. Ông nắm chặt chiếc gậy gỗ cứng rắn và cương quyết đứng
chắn ngay cửa hang.
Khi họ tới gần, ông nhận ra đó là những
mục đồng. Ông Giu-se xiết chặt chiếc gậy. Mục đồng lớn tuổi nhất ngập ngừng
nói: “Chúng tôi có thể vào trong không? Chúng tôi … a… tới xem Ki-tô Hài Đồng.”
Ông Giu-se liếc nhìn bà Ma-ri-a. Ông cảm
thấy như có con kiến bò dọc theo sống lưng. Việc này vượt quá sự tình cờ. Tất
cả chuỗi sự kiện kỳ diệu đã vượt xa khỏi sự ngẫu nhiên. Ông gật đầu và bước lùi
về phía máng cỏ. “Được, vào đi. Mời mọi người.”
Nhóm mục đồng len vào hang chật hẹp. Chú
nhỏ nhất xô con lừa qua một bên để nhìn rõ hơn. Họ quỳ xuống. “Vinh danh Chúa!”
Mục đồng cao tuổi rất mực kính cẩn thốt lên.
Một người khác kinh sợ thì thào: “Y hệt
như thiên thần mách bảo tụi mình. Thiên thần bảo: Nghe này! Ta mang niềm vui
tuôn tràn như nước lũ tới cho các ngươi, và cũng cho tất cả mọi người.”
Người cao tuổi nói chen vào, dâng trào
cảm xúc: “Tưởng tượng xem! Một thiên thần… nói chuyện với chúng ta.” Ông nói
thêm: “Chẳng có kẻ trịch thượng hợm mình nào trong thành này chịu hạ mình trò
chuyện với lũ mục đồng chúng ta. Nhưng thiên thần đã… Và hài đồng ở ngay đây trong
máng cỏ để cho chúng ta có thể tới chiêm ngưỡng.” Những dòng nước mắt tuôn dần
xuống gương mặt dãi dầu sương gió của lão.
Ông Giu-se nhìn lão không chớp mắt. Sau
cùng ông hỏi: “Làm sao các người tìm được chúng tôi?”
Chú bé lúc nãy thò đầu vào hang trước
tiên liền đáp: “Thiên thần bảo: Được sinh ra cho các ngươi…”
“Vâng, cho chúng ta!” Ông lão mặt sáng
bừng không thể tự kềm chế.
Chú bé thong thả nói, như thể để nhớ
chính xác từng lời từng chữ: “Được sinh ra cho các ngươi hôm nay trong thành
này của Đa-vít một Đấng Cứu Thế.”
Chú bé nhất cắt ngang: “Là nơi đây, Bê-lem,
nơi sinh của Đa-vít. Ông biết đấy, vua Đa-vít cũng là một mục đồng.”
Cậu trộng tuổi hơn tiếp lời: “… một Đấng
Cứu Thế, là Chúa Ki-tô.”
Người cao tuổi chỉ tay về phía hài nhi:
“Đấng Ki-tô, Đấng Cứu Độ… Đây là Đấng ấy!”
Một thanh niên nối lời: “Thiên thần nói
rất cụ thể: Và đây là dấu hiệu cho các ngươi. Các người sẽ tìm thấy một hài nhi
được bọc tã, nằm trong máng cỏ.” Anh chàng cười. “Làm sao chúng tôi lại không
tìm thấy chứ? Chúng tôi cứ việc chạy vào thành và soát xét từng chuồng gia súc
cho tới khi tìm thấy ông bà… tìm thấy hài đồng.” Ngừng một chút, anh ta hỏi:
“Ông bà biết ở Bê-lem này có bao nhiêu trẻ mới sinh nằm trong máng ăn gia súc
không?”
Ông Giu-se
cười thầm. Chuyện là thế đó. Chính Cha trên trời đã chọn giường cho
con Ngài. Một cái nôi đặc biệt. Một dấu hiệu cho những mục đồng thô lậu chất
phác này thấy rằng Chúa cũng quan phòng tới họ nữa.
Ông Giu-se xiết tay bà Ma-ri-a, thật chặt.
Huệ
Khải
Nhiêu Lộc, 08-12-2014
Sửa
chữa 04-4-2019