Thứ Ba, 11 tháng 6, 2019

125/4. XIN CHÚA DÙNG THUYỀN CỦA CON / PHÚC ÂM KỂ LẠI THEO R.F. WILSON


4. XIN CHÚA DÙNG THUYỀN CỦA CON


Phúc Âm theo Thánh Mát-thêu (4:18-20) chép về việc Đức Giê-su thu nhận hai anh em ngư phủ làm hai môn đệ đầu tiên trong nhóm mười hai tông đồ như sau:
Người đang đi dọc theo biển hồ Ga-li-lê, thì thấy hai anh em kia, là ông Si-môn, cũng gọi là Phê-rô, và người anh là ông An-rê, đang quăng chài xuống biển, vì các ông làm nghề đánh cá. Người bảo các ông: “Các anh hãy theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá.” Lập tức hai ông bỏ chài lưới mà đi theo Người.
Về việc Đức Giê-su chữa bệnh cho mẹ vợ ông Si-môn (tức Phê-rô), Phúc Âm theo Thánh Mát-thêu (8:14-15) chép ngắn gọn:
Đức Giê-su đến nhà ông Phê-rô, thấy bà mẹ vợ ông đang nằm liệt và lên cơn sốt. Người đụng vào tay bà, cơn sốt dứt ngay và bà trỗi dậy phục vụ Người.
Phúc Âm theo Thánh Gio-an (1:40-42) cho biết rằng trước khi được Đức Giê-su thu nhận làm môn đệ, ông An-rê đã gặp Chúa ở nơi Đức Gio-an Tẩy Giả (John the Baptist) giảng đạo. Sau đó ông dẫn em trai mình là ông Si-môn đến gặp Chúa.
Dựa trên ba sự kiện được ghi chép như trên, mục sư Wilson đã viết thành câu chuyện Xin Chúa Dùng Thuyền Của Con (Lord, You Can Use My Boat) vào ngày 26-9-1997, tại thành phố Ti-bê-ri-át nằm trên bờ phía tây của biển hồ Ga-li-lê thuộc nước Ít-ra-en.
Ralph F. Wilson kể chuyện như sau
“Thuyền đẹp đấy.”
Đang vá lưới, ông Si-môn ngẩng lên, thấy một vị cao ráo đang sờ vào con thuyền của ông. Chính là Đức Giêsu, người mà ông đã gặp lần đầu tại Giu-đê, lúc đang nghe Đức Gio-an Tẩy Giả giảng đạo. Ông Si-môn nghe nói giờ đây chính Đức Giê-su là một thầy giảng.
Mấy ngón tay Đức Giê-su đang rờ lên thân gỗ con thuyền của ông Si-môn, thán phục một công phu tinh xảo. Đức Giê-su khen: “Rất nhẵn.”
Ông Si-môn nói: “Thợ đóng thuyền Ben-gia-min làm xong mùa thu năm ngoái. Đây là con thuyền cuối cùng ông ấy đóng trước khi chết.”
Đức Giê-su vuốt bàn tay dọc theo các phiến gỗ bên hông thuyền. Chúa nói: “Trông kín kẽ lắm. Mấy chỗ mộng ráp vào rất khít khao. Hẳn là phải tốn nhiều thời gian.”
“Đúng thế!” Ông Si-môn rời tay khỏi tấm lưới. Nói chuyện thì sướng hơn vá lưới nhiều. “Hai cha con Ben-gia-min mất hết bảy tháng trời. Tôi cứ tưởng họ chẳng làm xong. Và ông ta lấy của tôi khá nhiều tiền. Nhưng tôi có được con thuyền tốt nhất trên hồ này.” Ông Si-môn nhổm dậy và bước tới con thuyền đã được kéo lên bờ biển hồ đầy sỏi đá. “Trông thầy có vẻ hiểu biết nghề mộc.”
“Tôi là thợ mộc giống như cha tôi.” Đức Giê-su nói, và chìa bàn tay ra. “Mừng gặp lại anh. Tôi ngó qua đuôi thuyền, anh không phiền chứ?”
Ông Si-môn thoáng lưỡng lự. Thuyền còn mới và ông chẳng muốn bất kỳ ai đụng chạm tới nó, nhất là người chả quen với thuyền bè. Nhưng lòng hãnh diện đã thắng nỗi băn khoăn. “Được mà. Nhưng thầy cẩn thận, đừng giẫm lên mớ dây thừng đó.”
Đức Giê-su leo vào thuyền, săm soi kỹ lưỡng: bánh lái, cọc chèo, buồm. Khi leo ra ngoài, Chúa nói: “Ben-gia-min đã đóng cho anh con thuyền hoàn hảo. Tiện thể, xế chiều nay tôi sẽ giảng dọc theo bờ biển. Không biết anh có thể giúp tôi sắp đặt chỗ cho mọi người ngồi chăng? Tôi cần người phụ một tay, nếu như anh có lòng tốt.”
“Hân hạnh giúp thầy, Giê-su.” Ông Si-môn thích được nhờ cậy, và cũng thích rằng một người thợ mộc đã khen con thuyền của ông là kiệt tác, và ông cũng biết như vậy.
Xế chiều ấy, sau khi cố gắng sắp đặt chỗ cho đám đông, Ông Si-môn ngồi nghe mê mẩn. Đức Giê-su giảng: “Ông mù mà anh em thấy đây đã được chữa sáng mắt,([1]) là bằng chứng cho quyền năng Chúa Trời đang ngự trị giữa anh em để cứu chữa cuộc sống anh em, giải thoát anh em, và ban cho anh em niềm vui sướng! Nước Trời ở ngay đây. Hãy quay lại mà sống đời công chính cùng Chúa Trời.”
Đây không phải là bài thuyết giáo từ chương của một thầy giảng lưu động bậc trung, trích dẫn lời thầy Giáp, thầy Ất để hậu thuẫn cho ý kiến của mình. Đức Giê-su giảng với một thẩm quyền đương nhiên, một sự minh bạch làm cho những kẻ Pha-ri-sêu giả dối đang có mặt trong đám đông phải câm nín còn bá tánh thì rơi lệ ăn năn xấu hổ. Khi mặt trời lặn và mọi người đứng dậy ra về, bản thân ông Si-môn rúng động. Ông ở đây, một ngư dân trần tục quen to mồm lớn tiếng. Liệu ông có sẵn sàng đón lấy Nước Trời và Đấng Cứu Thế? Vâng, ông là ngư dân giỏi. Nhưng là người thiện? Không hẳn đâu.
Giờ thì chẳng có thời gian để mà nghĩ ngợi. Đội thuyền của làng chài Ca-phác-na-um đã sẵn sàng ra khơi mở màn một đêm đánh cá. Ông Si-môn và người anh là ông An-rê lao mạnh thuyền xuống nước và đẩy đi thêm một đoạn để lấy trớn trước khi cả hai nhảy vào thuyền. Họ chèo ra khơi và quăng mẻ lưới đầu tiên. Họ thường bận bịu cả đêm, hết tung lưới xuống lại kéo lưới lên.
Ngay khi bình minh vừa ửng hồng nền trời, ông Si-môn và ông An-rê tung mẻ lưới sau cùng, sẵn sàng quay vào bờ, bán hết cá, rồi ngủ một giấc. Họ mất trọn một đêm dài, nhưng bắt được nhiều cá hơn cả so với tuần này.
“Si-môn.” Một tiếng gọi vang vọng trên mặt nước. “Si-môn.”
Ông Si-môn nhìn theo tấm lưới chìm xuống dưới mặt hồ rồi ngước lên. Chính là Đức Giê-su. Lời giảng về Nước Trời của Đức Giê-su đã làm ông thao thức suốt đêm.
“Si-môn.” Tiếng gọi vọng đến lần thứ ba. Ông Si-môn giơ bàn tay lên ra dấu đã nghe.
“Hãy theo Thầy!” Lời nói sắc gọn, mang tính mệnh lệnh. “Hãy theo Thầy, và Thầy sẽ làm hai anh trở thành những tay đánh lưới người.”
Đánh lưới người ư? Quăng lưới bắt người thay vì bắt cá à? Ý nghĩa gì thế? Nhưng Đức Giê-su đang gọi. Kìa, người đang gọi!
Với những cái phao còn dập dềnh, tấm lưới vẫn đang chìm dưới nước, nơi ông Si-môn đã quăng xuống, chờ mấy con cá hớ hênh mắc kẹt. Nhưng sáng hôm ấy lũ cá chẳng tìm ra đường nào để lên nằm trên mặt bàn ăn bữa sáng, vì cả hai anh em ông Si-môn và An-rê đã leo qua mạn thuyền mà bơi vào bờ. Nước rỏ giọt ròng ròng, họ buông mình quỳ sụp xuống trước Đức Giê-su.
“Si-môn.” Ông Si-môn có thể cảm nhận được bàn tay Chúa trên mái tóc rối nùi ướt sũng của ông. “Si-môn, hãy theo Thầy.”
Ông Si-môn ngẩng lên. “Vâng, thưa Chúa, con xin theo Chúa. Chúa đi đâu ạ?”
“Anh sẽ thấy.” Đức Giê-su nói, kéo nhẹ cánh tay ông Si-môn ra dấu cho anh đứng dậy. “Và này Si-môn, Thầy sẽ cần thuyền của anh.”
Con thuyền mới cáu của ông, niềm hãnh diện của đội thuyền chài trong thành phố ư? Đức Giê-su muốn lấy thuyền làm gì? Ông Si-môn ngẩng lên, đáp chậm rãi: “Dạ được, Chúa có thể dùng nó khi nào chúng con không cần dùng ạ.”
Đức Giê-su khăng khăng: “Nhưng Thầy đang cần nó. Anh là chủ nó, phải không?”
“Thưa Chúa, đương nhiên là con sở hữu cả con thuyền. Con mất ba năm mới kiếm đủ tiền tậu nó.”
“Và anh đã quyết định theo Thầy, phải không Si-môn?
“Vâng, dĩ nhiên rồi, thưa Chúa.”
Đức Giê-su nói: “Thế thì thuyền của anh cũng phải theo Thầy. Chẳng những riêng anh mà mọi thứ anh có đều cần theo Thầy, sẵn sàng theo lệnh Thầy khi Thầy cần tới.”
Ông Si-môn xấu hổ: “Vâng, thưa Chúa. Xin lấy thuyền đánh cá của con. Dùng nó bất cứ khi nào Chúa cần… Con thực lòng muốn vậy… Xin tha thứ tội ích kỷ của con.”
“Anh có nhà chứ, Si-môn?”
“Dạ, thưa Chúa, con có một mái nhà.”
“Thầy cũng cần nó nữa.”
“Nhà con ư?”
“Phải, nhà con.”
“Ơ, Chúa Giê-su. Con biết ăn nói sao đây? Mẹ vợ con đang sống chung với chúng con và hiện giờ bà không khỏe lắm. Con không biết chắc là có nên quấy rầy mẹ con không, vì bà đang sốt.”
“Thuyền của anh, căn nhà anh, và con người anh phải theo Thầy, Si-môn à.”
“Vâng, thưa Chúa.”
“Và Thầy sẽ lo cho mẹ vợ anh. Anh sẽ thấy. Sao anh không đưa Thầy về nhà?”
“Vâng, thưa Chúa.” Ông Si-môn đáp rồi cùng Đức Giê-su và ông An-rê rời bờ biển đi vào thành phố trong lúc vầng dương vừa lố dạng trên những ngọn đồi.
Huệ Khải
Nhiêu Lộc, 23-7-2015
Sửa chữa 05-4-2019
Nguyệt san CGvDT số 247, tháng 7-2015



([1]) Chuyện này xảy ra ở Bết-xai-đa. Xem Mác-cô 8:22-26.