8. TÔI CŨNG KHÔNG LÊN ÁN CHỊ ĐÂU
Phúc Âm theo Thánh Gio-an (8:2-11) chép:
Vừa tảng sáng [từ
núi Ô-liu], Người trở lại Đền Thờ. Toàn
dân đến với Người. Người ngồi xuống giảng dạy họ. Lúc đó, các kinh sư và người
Pha-ri-sêu dẫn đến trước mặt Đức Giê-su một phụ nữ bị bắt gặp đang ngoại tình.
Họ để chị ta đứng ở giữa, rồi nói với Người: "Thưa Thầy, người đàn bà này
bị bắt quả tang đang ngoại tình. Trong sách Luật, ông Mô-sê truyền cho chúng
tôi phải ném đá hạng đàn bà đó. Còn Thầy, Thầy nghĩ sao?” Họ nói thế nhằm thử
Người, để có bằng cớ tố cáo Người. Nhưng Đức Giê-su cúi xuống lấy ngón tay viết
trên đất. Vì họ cứ hỏi mãi, nên Người ngẩng lên và bảo họ: “Ai trong các ông
sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi.” Rồi Người lại cúi xuống viết
trên đất. Nghe vậy, họ bỏ đi hết, kẻ trước người sau, bắt đầu từ những người
lớn tuổi. Chỉ còn lại một mình Đức Giê-su, và người phụ nữ thì đứng ở giữa.
Người ngẩng lên và nói: “Này chị, họ đâu cả rồi? Không ai lên án chị sao?”
Người đàn bà đáp: “Thưa
ông, không có ai cả.” Đức Giê-su nói: “Tôi cũng vậy, tôi không lên án chị đâu!
Thôi chị cứ về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa!”
Lấy cảm hứng từ đoạn Phúc Âm dẫn trên, họa sĩ Pháp Nicolas
Poussin (1594-1665) vào năm 1653 đã vẽ bức sơn dầu trên bố Đức Ki-tô Và Người Phụ Nữ
Ngoại Tình (Le Christ et la femme
adultère).
Mục sư Wilson
thì dựa theo Gio-an 8:2-11 mà kể câu chuyện Tôi
Cũng Không Lên Án Chị Đâu (Neither Do
I Condemn You) theo văn tài của ông.
Ralph
F. Wilson kể chuyện như sau
Có thật điều này đang xảy ra? Gia-cóp ben-Giu-se phân vân tự hỏi. Mới
phút trước đám đông còn đang ngồi trong bóng râm cổng vòm đền thờ Sa-lô-môn vào
buổi sớm mai. Chỉ nghe tiếng những con bồ câu gù gù và lũ trẻ lặng lẽ chơi đùa
ngoài rìa đám đông ấy, ngoài ra là lời lẽ dịu dàng mà quyền uy của Đức Giê-su
vang dội giữa những bức tường. Thiên hạ mê mẩn lắng nghe.
Bất thình lình một tiếng đàn bà kêu thét lên “không,
không” khi tốp đàn ông ăn vận đẹp đẽ lôi chị ta sềnh sệch qua chỗ đám đông để
kéo chị tới chỗ Đức Giê-su đang ngồi. Nước mắt kéo thành vệt trên mặt chị, và
chị bấu chặt lấy manh áo ngủ mỏng dính ghì vào ngực, khiếp hãi và sượng sùng.
Đức Giê-su ngưng bài giảng và chờ đợi. Kẻ phát ngôn của
tốp người kia là một ông Pha-ri-sêu cao tuổi, có thể đoán như vậy nếu xét theo
cách y ăn vận. Y vụt vào Đức Giê-su lời thách thức: “Nè, ông!” Y rống lên để
cho tất cả mọi người đều nghe: “Con đàn bà này bị bắt quả tang đang ngoại tình.
Theo luật, Mô-se ra lệnh cho chúng tôi phải ném đá những con đàn bà như thế.
Còn ông nói sao hử?”
Lúc này Gia-cóp đã nhận ra chị ta, và trong mấy giây đám
đông đã yên lặng trở lại, ông có thể thấy chuyện gì đang xảy ra. Chị này là
người ở khu Et-xin của thành Giê-ru-sa-lem, và nhiều tháng qua thiên hạ cứ xầm
xì về việc chị dan díu với một lái buôn người Ai Cập. Gia-cóp thừa biết rằng,
nếu như mấy ông Pha-ri-sêu này thực sự quan tâm tới việc bảo vệ luân thường đạo
lý, thì lẽ ra họ đã tóm lấy chị ta nhiều tháng trước rồi. Nhưng sáng nay họ ắt
hẳn đã xông vào giường ngủ của cặp tình nhân với hai người làm chứng theo luật
định, và lôi chị sềnh sệch vào sân đền thờ chỉ cốt để đặt Đức Giê-su vào tình
huống nan giải. Đức Giê-su nổi tiếng là đã dang rộng đôi tay đón nhận để cho
phường thu thuế và gái bán phấn buôn hương lẫn kẻ tội lỗi đều được đến các buổi
giảng của Chúa, nên các ông Pha-ri-sêu đang cố gài bẫy cho Chúa chống lại luật
Mô-se, còn họ thì đứng lùi lại để xem Chúa lách ra khỏi cái bẫy của họ thế nào.
Chuyện này thực sự thú vị đây! Gia-cóp nghĩ thầm.
Sau lời thách thức của ông Pha-ri-sêu cao tuổi, Đức Giê-su
đang ngồi trên sân đền lát đá đưa mắt nhìn vào ánh mắt long sòng sọc của y rồi
nhìn xuống mặt sân đền, và Chúa bắt đầu viết lên lớp bụi phủ dày các phiến đá.
Gia-cóp nghĩ có lẽ là những nét nguệch ngoạc. Các ông Pha-ri-sêu điên tiết vì Đức
Giê-su chẳng trả lời, họ tản ra và xầm xì to nhỏ với nhau.
Đúng ngay lúc đó Đức Giê-su ngẩng lên nhìn ông Pha-ri-sêu
lớn tuổi đang ngạo nghễ ngó xuống Chúa. Chúa bình thản nói: “Ai trong các ông
không phạm tội… sao không là người đầu tiên ném đá chị ta?” Rồi Chúa cúi người
xuống và lại bắt đầu viết nguệch ngoạc trên lớp bụi.
Gia-cóp há hốc miệng. Kinh
ngạc! Nếu tôi sẵn sàng tuyên án kẻ khác, thì tội lỗi của chính tôi phải sao
đây? Ai sẽ rủ lòng thương xót tôi?
Các ông Pha-ri-sêu tức giận. Đức Giê-su cho phép họ rồi,
nhưng ai sẽ nhặt lấy hòn đá và bắt đầu thủ tục trừng phạt? Đám đông chờ xem họ.
Ai dám sẵn lòng phơi bày những hành vi đời mình cho láng giềng của mình soi bói
xét đoán? Ai dám cả gan giả vờ rằng mình không tội lỗi?
Từng giây từng giây trôi qua, và mau chóng thấy rõ là rốt
cuộc chẳng có gì xảy ra. Những ông Pha-ri-sêu nhỏ tuổi liếc nhìn đám đàn anh
chờ một ám hiệu. Chả có chi hết. Thế rồi ông Pha-ri-sêu lớn tuổi lẻn vào đám
đông mà bỏ đi, cố không để ai phát hiện. Đám nhỏ tuổi hơn liền vội vã nối gót
ông ta, nhưng cố không để tỏ ra là đang tháo chạy. Mọi con mắt dõi theo họ cho
tới khi tiếng bước chân cuối cùng lịm tắt.
Đức Giê-su ngẩng nhìn người phụ nữ, lúc này đang đứng
trước nhóm người vẫn còn ngồi đấy. Chúa nói với chị như thể chỉ có mình chị lẻ
loi trong sân. Chúa hỏi dịu dàng: “Này chị, mấy kẻ buộc tội chị đâu cả rồi?
Chẳng có ai lên án chị sao?”
Chị khẽ khàng: “Lạy Chúa, chẳng một ai.”
Chúa bảo: “Vậy thì tôi cũng không lên án chị đâu. Bây giờ
chị có thể đi…”
Khi chị ta dợm rời đi, Chúa bảo thêm: “Nhưng chị à, chị
phải bỏ cuộc sống tội lỗi của chị.”
Gia-cóp
hầu như có thể thấy được chị ta hít vào thật sâu. Hy vọng ngập tràn trong đôi
mắt ấy. Chị gật đầu chào Đức Giê-su, và bắt đầu bước vào cổng đền thờ với vẻ
quả quyết của một phụ nữ cuối cùng đã quyết định điều phải làm, và nhất quyết
phải làm bằng được cái điều ấy.
Huệ
Khải
Nhiêu Lộc, 01-4-2015
Sửa chữa 07-4-2019
Nguyệt san CGvDT số 244, tháng 4-2015