10. KẺ CƯỚP ĐƯỢC VÀO THIÊN ĐÀNG
Phúc Âm theo Thánh Lu-ca (23:33) chép rằng Đức Giê-su
bị quân dữ đóng đinh trên Đồi Sọ (Gôn-gô-tha), cùng lúc với hai tên gian phi,
một tên bên phải, một tên bên trái.
Một trong hai tên gian phi thấy quân dữ xúm lại nhục
mạ Chúa đủ điều thì cũng hùa theo, biếm nhẽ Chúa. Tên kia bất bình, mắng nó:
“Mày đang chịu
chung một hình phạt, vậy mà cả Thiên Chúa, mày cũng không biết sợ! Chúng ta
chịu như thế này là đích đáng, vì xứng với việc đã làm. Chứ ông này đâu có làm
điều gì trái!”
Rồi anh ta quay sang thưa với Chúa:
“Ông Giê-su ơi,
khi ông vào Nước của ông, xin nhớ đến tôi!”
Lúc ấy, Đức Giê-su trả lời:
“Tôi bảo thật
anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng.”
Lấy cảm hứng từ đoạn Phúc Âm dẫn trên (Lu-ca 23:39-43), họa sĩ Đức Albrecht Dürer (1471-1528) vào năm 1505 đã miêu tả tỉ mỉ tướng mạo kẻ cướp thứ hai trên thập giá qua bức vẽ Kẻ Cướp Tốt Lành. Hơn ba thế kỷ sau, vào năm 1896, họa sĩ Pháp James J. Tissot (1836-1902) vẽ bức tranh Linh Hồn Kẻ Cướp Sám Hối Lên Thiên Đàng.
Mục sư
Trong chuyện kể,
Wilson chẳng những đặt tên cho kẻ gian phi thứ nhất là Giếch, mà còn bảo rằng
kẻ thứ hai trước kia đã từng gặp Đức Giê-su ở Giê-ri-khô trong bữa tiệc tại nhà
ông Da-kêu là người giàu có và đứng đầu các nhân viên thu thuế (Lu-ca 19:1-6).
Phúc Âm không nói rõ
kẻ gian ấy đã phạm những tội gì, nhưng Wilson phỏng theo dụ ngôn người Sa-ma-ri
tốt lành (Lu-ca 10:30) mà kể rằng kẻ ấy vốn dĩ là quân cướp đường tàn bạo, cứ rình
mò cơ hội tấn công những lữ khách đơn chiếc đi từ Giê-ru-sa-lem xuống
Giê-ri-khô. Chẳng những lột sạch họ, y còn đánh họ nhừ tử, rồi bỏ đi, để mặc
nạn nhân dở sống dở chết.
Ralph F. Wilson kể chuyện như sau
Tôi không thuộc về nơi này. Thật sự là
không. Thiên Đàng là chốn sau cùng tôi mong được về, sau tất cả những gì tôi đã
gây tạo trong đời. Để tôi kể bạn nghe chuyện của tôi.
Tôi là, à không, tôi
đã là kẻ cướp có vũ trang. Tôi và Giếch cùng mấy tên khác nữa thường trú ẩn
trong các hang động của vùng núi đồi Giu-đê, gần con đường nối liền
Giê-ru-sa-lem và Giê-ri-khô. Chúng tôi kiếm ăn bằng bạo lực. Chúng tôi thường
không tấn công những nhóm đông người. Họ đi thành đoàn để được an toàn. Nhưng
một gia đình lẻ loi thường dễ xơi ngon, cũng như bất kỳ kẻ lữ hành nào ngu dại một
mình đơn độc.
Huơ huơ một khúc cây
to khỏe thường đạt được kết quả mong muốn. Cứ dọa đánh đập thì họ sẽ đầu hàng,
khỏi cần phải xuống tay. Nhưng trong đời tôi đã từng nện vài kẻ gãy xương. Xin Thiên
Chúa xá tội cho tôi. Tôi không nghĩ rằng mình đã thực sự giết ai chết, nhưng
tôi chưa hề láng cháng ở hiện trường đủ lâu để kiểm chứng điều đó.
Lần đầu tiên tôi gặp ông Giê-su là hôm tôi được mời
dự bữa tiệc đón mừng ông tại Giê-ri-khô trong nhà một người thu thuế giàu sụ
tên là Da-kêu. Tôi được giới thiệu, chúng tôi bắt tay nhau, và ông Giê-su nhìn
vào mắt tôi một lúc lâu. Ông có thể nhìn thấu suốt con người tôi, biết tôi là
ai, thấy mọi tội ác tôi từng gây ra. Thế rồi ông nở rộng nụ cười thân thiện.
Ông bảo: “Anh biết đấy, có sự tha thứ dành cho anh trong Nước của tôi. Ý anh
thế nào nhỉ?”
Tôi sụp mắt xuống, nói gì đó không phải là lời hứa
hẹn, và lỉnh đi chỗ khác. Hôm sau tôi ở trong đám đông, nuốt lấy từng lời ông
giảng. Ông Giê-su nói về Nước của ông, ví nó với một hạt cải,([2]) gọi đó là Nước
Trời. Sau khi ông giảng xong, tôi rất muốn tới gặp ông để nói là tôi chấp nhận
sự tha thứ dành cho tôi trong Nước Trời. Nhưng tôi không thể nào nhích chân bước
tới.
Tôi ước gì mình đã tới gặp ông hôm ấy. Không lâu sau
đó tôi và thằng Giếch bạn tôi (cái gã trên thập giá thứ ba) bị đội tuần tra La
Mã bắt gặp. Mấy tên khác chạy mất dạng, riêng hai đứa tôi bị tóm cổ, bị đánh
nhừ tử, bị lôi xềnh xệch về Giê-ru-sa-lem, và bị quẳng vào ngục. Chẳng ai thèm
thương xót những kẻ như bọn tôi.
Rất đỗi tình cờ là cùng ngày đó họ đóng đinh ông
Giê-su. Họ cũng đóng đinh tôi và Giếch, đứa bên trái ông, đứa bên phải. Đây
chẳng phải là bất kỳ một vụ đóng đinh bình thường nào. Những đám người tụ tập
đông nghẹt ở đó chỉ vì ông Giê-su. Những kẻ Pha-ri-sêu tự xưng là công chính đang
vênh vênh váo váo và buông lời biếm nhẽ. Một tên giễu cợt: “Nếu ông là Đấng
mê-si-a gì đó, thì hãy bước xuống khỏi thập giá xem sao. Nếu ông là Đấng cứu
thế, thì hãy tự cứu mình đi. Thách ông đó!”
Giếch cũng bắt đầu nhạo báng. Tôi quát nó: “Quân côn
đồ khốn kiếp! Mày chẳng sợ Thiên Chúa chút nào sao? Mày không thấy là tụi mình
sắp chết giống hệt như ông ấy sao? Hãy tỏ chút lòng kính trọng đi! Tụi mình chịu
chết cũng đáng đời thôi, còn ông ấy nào có làm gì sai trái đâu.”
Giếch im mồm và bọn người Pha-ri-sêu mất hết hứng
thú. Nhưng tôi không sao xua Giê-ri-khô ra khỏi tâm trí mình. Tôi không thể
quên ánh mắt ông Giê-su, lời ông nói, việc ông mời gọi. Thế là tôi gọi vói sang
ông, dẫu rằng đang khó thở và nói chuyện thì càng khiến khó thở hơn.
“Giê-su!” Tôi lên
tiếng. Ông quay đầu sang phía tôi. “Giê-su, tôi đã ở đó, tại Giê-ri-khô. Tôi đã
gặp ông tại bữa tiệc ở nhà ông Da-kêu. Ông nhớ chứ?”
Ông nhìn tôi một lúc và rồi khẽ gật
đầu. Ông ấy nhớ rồi.
“Tôi chưa bao giờ
quên điều ông bảo. Tôi muốn nói vâng lời ông, nhưng chẳng thể mở miệng. Và bây giờ xin
hãy nhìn tôi, hãy nhìn chúng ta!”
Với một hình hài thật tệ hại, ông kiệt lực trong nỗi
đớn đau đày ải, tấm lưng rỉ máu, hơi thở nặng nhọc. Ông chẳng còn trụ được bao
lâu nữa. Tôi có thể thấy như thế. Nhưng chẳng hiểu sao tôi lại có thể nhìn thấy
vượt quá tất cả những hình ảnh bề
ngoài đó. Ông đã là Đấng Mê-si-a, vẫn đang
là Đấng Mê-si-a, bất kể những gì đám thầy tu kia, bọn La Mã ấy và những kẻ
Pha-ri-sêu nọ đã xuống tay hãm hại ông. Và khi chết, ông sẽ ở cùng Thiên Chúa.
Trong vài giờ nữa, có thể sớm hơn, ông sẽ được minh chứng. Ông sẽ ngự trị ở
Nước Trời, là cái cõi ông đã nói cho chúng ta biết.
“Giê-su!” Tôi lại gọi nữa, lần này khẽ khàng hơn.
Ông mở mắt ra. Vẫn y
hệt đôi mắt ấy, vẫn đôi mắt nhìn thấu tâm can kẻ khác, thương yêu, trung thực.
Tôi nói: “Giê-su,
khi ông vào tới Nước của ông, ông sẽ nhớ tôi chứ?”
Lời ông nghe nhọc
nhằn, đôi môi ông khát khô nứt nẻ, nhưng tôi vẫn có thể nghe được tiếng ông khá
rõ. “Quả
thật, tôi nói với anh…” Giọng ông rời rạc, rồi thì rõ ràng hơn được một lúc.
“Quả thật, đúng ngày hôm nay anh sẽ ở cùng tôi trên Thiên Đàng.”
Đôi mắt ông sụp xuống. Lúc này ông như ngọn đèn dầu đang
chóng vánh tàn lụn. Nhưng tôi tin ông. Tôi
vững tin ông. Đó là điều chiếm lĩnh tâm trí tôi suốt mấy giờ liền trước khi
bị đánh gãy hai chân cho chết đi. Tôi
vững tin ông.
Và rồi tôi thấy mình ở đây, trên Thiên Đàng. Tôi chắc chắn rằng tôi
nào xứng đáng để được ở đây, nhưng bất kể gì đi nữa, tôi đang ở đây. Tôi đoán
đó là điều một kẻ như tôi thọ nhận khi chính Đức Vua ân xá. Ơn toàn xá. Kinh
ngạc lắm, bạn chẳng nghĩ thế ư?
Huệ Khải
Nhiêu
Lộc, 31-3-2019
Sửa
chữa 08-4-2019
Nguyệt
san CGvDT, số 292, tháng 4-2019